intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Díu (1945-2015)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:225

6
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung cuốn sách nhằm giới thiệu với bạn đọc về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Díu giai đoạn 1945 - 2010. Với 53 năm kể từ khi thành lập Đảng bộ xã Bản Díu; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng của xã đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử, khi thuận lợi, lúc khó khăn, song cuối cùng cũng giành được những thắng lợi vẻ vang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Díu (1945-2015)

  1. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BẢN DÍU TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ BẢN DÍU (1945 - 2015) Xuất bản năm 2016 1
  2. LỜI GIỚI THIỆU Thực hiện Chỉ thị số 24 - CT/TU ngày 22/11/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang; công văn số 34- CV/BTG, ngày 07/11/2013 của Ban Tuyên giáo Huyện ủy Xín Mần về công tác biên soạn lịch sử Đảng bộ cơ sở. Đảng ủy xã Bản Díu biên soạn cuốn sách Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Díu (1945 - 2015). Nội dung cuốn sách nhằm giới thiệu với bạn đọc về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Díu giai đoạn 1945 - 2010. Với 53 năm kể từ khi thành lập Đảng bộ xã Bản Díu; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng của xã đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử, khi thuận lợi, lúc khó khăn, song cuối cùng cũng giành được những thắng lợi vẻ vang. Tuy trải qua nhiều biến động của lịch sử, nhân dân các dân tộc xã Bản Díu vẫn kiên định, sắt son, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tiếp bước cha anh, đoàn kết xung quanh Đảng để cống hiến sức người, sức của cho cách mạng, cho cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền của dân tộc và quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thông qua chặng đường truyền thống cách mạng của xã để giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, nhân 2
  3. dân các dân tộc, nhất là thế hệ trẻ xã Bản Díu, luôn tự hào truyền thống vẻ vang của quê hương; từ đó biết thừa kế và phát huy tinh thần cách mạng của các thế hệ cha anh, đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ, lãnh đạo nhân dân quyết tâm vượt mọi khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ cách mạng hiện nay và mai sau. Trong quá trình sưu tầm tài liệu, nghiên cứu, biên soạn cuốn sách, chúng tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện ủy, các đồng chí cán bộ lão thành cách mạng, các nhân chứng lịch sử, các tổ chức, cá nhân và nhân dân các dân tộc trong xã. Đến nay cuốn sách Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Díu (1945 - 2015) đã hoàn thành và ra mắt bạn đọc. Mặc dù, tiểu ban nghiên cứu, biên soạn đã có nhiều cố gắng, song do thời gian có hạn, việc sưu tầm tài liệu gặp khó khăn nên cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong các đồng chí và bạn đọc tham gia góp ý kiến để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau. Ban Thường vụ Đảng ủy chân thành cảm ơn và xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 11 năm 2016 TM. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BẢN DÍU BÍ THƯ Tẩn Văn Đức 3
  4. Phần một ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI XÃ BẢN DÍU Xã Bản Díu cách trung tâm huyện Xín Mần khoảng 22 km về phía Đông Bắc. Phía Bắc tiếp giáp với xã Nàn Xỉn và một phần của xã Bản Phùng - huyện Hoàng Su Phì; phía Nam giáp với xã Trung Thịnh và một phần của xã Ngán Chiên; phía Đông giáp với xã Chiến Phố và một phần của xã Nàng Đôn - Huyện Hoàng Su Phì; phía Tây tiếp giáp với xã Thèn Phàng. Địa hình của xã được cấu tạo tương đối phức tạp, nằm trên dãy Hoàng Vần Thùng1 đỉnh cao trên 2.000m, nên có độ dốc lớn, nhiều khe sâu chia cắt. Chiều dài của