intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Tiên Nguyên (1945-2015)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:143

8
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách nhằm phản ánh chân thực quá trình hình thành và phát triển, truyền thống quý báu, nét đẹp văn hóa của nhân dân các dân tộc xã Tiên Nguyên cũng như những thành quả bước đầu trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt, cuốn sách đã phản ánh con đường đến với ánh sáng cách mạng của Đảng, quá trình phấn đấu, xây dựng Chi bộ, Đảng bộ vững mạnh, giữ vững “Niềm tin theo Đảng” của cán bộ, đảng viên và Đảng bộ xã Tiên Nguyên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Tiên Nguyên (1945-2015)

  1. LỜI GIỚI THIỆU Tiên Nguyên - mảnh đất gắn liền với câu chuyện “Ao Tiên - Cá Vàng” huyền thoại gợi mở cho mỗi con người về một vùng đất thơ mộng với những con người hiền hòa, nhân hậu nhưng cũng không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Từ giai đoạn đầu là một Bản (Vèn) của xã Tụ Nhân (huyện Hoàng Su Phì) đến sau này đi theo ánh sáng của cách mạng, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành chính quyền và thành lập chính quyền cách mạng, nhân dân các dân tộc xã Tiên Nguyên luôn cần cù, chịu khó, đoàn kết vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách của thiên nhiên, đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ vững thành quả cách mạng, gìn giữ nét đẹp văn hóa, truyền thống dân tộc và xây dựng xã Tiên Nguyên ngày càng phát triển, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhằm ghi nhớ công lao của các bậc tiền bối; ôn lại truyền thống quý báu của nhân dân trên địa bàn xã cũng như sự ra đời và phát triển của Đảng bộ xã Tiên Nguyên, ghi lại những thành quả mà nhân dân xã Tiên Nguyên dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được làm cơ sở để giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho nhân dân và toàn Đảng bộ nhất là đối với thế hệ trẻ, góp phần khơi dậy lòng tự hào, củng cố niềm tin không ngừng đóng góp công sức, trí tuệ cho công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Được sự chỉ đạo, giúp đỡ của Thường trực Huyện ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Tiên Nguyên đã xây dựng kế hoạch, tiến hành sưu tầm và biên soạn cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Tiên Nguyên 1945 - 2015”. Cuốn sách nhằm phản ánh chân thực quá trình hình thành và phát triển, truyền thống quý báu, nét đẹp văn hóa của nhân dân các dân tộc xã Tiên Nguyên cũng như những thành quả bước đầu trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt, cuốn sách đã phản ánh con đường đến với ánh sáng cách mạng của Đảng, quá trình phấn đấu, xây dựng Chi bộ, Đảng bộ vững mạnh, giữ vững “Niềm tin theo Đảng” của cán bộ, đảng viên và Đảng bộ xã Tiên Nguyên. 3
  2. Tuy nhiên, do gặp nhiều khó khăn về sưu tầm tài liệu, nên việc biên soạn cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong nhận được sự bổ sung, đóng góp của các đồng chí cùng bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau. Xin chân thành cảm ơn Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy, các đồng chí nguyên cán bộ, lãnh đạo xã qua các thời kỳ đã đóng góp ý kiến, công sức góp phần vào thành công việc biên tập cuốn sách. Trân trọng giới thiệu đến đồng chí và bạn đọc. Tiên Nguyên, tháng năm 2016 T/M BCH ĐẢNG BỘ XÃ TIÊN NGUYÊN BÍ THƯ Lò Mùi Hàn 4
  3. (Bản đồ hành chính xã Tiên Nguyên - Quang Bình - Hà Giang) 5
  4. CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI XÃ TIÊN NGUYÊN Tiên Nguyên là xã vùng cao núi đất cách trung tâm huyện Quang Bình 25 km về phía Tây Bắc, phía Bắc giáp xã Thông Nguyên và xã Nậm Khòa (huyện Hoàng Su Phì), phía Nam giáp xã Tân Bắc, phía Tây giáp xã Tân Nam và Thị trấn Yên Bình, phía Đông giáp xã Xuân Minh (huyện Quang Bình). Từ xa xưa, vùng đất xã Tiên Nguyên ngày nay là Bản Vèn thuộc xã Tụ Nhân huyện Hoàng Su Phì của châu Bình Nguyên (Tuyên Quang). Đến cuối thời Lê, châu Bình Nguyên đổi tên là châu Vị Xuyên thuộc phủ Tương Yên tỉnh Tuyên Quang của Nhà nước Đại Việt. Dưới thời Nguyễn vào năm Minh Mệnh thứ 16 (1821), Nhà nước đổi tên thành huyện Vị Xuyên thuộc phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1884, Nhà Nguyễn ký hiệp ước Pa tơ nốt dâng nước ta cho Pháp, từ đó, thực dân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng trên cả nước. Đến tháng 9/1895, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị và thành lập tiểu quân khu Bắc Quang, vùng đất Tiên Nguyên thuộc tiểu quân khu Bắc Quang. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhưng địa bàn Tiên Nguyên lại thuộc vùng kiểm soát của Quốc Dân Đảng; dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Bắc Quang và cán bộ Việt Minh đến tháng 10 năm 1948, nhân dân xã Tiên Nguyên giành được chính quyền, Ủy ban hành chính cách mạng huyện Bắc Quang công bố quyết định của (Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu 10) thành lập Ủy ban hành chính cách mạng xã Tiên Nguyên nằm trong tiểu khu Thông Nguyên thuộc huyện Bắc Quang (Tiểu khu Thông Nguyên gồm 3 xã Thông Nguyên, Tiên Nguyên và Tân Lập). Tháng 12 năm 1975, theo quyết định của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên, xã Tiên Nguyên trực thuộc huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Tuyên. Cuối năm 1982, Quốc hội khóa VII quyết định chuyển 12 xã của huyện Bắc Quang sang các huyện Xín Mần, huyện Hoàng Su Phì và huyện Vị Xuyên, xã Tiên Nguyên được chia tách về trực thuộc huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Tuyên. Đến tháng 10 năm 1991, thực hiện quyết định của Quốc hội khóa VIII, tỉnh Hà Tuyên được chia tách thành 2 tỉnh: Hà Giang và Tuyên Quang, xã Tiên Nguyên thuộc huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang. 6
  5. Năm 2003, thực hiện Nghị định 146/2003/NĐ-CP, ngày 01/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc thành lập xã thuộc huyện Bắc Quang và thành lập huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang”, xã Tiên Nguyên được chia tách về huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang với tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 10.102,22 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 1.400,81 ha, chiếm 13,86%; diện tích đất lâm nghiệp là 7.787,2 ha, chiếm 77,1%; đất chuyên dùng là 24,83ha, chiếm 0,24%, còn lại là 889,38 ha đất rừng đầu nguồn, khe sâu, đất đá, đồi núi trọc. Hiện nay, xã Tiên Nguyên gồm 14 thôn, bản gồm: Tân Tiến, Nậm Cài, Tây Sơn, Cao Sơn, Trung Thành, Hồng Sơn, Xuân Hồng, Quang Sơn, Thượng Bình, Hạ Bình, Thượng Minh, Xuân Chiều, Xuân Hòa và Hòa Bình. Tên gọi địa danh Tiên Nguyên gắn liền với câu truyện huyền thoại trên đỉnh núi “Ao tiên cá vàng”. Tương truyền rằng: ngày xửa, ngày xưa tại khu vực này xảy ra trận đại hồng thủy, nơi đây chỉ sót lại 2 đỉnh núi cao phía Nam và phía Tây với độ cao hơn 1.800 m, sau trận đại hồng thủy, Ngọc Hoàng sai các cô Tiên xuống trần gian giúp người dân trị thủy và hồi sinh lại vạn vật. Trên đỉnh núi phía Tây được Ngọc Hoàng chọn làm nơi cư trú của các nàng tiên, trên núi có ao thả cá trong đó có linh vật là viên ngọc quý và đôi cá chép vàng, ở khu vực quanh ao được trồng nhiều loại cây ăn quả, cây thảo quả, cây tam thất và các loại dược liệu quý để làm thuốc chữa trị bệnh cho người dân. Truyện còn kể rằng nhờ có những cây thuốc tiên trên đỉnh núi đó đã giúp cho người dân chữa khỏi nhiều loại bệnh tật, người dân biết trồng cấy nhiều loại cây trái, cuộc sống của người dân luôn đầm ấm, an vui. Để ghi nhớ công đức các nàng tiên, nhân dân trên địa bàn đã đặt tên cho vùng đất này là “Tiên Nguyên”. Đến năm 1948, sau khi giành chính quyền và thành lập Ủy ban hành chính cách mạng chính thức đặt tên cho vùng đất này là xã Tiên Nguyên. Hiện nay, trên đỉnh núi phía Tây vẫn còn những dấu tích minh chứng cho câu truyện huyền thoại này. Là xã vùng cao của huyện Quang Bình, Tiên Nguyên có địa hình khá phức tạp, có nhiều núi cao, vực sâu, độ dốc lớn, các dãy núi kết cấu chủ yếu theo dạng vòm, nối nhau liên tiếp theo hướng thấp dần từ phía Bắc xuống phía Nam, trong đó có nhiều ngọn núi cao trên 1.000 m, xen kẽ với các dãy núi cao là các thung lũng với những dải đất hẹp. Với dạng địa hình như vậy tạo ra cho địa bàn xã Tiên Nguyên khí hậu mát mẻ quanh năm với nhiệt độ trung bình năm từ 20 ◦C - 32◦C. Xã có nhiều núi dốc, khe sâu nên địa hình xã Tiên Nguyên cũng bị chia cắt bởi nhiều con suối lớn, nhỏ trong đó có các con suối lớn như: Nậm Hóp, Nậm Phung, Nậm Hò và suối Nậm Po. Các con suối này chảy gặp nhau ở trung tâm xã 7
  6. Tiên Nguyên rồi chảy về xã Xuân Minh hợp cùng suối Thông Nguyên của huyện Hoàng Su Phì tạo thành con Sông Bạc từ đó tiếp tục xuôi về xã Tân Trịnh; ở phía Nam của xã còn có suối Khuổi Mạ chảy qua địa phận các thôn Xuân Hòa, Hòa Bình hợp với các suối nhỏ khác chảy về Sông Chừng. Ngoài các con suối trên, địa bàn xã còn nhiều khe nước nhỏ phân bố đều khắp địa bàn xã. Với điều kiện địa hình và phân bố dòng chảy như vậy tác động không nhỏ đến đời sống và sản xuất của nhân dân. Hằng năm, vào mùa mưa thường xảy ra sạt lở đất, lũ ống, lũ quét gây ách tắc giao thông, mùa đông thời tiết rét đậm, rét hại ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi. Mặc dù vậy, nhân dân đã biết tận dụng và khai thác những mặt thuận lợi của tự nhiên để phục vụ sản xuất và đời sống như: tận dụng các nguồn nước từ các con suối để tưới tiêu phục vụ sản xuất, lắp đặt máy phát điện mi ni... đáp ứng một phần nhu cầu sản xuất, sinh hoạt hàng ngày của nhân dân. Do có nhiều núi non hiểm trở, khe suối sâu ngăn cách nên hệ thống giao thông trên địa bàn xã phát triển tương đối chậm. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trên địa bàn xã chủ yếu là các tuyến đường mòn nối liền các thôn bản với nhau. Sau khi giành được chính quyền, nhất là từ khi huyện Quang Bình được thành lập, được sự quan tâm của Nhà nước và cấp ủy, chính quyền tỉnh, huyện, hệ thống đường giao thông trên địa bàn xã đã được đầu tư xây dựng giúp nhân dân đi lại tương đối thuận tiện trong đó tuyến đường huyết mạch nối từ trung tâm xã đến trung tâm huyện Quang Bình dài 25 km (đấu nối với Quốc lộ 279 tại Km 17 Bắc Quang - Quang Bình); đường giao thông liên thôn, đường từ Tiên Nguyên đến các xã lân cận cũng được đấu nối thông suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân. Bên cạnh việc phát triển hệ thống đường giao thông, hệ thống hạ tầng cơ sở như trụ sở xã, trường học, trạm y tế, điện lưới quốc gia, thông tin liên lạc… đã được đầu tư xây dựng khang trang, góp phần nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Với trên 2/3 diện tích là đất đồi, núi (7.787,2 ha), xã Tiên Nguyên có nhiều tiềm năng để phát triển lâm nghiệp. Trước đây, Tiên Nguyên là một địa bàn rừng rậm phủ kín với quần thể động, thực vật phong phú trong đó có nhiều loại cây cho gỗ quý như Sến, Táu, Dổi, Bồ Hương, Sâng…; các loại dược liệu quý như Tam thất, Thảo quả…; nhiều loại cây cho củ, cho quả có thể nuôi sống con người, các loại cây cho nhựa làm chất gắn, thắp sáng, làm chất nhuộm cùng với các loại tre, trúc, mây... Bên cạnh thảm thực vật đa dạng, đây còn là nơi trú ngụ của nhiều loại động vật quý hiếm như: Hổ, báo, sơn dương, nai, lợn rừng, chồn, khỉ, cầy hương, nhím, các loài chim... Tuy nhiên, do khai thác quá mức của con 8