xã từ thôn Ngam Lim đến thôn Mào Phố, có tổng chiều dài 5,7 km; chiều rộng từ thôn Mào Phố đến thôn Díu Hạ, rộng 5,6 km. Hệ thống sông suối của xã đa dạng, có nhiều lạch suối nhỏ, lớn nhất là sông Chảy được bắt nguồn từ dãy Tây Côn Lĩnh sau khi qua huyện Hoàng Su Phì, chạy dọc qua và ngăn cách giữa xã Bản Díu với các xã Trung Thịnh và Ngán Chiên, có chiều dài khoảng 5,355 km và từ đây dòng chính sông chảy trở thành một 1 Còn có tên núi Hoàng Vần Thùng, núi Gia Long, chạy suốt từ Lao Chải - Vị Xuyên đến Pà Vầy Sủ tạo nên bức tường thành ở phía Bắc, ngăn cách giữa Việt Nam và Trung Quốc. 4
  5. hẻm sâu thẳm. Ngoài ra còn có con suối Đỏ, được bắt nguồn từ đỉnh Mào Phố, trải dài trên địa bàn xã với tổng chiều dài 3,784 km, chảy qua và ngăn cách giữa Bản Díu với xã Bản Phùng với chiều dài gần 2 km rồi đổ vào dòng chính Sông Chảy. Với hệ thống sông, suối kể trên đã làm phong phú thêm địa hình của Bản Díu với cảnh quan núi cao, vực sâu, mức độ chia cắt trung bình 1.000 mét, có nơi lên tới 1.500 mét; đường núi lại hẹp, quanh co, phức tạp, nên cũng đã làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, thủy sản, nhất là vào mùa mưa đi lại khó khăn do bị lũ quét, lũ ống. Tổng diện tích toàn xã 1.178 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 1.674,8 ha, đất trồng cây hàng năm 885,07 ha; đặc biệt với diện tích 283,4 đất rừng tự nhiên và 789,7 ha đất lâm nghiệp, Bản Díu có nhiều tiềm năng cho việc phát triển lâm nghiệp và các loại cây công nghiệp dài ngày; trên rừng có hệ động, thực vật phong phú và đa dạng về chủng loại. Thảm thực vật gồm có nhiều gỗ quý, song đến nay, do sự khai thác quá mức của con người cùng với sự biến đổi bất thường của thời tiết, khí hậu đã làm ảnh hưởng tương đối lớn đến sự đa dạng về số lượng của hệ động thực vật tự nhiên nơi đây, có nhiều loài dường như không còn trên địa bàn, như: hổ, báo, gấu,vv… Hiện nay, rừng trên địa bàn xã chủ yếu là rừng tái sinh, với 319,1 ha. Để bù lại sự khai thác bừa bãi, không có kế hoạch trước đây, đồng thời thực hiện chủ 5
  6. trương của Đảng và Nhà nước về phát triển, bảo vệ rừng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong xã đã và đang tăng cường phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, đẩy mạnh giao đất, giao rừng đến hộ gia đình, từ đó góp phần tạo nên độ che phủ rừng trên địa bàn xã. Khí hậu của Bản Díu chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, mưa lốc bất thường kèm theo mưa đá. Mùa rét từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, thường xảy ra rét đậm, rét hại kéo dài, sương mù dày đặc, có sương muối xuất hiện, lương thực chỉ sản xuất được hai vụ; Sự khắc nghiệt của khí hậu đã gây nên nhiều khó khăn cho nhân dân các dân tộc trên các lĩnh vực sinh hoạt, sản xuất, phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa và đảm bảo Quốc phòng - An ninh… Tất cả những điều kiện đó đã tạo ra những khó khăn không nhỏ trên con đường phát triển của xã. Điều này đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong xã cần tiếp tục cố gắng và nỗ lực hơn nữa trong việc khắc phục khó khăn, đồng thời tìm ra hướng phát triển thích hợp cho mình. Trong cơ cấu kinh tế của xã, sản xuất nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính. Ngoài gieo trồng cây lương thực là chủ yếu cây lúa, cây ngô, trên địa bàn xã còn trồng một số loại cây có giá trị kinh tế, như: dong giềng, khoai lang và các cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tương, chè, 6
  7. mía), cây thực phẩm (bí, rau, đậu các loại) và các loại cây ăn quả cùng một số loại dược liệu quý hiếm khác. Về chăn nuôi, trên địa bàn xã chủ yếu là phát triển đàn gia súc như: trâu, bò, dê và lợn để lấy thịt, sức kéo và phân bón phục vụ sản xuất. Ngoài ra còn phát triển chăn nuôi gia cầm như gà, vịt, ngan, cá, ong mật và một số vật nuôi khác. Về sản xuất công nghiệp, nhìn chung chưa phát triển, mà chủ yếu là một số ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, như: dệt vải lanh, thổ cẩm, vv... Đặc biệt là với nghề rèn đúc sản xuất nông cụ cầm tay là ngành nghề có truyền thống lâu đời, được bà con nhân dân thôn Quán Thèn nói riêng, nhân dân các dân tộc xã Bản Díu nói chung đã gìn giữ và phát triển, sản phẩm không những chất lượng mà còn mang tính độc đáo, tạo nên những nét riêng biệt, được bà con nông dân trong và ngoài huyện, ngoài tỉnh ưa chuộng, tin dùng trong sản xuất nông lâm nghiệp. Với giá trị đó, được sự quan tâm chỉ đạo và hướng dẫn, giúp đỡ của tỉnh, của huyện, UBND tỉnh Hà Giang đã công nhận làng nghề rèn đúc nông cụ sản xuất. Đó là dấu mốc quan trọng, khẳng định giá trị của Làng nghề trong tâm thức của mỗi người dân, tiếp tục khẳng định và góp phần vào việc giữ gìn và phát huy, tạo nên nét đẹp, độc đáo của nghề rèn đúc nông cụ sản xuất thôn Quán Thèn, xã Bản Díu. 7
  8. Là một xã có địa hình phức tạp, đồi núi dốc, bị chia cắt bởi nhiều khe núi, suối đã hạn chế trong giao thông, đi lại, sinh hoạt; đồng thời cũng là một trong những nhân tố kìm hãm quá trình trao đổi hàng hóa và sự phát triển kinh tế của địa phương. Hàng năm, đến mùa mưa lũ, đã gây sạt lở, sói mòn làm ách tắc giao thông, ảnh hưởng đến sản xuất của bà con nhân dân. Để khắc phục những khó khăn, trở ngại về điều kiện tự nhiên, đồng bào các dân tộc nơi đây đã biết tận dụng và khai thác những mặt thuận lợi của tự nhiên, gắn với thực hiện điều chỉnh mùa vụ thích hợp với điều kiện thời tiết trong năm, phục vụ đắc lực cho sản xuất nông lâm nghiệp và sinh hoạt. Xã Bản Díu có 05 dân tộc anh em cùng sinh sống, gồm dân tộc La Chí, Dao, Tày, Nùng, Mông. Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê huyện Xín Mần, tính đến năm 2016, xã Bản Díu có 8 thôn với 4.687 khẩu/947 hộ dân. Từ bao đời nay, đồng bào các dân tộc trong xã luôn giữ vững truyền thống đoàn kết, cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất, dũng cảm đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tích cực khai phá, cải tạo đất đai, tạo ra những thửa ruộng, những nương rẫy tốt tươi, đã biến những gò sườn đồi thành những nương, ruộng, góp phần nâng cao đời sống. Trong quá trình phát triển ấy, không chỉ tạo thêm những nét bản sắc văn hóa của 8
  9. các dân tộc trong xã mà còn khẳng định thêm, vững chắc hơn tinh thần đoàn kết, gắn bó, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng như trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, làng bản; đặc biệt năm 1728, dưới sự lãnh đạo của thổ ty Hoàng Văn Phác ở Díu Thượng, dân binh trong xã Bản Díu nói riêng và nhân dân các dân tộc vùng Xín Mần nói chung đã đứng lên hợp sức chống lại cánh quân của Tổng đốc Vân Nam là Ngạc Nhĩ Thái để bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Với chiến công này, cha con họ Hoàng đã được thế tập cha truyền con nối, giữ gìn biên giới và được phong đến tước Quận Công. Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân xã Bản Díu cũng như nhân dân cả nước sống dưới ách thống trị, bóc lột của thực dân, phong kiến, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Về kinh tế, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, song lạc hậu, năng suất thấp lại bị sưu cao, thuế nặng, nạn đói thường xuyên xảy ra. Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, nạn mê tín dị đoan còn nặng nề, ốm đau chỉ có cúng bái, không có thầy thuốc; các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp rất phổ biến, nhân dân hoàn toàn mù chữ,…Đặc biệt, để dễ bề cai trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” gây mâu thuẫn mất đoàn kết giữa các dân tộc để các dân tộc chống lại nhau, quên mất thù chính là thực dân Pháp. 9