  7. người, các loại động, thực vật kể trên đến nay còn lại không nhiều, chủ yếu ở khu vực núi cao. Hiện nay, để phát huy tiềm năng, lợi thế của đất rừng, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự lãnh, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, chính quyền huyện, Đảng bộ, chính quyền xã Tiên Nguyên đã lãnh, chỉ đạo, vận động nhân dân trên địa bàn xã tích cực triển khai dự án trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, đẩy mạnh giao đất, giao rừng đến hộ gia đình, tập trung phát triển rừng kinh tế từ đó không ngừng nâng cao diện tích rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc trên địa bàn xã và nơi đầu nguồn sông bạc, góp phần phát triển kinh tế, giảm thiểu ảnh hưởng của thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái. Tại khu vực các thung lũng, nhân dân trên địa bàn xã đã khai phá đất để sản xuất nông nghiệp, trong sản xuất lương thực lấy cây lúa làm cây trồng chủ lực để đảm bảo lương thực cho nhân dân; do điều kiện khí hậu, địa hình nên việc trồng thử nghiệm một số cây mới trên địa bàn xã trong thời gian gần đây như cam, quýt, vải thiều… không mang lại hiệu quả nên ngoài trồng lúa, nhân dân tận dụng diện tích đất để trồng cây lâm nghiệp và phát triển chăn nuôi, trong đó thế mạnh của xã là phát triển cây chè Shan tuyết, trong những năm gần đây đã trở thành cây mũi nhọn được cấp ủy, chính quyền chỉ đạo nhân dân ưu tiên mở rộng diện tích trồng gắn với xây dựng cơ sở chế biến, sản phẩm chè Tiên Nguyên đã từng bước đưa ra thị trường trong và ngoài huyện, thương hiệu chè Tiên Nguyên từng bước được khẳng định mang lại nguồn lợi kinh tế chủ yếu cho nhân dân trên địa bàn xã. Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, nhân dân còn duy trì và phát triển các nghề thủ công truyền thống phục vụ sản xuất và sinh hoạt như: rèn dao, cuốc, sẻng, đúc lưỡi cày. Nhiều hộ gia đình còn trồng bông dệt vải, thêu hoa văn họa tiết trên mặt vải, đan lát các đồ dùng phục vụ sinh hoạt thể hiện sự khéo léo, sáng tạo qua quá trình chinh phục tự nhiên, phục vụ cuộc sống của con người. Trong những năm gần đây, căn cứ vào điều kiện thực tiễn địa phương, cấp ủy, chính quyền xã lãnh, chỉ đạo nhân dân tập trung vào sản xuất các loại cây con chủ lực trong phát triển kinh tế tập trung vào phát triển diện tích, sản lượng và xây dựng thương hiệu chè Tiên Nguyên gắn với phát triển gia súc hàng hóa và sản xuất lúa nước để đảm bảo lương thực cho nhân dân. Xã Tiên Nguyên là nơi sinh sống của 5 dân tộc anh em là (Dao, Tày, Kinh, Mông, Nùng), trong đó dân tộc Dao chiếm trên 80% tổng số dân. Dân số toàn xã là 4.563 khẩu, 913 hộ (tính đến tháng 01/2015); mật độ dân cư 45 người/Km 2 nhưng phân bố không đều, nhân dân thường sống tập trung theo dòng họ gắn với điều kiện sản xuất, canh tác ruộng nương. Nhân dân các dân tộc Tày, Kinh và 9
  8. Dao tiểu bản quần cư trong các thung lũng ven các suối, trong khi đó đồng bào Dao đại bản và các hộ dân tộc H’Mông chủ yếu sinh sống ở sườn núi cao, trước đây thường hay du canh, du cư phát nương làm rẫy. Hiện nay, được cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương tuyên truyền vận động kết hợp với việc giao đất, giao rừng đến từng hộ gia đình trồng, quản lý và bảo vệ nên cuộc sống của đồng bào được ổn định. Từ xa xưa, trong quá trình kề vai sát cánh bên nhau để xây dựng và bảo vệ bản làng, ngoài việc tạo ra những giá trị vật chất, nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã đã tạo ra những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần mang bản sắc riêng của từng dân tộc, sau mỗi mùa vụ vào những dịp lễ tết đồng bào thường tổ chức những buổi sinh hoạt văn hóa độc đáo riêng của mình: các chàng trai, cô gái H’Mông thổi khèn, nhảy múa trong những ngày lễ, tết; người dân tộc Tày tổ chức Lễ hội Lồng Tồng (xuống đồng) vào ngày mùng 3 tết Nguyên Đán hằng năm để cầu các vị thần nông, thần sông, thần núi phù hộ cho thời tiết tốt, mùa màng bội thu. Đây là dịp sinh hoạt văn hóa của cộng đồng với nhiều chò trơi dân gian như đu quay, đánh yến, bắn nỏ, tung còn, hát cọi,… Đặc biệt, đồng bào dân tộc Dao nơi đây có lễ tục, nổi bật nhất là lễ cấp sắc, được tổ chức cho thanh niên đến tuổi trưởng thành để công nhận là thành viên đủ tư cách của cộng đồng; hoạt động văn hóa và nghệ thuật cũng rất đa dạng với nhiều bài thơ ca, tục ngữ, tiêu biểu là làn điệu “Páo Dung” được lưu truyền từ lâu đời cho đến ngày nay; bên cạnh đó đồng bào dân tộc Dao có nhiều nghề thủ công truyền thống tạo ra sản phẩm văn hóa vật chất được lưu giữ cho đến ngày nay như sản phẩm vải dệt, đan lát rổ rá, thêu thùa, nghề rèn đúc cày, cuốc, làm giấy bản; nghề thêu dệt các hoa văn họa tiết trên mặt vải của phụ nữ người Dao được thể hiện rất tinh túy thể hiện sự sáng tạo của nhân dân. Ngày nay, văn hóa các dân tộc trên địa bàn xã Tiên Nguyên được đan xen hài hòa giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại tạo nên sự thống nhất và đa dạng, mang bản sắc riêng của nhân dân các dân tộc xã Tiên Nguyên. Các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng được tổ chức thường xuyên tạo điều kiện cho nhân dân tham gia và thưởng thức góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân. Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm, nhân dân các dân tộc nơi đây đã sớm ý thức tự xây dựng cho mình những đức tính tốt đẹp đó là truyền thống kết nghĩa anh em, đoàn kết cộng đồng; giữa các dân tộc hình thành đặc tính chung quý báu là ý thức độc lập, tự chủ, chí căm thù giặc ngoại xâm, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, khiêm tốn học hỏi, vượt 10
  9. khó đi lên... những đức tính đó đã tạo nên sức sống mãnh liệt để nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã cùng nhau tồn tại trước những thử thách nghiệt ngã của thiên nhiên và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Từ khi thực dân Pháp đặt ách cai trị với chính sách “ngu dân”, “chia để trị”, nhân dân xã Tiên Nguyên bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, tối tăm về văn hóa tinh thần, bị áp bức bóc lột cùng cực về kinh tế, bị tra tấn về thân thể… nhưng chúng không thể dập tắt được ngọn lửa đấu tranh để gìn giữ, bảo vệ cuộc sống của đồng bào các dân tộc nơi đây. Năm 1901, nhân dân các dân tộc Tiên Nguyên đã tích cực hưởng ứng phong trào đấu tranh chống lại các thế lực đương quyền của hai anh em Triệu Tiến Kiên và Triệu Tiến Lộc ở xã Vĩ Thượng và cùng nghĩa quân tiến công đánh hai đồn Nặm Hóp và hai bốt tại thôn Bản Vèn để bảo vệ quê hương. Mặc dù không giành được thắng lợi nhưng nó đã thể hiện tinh thần đoàn kết, yêu nước, không cam chịu cảnh bị áp bức, bóc lột của nhân dân Tiên Nguyên. Và sau này, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Hồ Chủ tịch, nhân dân các dân tộc xã Tiên Nguyên từng bước giác ngộ, đi theo tiếng gọi của Đảng, đứng lên cùng nhân dân cả nước đấu tranh giành chính quyền. Ngày nay được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, sự lãnh, chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền huyện, sự sáng suốt, quyết tâm của cấp ủy, chính quyền xã, sự cố gắng không ngừng của các tầng lớp nhân dân, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã Tiên Nguyên không ngừng được cải thiện và nâng cao, nhân dân đã được hưởng những phúc lợi về vật chất, tinh thần như điện lưới quốc gia, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, các thiết bị nghe nhìn, hệ thống trường học, trạm y tế được xây dựng kiên cố, khang trang. Việc triển khai thực hiện các phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, phong trào xây dựng nông thôn mới ở các thôn đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nếp sống văn hóa được xây dựng và củng cố vững chắc, bộ mặt ở nông thôn ngày càng được khởi sắc và đổi mới. Xã Tiên Nguyên được hình thành, xây dựng và phát triển trải qua nhiều thăng trầm, dưới sự cai trị của thực dân Pháp và tay sai, nhân dân các dân tộc Tiên Nguyên đã phải chịu cảnh đói khổ, bần hàn, văn hóa tinh thần bị nô dịch ngu muội, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng đặc biệt là từ khi Chi bộ, Đảng bộ xã Tiên Nguyên được thành lập đã tích cực vận động nhân dân đi theo tiếng gọi của Đảng, Bác Hồ; nhân dân các dân tộc trên địa bàn đã đóng góp công sức vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, bảo vệ toàn vẹn biên giới lãnh thổ và đặc biệt là sau 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Tiên Nguyên đã giành được những 11
  10. kết quả tương đối toàn diện, kinh tế có bước phát triển, mặc dù điều kiện địa bàn xã không phát triển được đa dạng các loại cây trồng, vật nuôi nhưng đã xác định được cây trồng và vật nuôi thế mạnh là cây lúa, cây chè và chăn nuôi gia súc phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu trên địa bàn xã nhờ đó, kinh tế của nhân dân trên địa bàn có chuyển biến tích cực; các hoạt động văn hóa - thể thao được tổ chức thường xuyên, văn hóa truyền thống các dân tộc được duy trì và phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, giữ vững. Tháng 4 năm 2015, Đảng bộ xã Tiên Nguyên đã tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015 - 2020 trong đó xác định nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng, xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trên địa bàn ngày càng vững mạnh, góp phần xây dựng xã Tiên Nguyên ngày càng giàu, đẹp. CHƯƠNG II NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ TIÊN NGUYÊN TRONG CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954) 1. Tình hình Tiên Nguyên trước cách mạng tháng Tám năm 1945 Ngày 06/6/1884, triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Pa-tơ-nốt dâng nước ta cho thực dân Pháp, biến Việt Nam thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Ngay sau đó, thực dân Pháp mở rộng chiếm đóng toàn quốc, đến năm 1887 thực dân Pháp chiếm đóng tỉnh Hà Giang, chúng tổ chức bộ máy cai trị theo chế độ quân quản, Hà Giang thuộc đạo quan binh thứ ba, đứng đầu là một viên công sứ Pháp, đồng thời chúng nắm lấy thổ ty và những phần tử phản động để lập bộ máy thống trị từ tỉnh xuống đến các châu, xã. Chúng thực hiện chính sách chia để trị (chủ yếu nhằm mục đích chia rẽ tinh thần đoàn kết của nhân dân các dân tộc), và các chính sách ngu dân, khuyến khích nhân dân rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện... để dễ bề cai trị nhân dân ta. Đối với mỗi dân tộc khác nhau, thực dân Pháp thiết lập hệ thống tay sai với tên gọi khác nhau để dễ bề cai quản. Với các dân tộc Tày có Chánh tổng, phó tổng, lý trưởng, phó lý, tổng xã đoàn, Hội đồng kỳ mục; Người Dao có Động trưởng, chánh phó, quản chiểu; Người H’Mông chia thành giáp do bọn tổng giáp mã phài nằm dưới sự kiểm soát của Bang tá người H’Mông; Người Hoa chúng đặt chức Bang trưởng ở cấp cơ sở, người Kinh bị chia thành phường, đứng đầu là phường trưởng cai quản. 12
  11. Trên địa bàn xã Tiên Nguyên, thực dân Pháp dựa vào đội ngũ tay sai có nhiều nợ máu với nhân dân như Động trưởng, phó Động trưởng để dễ bề cai trị. Chúng dựng ông Lò Phụ Chìu dân tộc Dao ở thôn Nậm Hóp làm “Ly Chang” (chức Động trưởng), ông Lò Phụ Siang em trai của Lò Phụ Chìu làm chức Phó Động trưởng và ông Lò Phụ Mình em trai Lò Phụ Chìu làm chức quản chiểu thực thi việc giữ gìn an ninh ở cơ sở, bắt lính, truy lùng và áp giải tội phạm. Ngoài ra, mỗi thôn bản chúng dùng hai người làm mù lao, seo phả (chức trưởng bản, phó bản) để thực hiện các chính sách cai trị, mị dân nhằm tăng cường vơ vét thuế má, bắt phu, bắt lính cho chúng; nham hiểm hơn, chúng lợi dụng sự hạn chế về trình độ sản xuất, văn hóa xã hội giữa các dân tộc và tộc họ để nhân lên sự xích mích, hằn thù, miệt thị, phá hoại truyền thống đoàn kết vốn có của các dân tộc, để nhân dân không thấy được kẻ thù nguy hiểm trực tiếp của mình là thực dân Pháp và bọn tay sai của chúng. Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp tham chiến, từ đó Pháp càng đẩy mạnh hơn nữa chính sách vơ vét, bóc lột sức người, sức của của nhân dân ta để phục vụ chiến tranh. Người dân Tiên Nguyên đã bị tay sai của Pháp bắt đi phu mỗi năm từ 2 đến 3 lần, mỗi lần 15 - 20 ngày, cơm gạo ăn, dụng cụ lao động, chăn chiếu tự túc để làm đường, làm phụ xây các Lô cốt, đồn bốt ở Yên Bình, Lô cốt 1, Lô cốt 2 ở Nậm Hóp và 2 bốt ở thôn Bản Vèn, các Lô cốt ở cổng trời Nậm Ty, Nậm Ong (Hoàng Su Phì), nhiều người đi phu do lao động quá cực nhọc đã bị chết và mang bệnh tật trên người, những người muốn tránh nạn phu phen thì phải chạy tiền đút cho bọn lý trưởng, phó lý. Bên cạnh nạn phu phen, thực dân Pháp còn bắt những thanh niên khỏe mạnh đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng trên chiến trường, nhiều người bị ép tham gia vào đội lính đóng trong các xã đoàn, tổng đoàn. Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách thuế khóa hà khắc với nhiều loại thuế vô lý như thuế đinh đánh vào đàn ông từ 18 - 60 tuổi ngày một tăng, các loại thuế điền, thuế gia ốc, thuế thổ canh, thuế nuôi quân, thuế môn bài, thuế kiểm lâm, thuế sinh tử, thuế rượu, thuế ngựa thồ và đặc biệt là thuế nuôi ăn làm cho đời sống người dân đã cơ cực lại càng bần hàn hơn, nhiều người dân đã phải bán ruộng đất, bán trâu bò, vật dụng gia đình... thậm chí nhiều gia đình còn phải bán vợ, bán con nhưng cũng không đủ tiền nộp thuế. Nhiều gia đình không có gạo ăn phải lên rừng tìm đào củ nâu, củ mài về ăn; dùng nước tro bếp, cỏ tranh, dùng ót để thay thế muối. Dưới chính sách cai trị, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai, đời sống của nhân dân các dân tộc Tiên Nguyên cực khổ, nhiều người đã chết vì đói khát. 13