  10. Với chính sách cai trị hà khắc của chế độ thực dân phong kiến, đời sống nhân dân cả nước nói chung và nhân dân các dân tộc xã Bản Díu nói riêng vô cùng đen tối, tưởng như không có đường ra. Từ khi có Đảng cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Đảng luôn quan tâm xây dựng và củng cố tổ chức Đảng vững mạnh, gây dựng phong trào cách mạng ở các địa phương. Chi bộ Đảng và sau này là Đảng bộ xã Bản Díu được thành lập đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong xã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, phát huy tinh thần đoàn kết các dân tộc, lấy ý chí cộng đồng chống lại bom, đạn của kẻ thù. Ngày nay, Đảng bộ xã Bản Díu đang phát huy tinh thần đoàn kết nhân dân các dân tộc trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Với đặc thù là một xã thuộc vùng núi cao, Bản Díu là mảnh đất được thiên nhiên ưu ái ban tặng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, nhiều cảnh đẹp tự nhiên như đỉnh núi Gia Long, di tích văn hóa tín ngưỡng Mộ - Nhà đền Hoàng Vần Thùng; bên cạnh đó là bản sắc văn hóa các dân tộc trong xã luôn được bảo tồn và phát huy, các lễ hội như: Lễ hội Hoàng Vần Thùng, Tết Khu Cù Tê của dân tộc La Chí đã đi vào 10
  11. huyền thoại được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia và cấp tỉnh; cùng với đó là những đường nét hoa văn trên vải, đồ dùng hàng ngày và tục đánh trống đồng của dân tộc La Chí trong xã đã phản ánh rõ nét bản sắc văn hóa dân tộc phong phú của Bản Díu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, là một trong những điều kiện thuận lợi, tiềm năng, lợi thế của địa phương đối với phát triển du lịch, thương mại, dịch vụ trong những năm tới. Ngày nay, được sự quan tâm, đầu tư mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, cùng với sự cố gắng không ngừng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Díu, đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong xã ngày càng được nâng cao. Nhân dân đã được hưởng những phúc lợi xã hội, như: điện lưới quốc gia, hệ thống giao thông từ trung tâm xã đến huyện và từ xã đi các thôn bản, có trường học các cấp mầm non, tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế, điểm bưu điện văn hóa và trụ sở làm việc của xã ngày càng được đầu tư, xây dựng khang trang; việc thực hiện các phong trào đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư đã được thực hiện và đạt được những kết quả tích cực, nếp sống văn hóa mới ngày càng được xây dựng vững chắc, vv… Trong công cuộc đổi mới hiện nay, phát huy 11
  12. những truyền thống đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự chỉ đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ huyện Xín Mần, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Díu2 đã và đang phấn đấu nhằm xây dựng quê hương ngày càng giàu và đẹp. 2 Hiện nay, Bản Díu có 8 thôn bản, với 13 chi bộ đảng sinh hoạt trực thuộc Đảng bộ, với 249 đảng viên, Đảng bộ có 19 đồng chí Ban Chấp hành, 5 đồng chí Thường vụ Đảng ủy. 12
  13. Phần hai QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (1945 - 2015) -------------------- I. Nhân dân các dân tộc xã Bản Díu trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975) 1. Nhân dân các dân tộc xã Bản Díu trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng mở đầu cho cuộc tiến công xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn đã bất lực trước sứ mệnh lịch sử dân tộc và nhu nhược ký hiệp ước dâng nước ta cho thực dân Pháp. Sau khi ký hiệp ước Patơnốt (6/6/1884), thực dân Pháp đã mở rộng chiếm đóng toàn quốc. Năm 1887, thực dân Pháp đã sử dụng một lực lượng quân sự lớn đánh chiếm toàn bộ tỉnh Hà Giang. Ngay sau khi chiếm được Hà Giang, chúng đã tổ chức bộ máy cai trị theo chế độ quân quản. Đồng thời, để dễ bề cai trị, bóc lột nhân dân ta, chúng đã áp dụng chính sách chia để trị. Với các dân tộc ít người như người Tày có Chánh, Phó tổng, Lý trưởng, Phó lý, Tổng xã đoàn, Hội đồng kỳ mục. Người Dao có 13