  12. Bên cạnh chính sách phu phen, tạp dịch, thâm độc hơn nữa, thực dân Pháp còn ra sức khuyến khích các hủ tục và tệ nạn xã hội, khuyến khích trồng và hút thuốc phiện, cờ bạc, rượu chè, tảo hôn, mê tín dị đoan trở thành bạn đồng hành với chính sách ngu dân, đầu độc để làm tổn hại giống nòi. Trên địa bàn xã hầu như 100% dân số đều mù chữ, đồng bào nơi đây đau ốm không có thuốc men, không có nơi để chữa bệnh, tự chạy chữa bằng thuốc nam và cúng bái. Các căn bệnh do thiếu I-ốt cũng khá phổ biến, nhất là ở phụ nữ, nhiều người bị tàn tật ảnh hưởng não. Vệ sinh phòng bệnh không được chú ý do vậy nhiều dịch bệnh xảy ra như thương hàn, đậu mùa, kiết lỵ, sốt rét,... đã cướp đi sinh mạng của nhiều người dân trên địa bàn. Trong suốt mấy chục năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp, mặc dù bị kìm hãm trong vòng lạc hậu, tối tăm về văn hóa và xã hội, bị ách áp bức, bóc lột về kinh tế, bị lệ thuộc và đánh đập về thân thể... nhưng không làm khuất phục được tinh thần bất khuất của nhân dân các dân tộc xã Tiên Nguyên, ngược lại nó lại là ngọn lửa hun đúc tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm chống lại ách áp bức của thực dân Pháp và tay sai. Năm 1901, đồng bào các dân tộc Tiên Nguyên đã hưởng ứng phong trào đấu tranh chống lại các thế lực đương quyền của hai anh em Triệu Tiến Kiên và Triệu Tiến Lộc ở xã Vĩ Thượng, nhiều người dân Tiên Nguyên đã tham gia vào đội quân do hai anh em họ Triệu lãnh đạo tiến công đánh hai đồn Nậm Hóp và hai bốt tại thôn Bản Vèn thuộc Tiên Nguyên để bảo vệ quê hương. Tuy cuộc đấu tranh bị thất bại nhưng nó thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí không khuất phục của nhân dân trước kẻ thù xâm lược và tay sai, sẵn sàng tham gia đấu tranh chống lại ách thống trị của chúng. Sau khi phong trào đấu tranh chống Pháp dưới sự lãnh đạo của hai anh em họ Triệu thất bại, phải đến những năm 1943 - 1944, dưới ánh sáng cách mạng của Đảng, trên địa bàn xã Tiên Nguyên bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân chống bắt phu, bắt lính, chống việc thu thuế của Lý trưởng, tiêu biểu như đồng bào thôn Bản Vèn, thôn Nậm Hóp, Nậm Hò và Nậm Cài,… Những cuộc đấu tranh dù thô sơ, tự phát nhưng đã góp phần hun đúc truyền thống yêu nước và cách mạng cho nhân dân địa phương. Truyền thống ấy càng được các đồng bào dân tộc nơi đây thể hiện một cách mạnh mẽ kể từ khi có Đảng lãnh đạo. 2. Nhân dân xã Tiên Nguyên tham gia đấu tranh chống “phỉ cờ trắng”, xây dựng cơ sở cách mạng và đấu tranh giành chính quyền (1945 - 1948) Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập và bắt đầu lãnh đạo xây dựng phong trào cách mạng tại các địa phương trên cả nước. Ở Hà Giang, từ 14
  13. năm 1932 đến 1939 đã có nhiều cán bộ của Đảng bằng nhiều hình thức tuyên truyền, vận động xây dựng cơ sở cách mạng. Tại huyện Bắc Quang năm 1938 đã có một số đảng viên của Đảng và thanh niên yêu nước từ Cao Bằng, Bắc Kạn đến dạy học, đồng thời tìm cách tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho đồng bào. Một trong những người hoạt động lâu nhất là thầy giáo Văn (tức đồng chí Phạm Trung Ngũ), đảng viên của Đảng từ Hòa An tỉnh Cao Bằng được cấp trên phân công đến thôn Linh xã Bằng Hành làm nghề dạy học để xây dựng cơ sở cách mạng. Thông qua việc dạy học, đồng chí đã tìm cách tuyên truyền cách mạng, làm cho đồng bào hiểu biết về cách mạng Tháng Mười Nga, đồng thời tố cáo ách thống trị của thực dân phong kiến đối với đồng bào ta. Chỉ trong một thời gian ngắn đồng chí đã khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cách mạng cho đồng bào trong vùng, khi bị thực dân Pháp phát hiện, đồng chí phải rời khỏi Bằng Hành, chuyển sang địa bàn khác hoạt động. Ngày 01/9/1939 chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ngày 22/9/1940 quân đội Nhật đã tiến đánh Lạng Sơn và Hải Phòng đến ngày 23/9/1940 Pháp chấp nhận để Nhật cùng chiếm đóng và cai trị Đông Dương. Như vậy lúc này nhân dân Đông Dương phải sống dưới hai tầng áp bức bóc lột của đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Trước tình hình đó Hội Nghị Trung ương Đảng lần thứ VII họp và xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là đế quốc Pháp - Nhật. Năm 1942, quân đội Nhật tới Hà Giang lúc đầu chúng chỉ đóng ở tỉnh lỵ, dần dần mới mở rộng sự kiểm soát xuống các châu lỵ, thị trấn. Đầu năm 1945 tình hình thế giới có nhiều biến chuyển, quân đội Nhật liên tiếp bị thất bại, mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt ở Đông Dương. Đêm 09/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp ở huyện Bắc Quang lâm vào tình thế cô lập, bị động chống đỡ yếu ớt rồi bỏ chạy. Nhật nhanh chóng chiếm đồn Bắc Quang, Yên Bình tiến xuống đồn Quang Minh rồi rút về Bắc Quang. Sau ngày đảo chính, Nhật đã nhanh chóng nắm lấy và củng cố lại chính quyền tay sai ở địa phương, chúng tìm mọi cách thanh trừng những phần tử trung thành với Pháp, đưa bọn việt gian, tay sai của Nhật vào bộ máy chính quyền bù nhìn. Ngày 15/3/1945 Nhật đưa quân vào Bản Vèn - Tiên Nguyên và tiến vào hai đồn Nậm Hóp, một bộ phận quân Nhật kéo lên khu vực Nậm Ai (Hoàng Su Phì) lúc đầu bọn Động trưởng Lò Phụ Chìu định chống lại nhưng được Nhật chiêu hàng. Lò Phụ Chìu đã chấp nhận để quân Nhật vào địa phương. Ở hai đồn Nậm Hóp “xếp Cang” và “xếp Chiêu” hốt hoảng bỏ đồn chạy trốn. Tại đây chúng liên tiếp mở các cuộc hành quân đi cướp bóc. Trong tháng 4 và tháng 5/1945 cùng với bọn Quốc dân Đảng do Quản Lộc cai quản tràn vào địa phương nhiều gia đình 15
  14. đồng bào nơi đây đã bị chúng cướp đi nhiều con trâu, bò, lợn, gà, thóc gạo, tiền bạc, đồng bào chống lại bị chúng đánh đập dã man khiến cho đời sống của đồng bào càng cơ cực, lòng căm thù của đồng bào các dân tộc Tiên Nguyên với bọn quân cướp nước lên đến cực độ. Tháng 6/1945 thi hành chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 54 chiến sỹ do đồng chí Lê Tâm (tức Lê Quảng Ba) Nam Hải (tức Bế Triều) và các đồng chí Nam Long, Hồng Quang, Lĩnh Thành, Nông Quốc Chủng… chỉ huy từ Cao Bằng đến Bắc Quang và chọn xã Bằng Hành làm địa bàn tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng về kháng Nhật cứu nước, xây dựng cơ sở Việt Minh, đẩy mạnh cao trào đấu tranh, xây dựng căn cứ tạo bàn đạp để mở rộng phong trào cách mạng ra các vùng lân cận, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Tuy vậy lúc này ở tiểu khu Thông Nguyên nói chung và xã Tiên Nguyên nói riêng do điều kiện rừng núi hiểm trở, đường xá đi lại khó khăn, dân cư sống thưa thớt, cán bộ Việt Minh chưa đến được với đồng bào dân tộc nơi đây, nhân dân vẫn phải sống trong cảnh bị áp bức bóc lột của bọn thực dân, bọn tay sai và quan lại, lý trưởng. Lúc này tuy chưa thành lập Ủy ban hành chính cách mạng nhưng đã có sự ảnh hưởng của phong trào cách mạng đang lan rộng ở khắp nơi các xã lân cận. Nhân dân ở một số thôn đã tổ chức đứng lên chống đi phu, chống nộp sưu thuế cho Lý trưởng và ủng hộ chính sách của Việt Minh như đồng bào ở thôn Bản Vèn, thôn Nậm Hóp, thôn Nậm Hò, thôn Nậm Cài. Đầu tháng 7 năm 1945 tại Kim Ngọc, ban lãnh đạo Việt Minh họp bàn kế hoạch chia làm hai mũi tấn công: Một mũi do đồng chí Nam Long chỉ huy tiến theo Tả ngạn sông Lô giải phóng Hướng Minh (Đồng Tâm, Trung Thành, Bạch Ngọc, Việt Lâm) rồi chiếm đồn Bắc Quang; một mũi do đồng chí Lĩnh Thành, Bế Triều, Hồng Quang chỉ huy vượt qua sông Lô tiến thẳng sang phía Tây đến các xã Quang Minh, Hùng An, Việt Vinh, Tiên Kiều,… Đi đến đâu cũng được quần chúng tham gia đông đảo, đó là điều kiện thuận lợi để cán bộ Việt Minh nhanh chóng tập hợp được quần chúng tuyên truyền, giải thích chương trình, điều lệ của Mặt trận Việt Minh, bầu ra Việt Minh các xã, tổng, bầu ra UBND cách mạng các xã và tổ chức các đội tự vệ, các đoàn thể cứu quốc. Đồng thời tổ chức các lớp huấn luyện đường lối, phương pháp tổ chức, lãnh đạo cách mạng ngắn ngày cho cán bộ ủy ban các xã, ban chỉ huy và các đội viên vũ trang của địa phương. Đầu tháng 8 năm 1945, hướng tiến công của đồng chí Nam Long đã vượt qua cổng trời 1 tiến vào Thông Nguyên để xây dựng cơ sở và phát triển phong trào cách mạng tại các xã trong tiểu khu. 16
  15. Cũng như các nơi khác đồng bào các dân tộc ở các xã trong tiểu khu Thông Nguyên dưới ách thống trị bóc lột của Pháp - Nhật và bọn cường hào, địa chủ ở địa phương từ lâu đã khắc sâu tội ác của chúng, đã từng có nhiều cuộc đấu tranh tự phát chống Pháp - Nhật xâm chiếm, lại được phong trào cách mạng ở một số nơi cổ vũ đến khi được tin đội vũ trang tuyên truyền đến Thông Nguyên đồng bào Tày ở thôn Bản Vèn đã cử ông Hoàng Văn Mậu và Hoàng Văn Hành bí mật đi đón cán bộ cách mạng. Vào giữa tháng 8 năm 1945, đội vũ trang tuyên truyền do đồng chí Nam Long chỉ huy đã về đến thôn Bản Vèn, Tiên Nguyên. Đồng bào các dân tộc rất vui mừng, phấn khởi bí mật tổ chức tiếp đón cán bộ. Sau khi đến địa phương, cán bộ Việt Minh đã đi đến các thôn Tráng Sẻ, Nậm Hò, Nậm Hóp, Bản Vèn để tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc Tày, Dao áo dài, Dao đại bản. Tại Đình làng thôn Bản Vèn, đội tuyên truyền đã tổ chức cuộc họp quần chúng (gồm 21 người của dân tộc Tày, Dao) để tuyên truyền giải thích chương trình hành động của mặt trận Việt Minh và tố cáo tội ác của thực dân Pháp và giai cấp thống trị, đặt ra nhiệm vụ đánh Pháp, đuổi Nhật, vận động quần chúng đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên đánh đuổi kẻ thù chung để giành độc lập cho nước nhà. Được sự hưởng ứng giúp đỡ của đồng bào các dân tộc nơi đây, cán bộ Việt Minh đã thành lập Ban Việt Minh gồm 5 người (ông Lò Chàn Phín, Lò Chàn Hin, Đặng Chàn Chòi, Lò Phụ Châu, Hoàng Văn Mậu) và thành lập tổ giao thông liên lạc gồm 7 đồng chí do ông Đặng Chàn Hín làm tổ trưởng, các tổ viên Hoàng Văn Hành, Lẻo Văn Tinh, Lò Phụ Và, Lò Phụ Sênh, Hoàng Văn Cẩn, Hoàng Văn Thèn. Đây là cơ sở cách mạng được hình thành đầu tiên ở địa phương do cán bộ Việt Minh trực tiếp chỉ huy. Sau khi cơ sở cách mạng được gây dựng các tổ chức có nhiệm vụ vận động đồng bào các dân tộc tham gia phong trào Việt Minh trong các bản đồng bào Dao, Tày, vừa vận động quần chúng thực hiện các chính sách của Việt Minh, chống nộp sưu, thuế, chống đi phu cho Động trưởng vừa đi sâu nắm bắt tình hình của địch và bọn tay sai hoạt động ở địa phương, cung cấp thông tin, làm liên lạc về Việt Minh tổng. Chỉ sau một thời gian ngắn hoạt động của Việt Minh dần dần được mở rộng ra địa bàn các xã Tiên Nguyên, Thông Nguyên và một số vùng lân cận. Quần chúng tự nguyện tham gia mặt trận Việt Minh, lực lượng quần chúng cách mạng từ 5 người đã phát triển lên 35 người. Trong năm 1945, phong trào chống nộp sưu, thuế, chống đi phu cho Động trưởng đã lan rộng ở các thôn bản, tiêu 17