  14. Động trưởng, Chánh phó quản chiều, vv... Với âm mưu “chia để trị”, thực dân pháp thực hiện chính sách chia rẽ các dân tộc, chúng lợi dụng sự hạn chế về trình độ sản xuất, kinh tế, văn hóa xã hội giữa các dân tộc để khoét sâu vào sự xích mích, hằn thù, miệt thị, dẫn đến chém giết lẫn nhau giữa các dân tộc gây nên sự phân biệt sâu sắc giữa các dân tộc. Với chính sách chia rẽ này, nhằm mục đích phá hoại truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc, làm cho nhân dân hằn thù, oán ghét lẫn nhau mà không thấy được kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp của mình là thực dân Pháp và bọn tay sai của chúng. Chúng tiếp tục duy trì sự lạc hậu, yếu kém ở miền núi, kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngoài những thuế đinh, thuế điền, thuế thổ canh, chúng còn đặt ra hàng chục thứ thuế khác. Từ khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp càng đẩy mạnh hơn nữa chính sách vơ vét, bóc lột sức người, sức của của đồng bào; cùng với đó là ra sức duy trì các tệ nạn xã hội, như: mê tín dị đoan, cờ bạc, nghiện hút, tảo hôn nhằm làm ngu muội và suy kiệt giống nòi của nhân dân ta. Để độc chiếm quyền lợi và để đàn áp các cuộc nổi dậy của đồng bào địa phương chống lại chúng, thực dân Pháp đã tổ chức lực lượng quân sự “dùng người địa phương trị người địa phương”. Ở Hoàng Su Phì nói 14
  15. chung, xã Bản Díu nói riêng chúng đặt ra bang tá để kiểm soát từng khu vực. Mạng lưới cảnh sát, mật thám, nhà tù giăng khắp nơi. Cùng với những thủ đoạn chính trị và đàn áp bằng quân sự, thực dân Pháp và bọn thổ ty, địa chủ ra sức vơ vét, bóc lột của cải của nhân dân địa phương. Do vị trí đặc biệt về chính trị và quốc phòng của Hà Giang nên thực dân Pháp đã bắt nhân dân ta xây dựng nhiều tường thành và đồn bốt kiên cố, trong đó có cả Hoàng Su Phì nói chung, xã Bản Díu nói riêng; nhiều người dân trong xã do phải đi phu, lao động quá sức, bệnh tật nên đã phải mất mạng dưới chế độ cai trị của chúng. Nền kinh tế, văn hóa, xã hội hết sức lạc hậu, thuế khóa nặng nề, phu phen tạp dịch triền miên cùng với sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp và phong kiến tay sai ở địa phương nên đời sống của người dân xã Bản Díu trước cách mạng tháng Tám hết sức khổ cực, tạo nên nhiều mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân với thực dân Pháp và bọn tay sai phong kiến. Đó chính là động lực thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng của đồng bào các dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam tiến lên một bước mới. Phong trào đấu tranh chống thực 15
  16. dân Pháp và bọn tay sai phong kiến đã phát triển rộng khắp trong cả nước. Trong những năm 1936 -1939, tuy bị chính quyền thực dân phong kiến kìm kẹp, bưng bít, nhưng nhân dân Hà Giang đã biết tin tức qua các báo về phong trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ ở Hà Nội và trong cả nước. Bước vào đầu năm 1939, sau khi phân tích tình hình trong nước và quốc tế, Xứ ủy Bắc Kỳ đã bí mật chỉ thị cho các Đảng bộ địa phương phải củng cố và phát triển các cơ sở cách mạng ở nông thôn, phòng khi bất trắc sẽ rút vào hoạt động bí mật, vì chiến tranh thế giới nổ ra, bọn đế quốc thực dân sẽ tăng cường khủng bố phong trào cách mạng. Tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và nhanh chóng lan rộng ra Châu Á, Châu Âu và Châu Phi, đẩy loài người vào cuộc tàn sát mới. Ở Pháp, chính phủ ban bố lệnh động viên sức người, sức của, kể cả ở các nước phụ thuộc và thuộc địa, phục vụ cho cuộc chiến tranh. Ở Đông Dương, bọn phản động thuộc địa đã tăng cường khủng bố phong trào cách mạng, thẳng tay đàn áp nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương. Khắp nơi diễn ra cảnh tàn sát, khủng bố dã man. Đứng trước tình thế đó, Đảng ta rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn. Tháng 11 năm 1939, 16