  16. biểu như đồng bào Tày thôn Bản Vèn, đồng bào Dao thôn Nậm Hò, Nậm Hóp đòi Động trưởng trả lại Trâu, Bò, tiền bạc, thóc cho dân chúng. Phong trào đang phát triển rầm rộ thì bọn Động trưởng câu kết với Quản Lộc ở Yên Bình cùng một số tên tay sai ở địa phương tiến hành càn quét, đánh đập dân chúng, truy lùng ngăn chặn hoạt động của quần chúng cách mạng. Đứng trước tình thế đó cán bộ Việt Minh tạm rút lui qua đường Trịnh Trang về Bắc Quang để củng cố lực lượng. Phong trào Việt Minh ở đây tạm lắng xuống. (Ảnh địa điểm nơi thành lập Ban Việt Minh xã Tiên Nguyên) Như vậy, trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945 phong trào cách mạng đã lan rộng đến hầu hết các xã thuộc huyện Bắc Quang và Bắc Quang đã trở thành một trong những khu căn cứ cách mạng quan trọng của Hà Giang, hình thức hoạt động chủ yếu của phong trào là vận động, giáo dục, giác ngộ quần chúng, gây dựng cơ sở chính trị, thành lập các đoàn thể cứu quốc trong mặt trận Việt Minh. Lực lượng cách mạng đi đến đâu cũng được quần chúng tham gia đông đảo đó là điều kiện thuận lợi để cán bộ Việt Minh nhanh chóng tập hợp được quần chúng tuyên truyền giải thích chương trình, điều lệ của mặt trận Việt Minh, bầu ra Việt Minh các xã, tổng, bầu ra Ủy ban nhân dân cách mạng các xã và tổ chức các đội tự vệ, các đoàn thể cứu quốc. Đồng thời tổ chức các lớp huấn luyện đường lối, phương pháp tổ chức, lãnh đạo cách mạng ngắn ngày cho cán bộ ủy ban nhân dân các xã, ban chỉ huy và các đội viên vũ trang địa phương. Bị thất bại nặng nề trên các mặt trận Thái Bình Dương, Đông Bắc Á, Đông Dương, tinh thần chiến đấu của quân Nhật bị sa sút nghiêm trọng, ở Hà Giang, nhất là ở vùng núi xa xôi hiểm trở, phát xít Nhật bỏ những vị trí nhỏ, tập trung quân về đóng giữ những nơi trọng yếu, quân Nhật lần lượt rút khỏi đồn Nậm Hóp; ở Thông Nguyên chúng bỏ vị trí đồn Nậm Giàng, Nậm Ty tập trung chốt giữ đồn Nậm Ong (cổng trời 1). Trước tình hình đó lực lượng vũ trang của ta đã tổ chức nhiều trận phục kích làm tiêu hao sinh lực địch. Ở tiểu khu Thông Nguyên, nhân dân ở một số nơi đã dũng cảm đứng lên bắt và trừng trị một số tên phản động làm gián điệp cho Pháp - Nhật. Tại Tiên Nguyên những tên tay sai của Pháp - Nhật và bọn thổ ty địa phương như Chảo Sành Phú, Lò Phụ Duổi, Triệu Ỳ Sinh, Lò phụ Chìu, Lò Phụ Siang, Lò Vàn Quấy và Dùn Mình rất hoang mang lo sợ, không dám hoạt động. Tháng 8 năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phe đồng minh toàn thắng. Trước tình hình chuyển biến mau chóng trên thế giới và trong nước, 18
  17. điều kiện cho tổng khởi nghĩa chín muồi, đêm 13/8/1945 Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Trước khí thế sôi sục như dòng thác cách mạng của nhân dân ta trong cả nước, nhằm vào lúc phát xít Nhật và bọn tay sai đang hoang mang cực độ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng chí căm thù sôi sục và tinh thần quyết thắng đã nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và toàn thế giới. Sự kiện trọng đại này đã có tác động mạnh mẽ, củng cố tinh thần, ý chí quyết tâm đi theo Đảng của nhân dân cả nước trong đó có nhân dân các dân tộc xã Tiên Nguyên. Sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám, Nhà nước non trẻ bị đặt trong tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”, cùng lúc phải đối phó giặc đói, giặc dốt và nguy hiểm nhất là giặc ngoại xâm. Ngày 29/8/1945 quân Nhật rút khỏi Hà Giang, đến chiều ngày 30/8/1945, dưới danh nghĩa vào giải giáp quân Nhật, quân Tưởng kéo vào Hà Giang, theo chân quân đội Tưởng Giới Thạch là tên phản động Hoàng Quốc Chính lẩn trốn ở Trung Quốc cùng đồng bọn đã tiến vào thị xã Hà Giang lập ra cái gọi là “Tỉnh Đảng bộ Việt Nam quốc dân Đảng” do Hoàng Quốc Chính làm chủ nhiệm. Hoàng Quốc Chính đã câu kết với phần tử phản động tay sai của Pháp - Nhật trước đây tập hợp được một lực lượng khoảng 200 tên, được trang bị vũ khí, đạn dược chúng tung quân đi chiếm giữ các đồn lẻ, dựng chính quyền tại các địa phương và giao cho địa chủ, thổ ty nắm giữ. Chúng sử dụng bọn thổ ty phản động tìm mọi cách khống chế, kìm hãm sự phát triển của phong trào cách mạng, gây hiềm khích giữa đồng bào và cán bộ Việt Minh là người kinh, hòng gây khó khăn cho phong trào cách mạng. Để tăng cường lực lượng cho phong trào cách mạng cuối tháng 9/1945 Xứ ủy Bắc kỳ điều động một đơn vị vũ trang do đồng chí Anh và đồng chí Thông chỉ huy từ Yên Bái tiến sang giải phóng Đồng Yên, Vĩnh Phúc và các xã Vĩ Thượng, Tiên Yên đơn vị này đã tiến đến đồn Yên Bình, nhưng bị bọn Quản Lộc đánh úp làm cho một đội viên bị hy sinh, 30 cán bộ chiến sỹ bị bắt, chúng đem giao nộp cho Hoàng Quốc Chính ở Hà Giang. Ngoài việc gây cho lực lượng cách mạng một số thiệt hại kể trên, tên Hoàng Quốc Chính còn bí mật lệnh cho binh lính quốc dân Đảng hai đồn Bắc Quang và Trinh Tường thực hiện kế hoạch tấn công ta ở Bắc Quang. Theo lệnh 19
  18. của Hoàng Quốc Chính, binh lính ở đồn Bắc Quang do tên Xiêm chỉ huy đã phối hợp với sỹ quan, binh lính hai đồn Trinh Tường và Yên Bình tạo thành 3 mũi tấn công vào lực lượng của ta đóng ở Ngòi Quang. Nhưng cả 2 mật lệnh của tên Xiêm và tên Hành cho hai đồn Trinh Tường và Yên Bình đã được ông Lý Kinh cơ sở của ta trong hàng ngũ địch mang nộp cho ta. Biết được âm mưu của địch là địch tập trung quân về châu lỵ đánh úp, ta đã dùng kế “điệu hổ ly sơn” chủ động mời tên Xiêm và tên Hành sang trụ sở của ta với lý do là để bàn công việc. Trước bằng chứng không thể chối cãi được (bức mật thư) chúng phải cúi đầu nhận tội và buộc phải viết lệnh cho sỹ quan lính hai đồn Bắc Quang và Trinh Tường nộp vũ khí, giao đồn cho Việt Minh. Ngày 4 và 5/11/1945 lực lượng vũ trang của ta tiến vào hai đồn Bắc Quang và Trinh Tường buộc chúng phải đầu hàng, nộp vũ khí cho cách mạng. Sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần binh sỹ địch, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tước vũ khí và giải tán các đơn vị địch đóng ở các đồn Vĩnh Tuy, Tiên Yên và Yên Bình. Ngày 04/11/1945, trung tâm huyện Bắc Quang được giải phóng, Ủy ban lâm thời huyện Bắc Quang được thành lập và ra mắt đồng bào. Sau bao nhiêu năm bị áp bức, bóc lột làm kiếp người nô lệ giờ đây đồng bào dân tộc Bắc Quang dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Việt Minh đã vùng lên giành lấy chính quyền từ tay Quốc dân Đảng. Tuy nhiên, ở Bắc Quang bọn Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn còn một lực lượng khá lớn do Quản Lộc cầm đầu khống chế Yên Bình, Tiên Yên, Xuân Giang và Tiên Nguyên, chúng thường xuyên cho quân cướp bóc tài sản của nhân dân làm cho đời sống nhân dân các dân tộc ở các xã trong vùng này gặp nhiều khó khăn và thiếu thốn. Tại Tiên Nguyên, mặc dù quân Quốc dân Đảng không trực tiếp chiếm đóng nhưng ngoài những thứ thuế vô lý hằng năm phải giao nộp cho bọn Quản Lộc, chúng còn thường xuyên cho binh lính xuống các thôn Khuổi Mạ, Bản Vèn, Nậm Hóp, Tráng Sẻ, Nậm Hò,… để cướp bóc trâu bò, lợn, gà, lúa gạo, làm cho cuộc sống của đồng bào dân tộc nơi đây càng thêm cực khổ. Dưới ách áp bức của Quốc dân Đảng, nhân dân các địa phương trên địa bàn tỉnh đoàn kết và đấu tranh kiên cường. Đến ngày 25/12/1945 thị xã Hà Giang được giải phóng, Ủy ban lâm thời tỉnh Hà Giang được thành lập. Trước thắng lợi này, Xứ ủy Bắc Kỳ đã quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Giang, đây là một bước ngoặt quan trọng có ý nghĩa quyết định việc kết thúc về căn bản giai đoạn đấu tranh giành chính quyền cách mạng trong phạm vi toàn tỉnh và thành lập 20
  19. chính quyền dân chủ nhân dân, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử phát triển của đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang. Ngay sau khi thành lập, Đảng bộ tỉnh đã cử hai đồng chí đảng viên tăng cường về huyện Bắc Quang trực tiếp chỉ đạo mọi mặt công tác nhất là xúc tiến việc chuẩn bị xây dựng tổ chức Đảng, động viên nhân dân hưởng ứng những chủ trương của Chính phủ và Mặt trận Việt Minh, tích cực giải quyết “giặc đói, giặc dốt” đồng thời đánh đuổi giặc ngoại xâm. Cuối năm 1946, quan hệ giữa ta và Pháp hết sức căng thẳng. Ngày 20/11/1946, thực dân Pháp nổ súng chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó chúng cho quân đổ bộ lên cảng Đà Nẵng. Tại Hà Nội, Pháp luôn khiêu khích và gây ra nhiều vụ đổ máu đối với ta. Trước những hành động gây chiến ngày càng trắng trợn của quân Pháp, ngày 17/12/1946 Trung ương Đảng đã Chỉ thị kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đêm ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cả nước đã bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trong tư thế khẩn trương, nhưng bình tĩnh và niềm tin chiến thắng. Tại Bắc Quang, công tác xây dựng lực lượng vũ trang đã được chuẩn bị sôi nổi, khẩn trương; thanh niên các dân tộc nô nức đăng ký ra nhập bộ đội, dân quân du kích. Ở Tiên Nguyên, các đồng chí Bồng, Đức, Doanh là cán bộ Việt Minh đến địa phương để tổ chức lực lượng, thành lập đội tự vệ tuyên truyền gồm 9 đồng chí do đồng chí Bồng làm tiểu đội trưởng các đội viên gồm Tẩn Láo San, Mai Chá Sèn, Triệu Sành Quấy, Phùng Dồng Chìu, Hoàng Văn Mậu, Triệu Chằn Vản, Hoàng Kim Tiến, Phàn Láo San, Lò Chằn Và, đây là những thanh niên hăng hái nhất ở địa phương và là lực lượng vũ trang cách mạng được tổ chức đầu tiên ở Tiên Nguyên. Sau khi được huấn luyện, đội vừa làm nhiệm vụ bảo vệ cán bộ cách mạng vừa kết hợp với cán bộ Việt Minh xã tuyên truyền phát triển phong trào ở các thôn, bản đồng bào người Dao, người Tày nhiệm vụ trước mắt là nắm các phần tử tay sai ở địa phương trấn áp bọn phản động, đập tan âm mưu gây phỉ của thực dân Pháp. Từ khi đội tự vệ tuyên truyền được thành lập, các đồng chí cùng cán bộ Việt Minh bền bỉ dũng cảm len lỏi vào từng thôn xóm, đi sâu giác ngộ quần chúng bằng nhiều hình thức, thực hiện chủ trương “địa phương hóa” “quần chúng hóa” dùng tiếng nói của đồng bào địa phương như tiếng Tày, Dao,… và sử dụng những tập quán cổ truyền của đồng bào để vận động quần chúng như: nhận họ, kết bạn đồng niên,… Nói chuyện về chính sách và thắng lợi của Việt Minh để tập hợp, tuyên truyền, động viên giáo dục quần chúng phát huy truyền thống yêu nước và nhận rõ trách nhiệm của mình, hướng dẫn nhân dân 21
  20. cách chống khủng bố, chống đi phu, đi lính, nộp thuế, thực hiện vườn không, nhà trống từ đó ta đã dần dần gây được nhiều cơ sở trong lòng địch. Đồng bào các dân tộc sẵn lòng giúp đỡ và hăng hái tham gia hoạt động cách mạng thu hút được nhiều người tham gia bổ sung vào lực lượng tự vệ, tuyên truyền địa phương, dưới sự hướng dẫn của cán bộ Việt Minh. Ngày 20/2/1947, Tỉnh ủy Hà Giang quyết định thành lập Chi bộ cơ quan huyện Bắc Quang do nữ đồng chí Phương Lâm làm Bí thư chi bộ. Chi bộ Bắc Quang ra đời là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng trên địa bàn huyện. Từ đây nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện dưới sự lãnh đạo của Đảng đoàn kết thành một khối vững chắc vùng lên đấu tranh giành độc lập tự do. Ngay từ khi mới thành lập chi bộ lãnh đạo xây dựng và kiện toàn bộ máy chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang đặc biệt là tổ chức cơ sở Đảng trong huyện, phân công các đảng viên phụ trách các tiểu khu trong huyện đồng thời lãnh đạo thực hiện thắng lợi chủ trương của Trung ương Đảng, kiên quyết thu hẹp vùng tạm chiếm của địch. Trong thời gian này, Tiểu khu Thông Nguyên nói chung, địa bàn Tiên Nguyên nói riêng nằm trong vùng tạm chiếm của giặc. Bọn Vòong sán ở Hoàng Su Phì cấu kết với bọn Quản Lộc ở Yên Bình gây ra nhiều vụ cướp của, giết người ở các xã như Khuôn Lùng, Yên Bình, Thông Nguyên… và chiếm hai đồn Bản Máy và Xín Mần. Ở Tiên Nguyên, chúng liên hệ cấu kết với các phần tử tay sai của Pháp, Nhật, bọn thổ ty địa phương gây ra nhiều vụ cướp của tại các thôn Bản Vèn, Tráng Sẻ, Nậm Hóp, Nậm Cài, Lùng Chún, Bản Quảng chúng bắt nhiều người đi phục vụ cho chúng. Các phần tử tay sai của Pháp, Nhật trước đây như Chảo Sành Phú, Triệu Mềnh Và, Lò Phụ Duổi, Triệu Ỳ Sinh, Triệu Vàng Mấy, Lò Phụ Chìu, Lò Phụ Siang dựng “cờ trắng” xưng vua do tên Chảo Sành Phú dân tộc Dao ở thôn Lùng Chún xã Tiên Nguyên, nay thuộc xã Tân Nam cầm đầu. Âm mưu xưng vua nổi “Cờ trắng” của Chảo Sành Phú có từ cuối năm 1945, Phú dự định bắt liên lạc với Pháp dựa vào Pháp để duy trì “Cờ trắng” nhưng sau đảo chính, Pháp đầu hàng Nhật nên Phú chưa tìm được tổ chức bên ngoài đủ mạnh hỗ trợ, chưa xây dựng được lực lượng, thiếu súng đạn. Tuy vậy, Phú vẫn nung nấu mưu đồ xưng vua “Cờ trắng” và ngấm ngầm hoạt động, tập hợp lực lượng chờ thời cơ đến. Trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 9 năm 1946, Phú dựng hai ngôi lán trên đỉnh núi “Ao Tiên” làm nơi hội họp. Chúng tập hợp lực lượng gồm 200 22
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2