  17. Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6, quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thành lập Mặt trận phản đế Đông dương. Thời kỳ này, ở Hà Giang, năm 1939, đồng chí Phạm Trung Ngũ (tức thầy giáo Văn) một đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ Cao Bằng vào thôn Lình, xã Bằng Hành, huyện Bắc Quang đã thông qua việc dạy học mà tuyên truyền cách mạng, làm cho nhân dân hiểu biết về tội ác của bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai đối với đồng bào ta, hiểu về Cách mạng tháng Mười Nga, vv.... Trong một thời gian, đồng chí đã khơi dạy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức cách mạng cho đồng bào trong vùng. Thực dân Pháp đã phát hiện và trục xuất đồng chí Ngũ ra khỏi huyện Bắc Quang. Tấm gương của đồng chí in đậm trong lòng dân, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng ngày càng phát triển đi lên. Tháng 6 năm 1939, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã về Quế Lâm (Trung Quốc), Người đã chỉ thị cho tất cả các cán bộ của Đảng ta đang hoạt động ở nước ngoài nhanh chóng trở về nước gấp rút chuẩn bị lực lượng đón thời cơ giành chính quyền. Ngày 28/01/1941, sau hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã trở về nước, Người chọn Cao Bằng làm chỗ 17
  18. đứng chân và trực tiếp bắt tay xây dựng nơi đây làm căn cứ địa cách mạng để thực hiện đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam. Đồng chí đã triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ tám tại Pác Bó (Cao Bằng), từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941. Hội nghị đã xác định mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc, vạch ra chủ trương, chính sách sát hợp để thực hiện mục tiêu đó: Động viên toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh), phát động chiến tranh du kích cục bộ, đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tháng 5 năm 1941, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề xây dựng cơ sở Đảng ở vùng dân tộc thiểu số “mở rộng tổ chức vào các tỉnh phong trào còn yếu ớt và dân tộc thiểu số”3. Hội nghị có tác dụng quyết định sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị, Trung đội xung phong Nam Tiến được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy với nhiệm vụ xây dựng cơ sở Việt Minh ở Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà. Lực lượng này chia thành nhiều bộ phận nhỏ. Tổ của đồng chí Lê Thùy chỉ huy tiến sang Chiêm Hóa (Tuyên Quang) phát triển đến Hà Giang. 3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t7, tr. 130. 18
  19. Phong trào cách mạng phát triển đến một số nơi của Hà Giang như ở Bắc Quang, cán bộ Việt Minh tuyên truyền, giác ngộ về đường lối cách mạng, giải thích chương trình cứu nước của Mặt trân Việt Minh, nhiệm vụ đánh đuổi Nhật – Pháp để giành độc lập nước nhà. Phong trào cách mạng được đồng bào các dân tộc giác ngộ và hưởng ứng. Sau khi bị thực dân Pháp và bọn tay sai của chúng càn quét, khủng bố dã man, phong trào tạm lắng xuống. Trong lúc này, ở Xín Mần cán bộ Việt Minh vẫn phải đến được với đồng bào dân tộc, nhân dân vẫn chưa chịu sống dưới ách đô hộ của Pháp, bọn tay sai phản động, bọn thổ ty, bọn lính dõng tăng cường kiểm soát gắt gao. Năm 1942, quân đội Nhật đến Hà Giang và chúng mở rộng chiếm đóng toàn tỉnh. Đầu năm 1945, khi cuộc chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn cuối thì cách mạng Đông Dương có những điều kiện mới, tạo cơ hội cho dân tộc ta đứng lên tự giải phóng mình. Đêm 9-3- 1945, Nhật đảo chính Pháp. Cũng chính hôm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng và đã đưa ra nhận định đúng đắn về thời cuộc, đưa ra chủ trương và biện pháp thích hợp cho phong trào cách mạng. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. 19
  20. Tháng 4 và tháng 5 năm 1945, trước phong trào cách mạng lan rộng ở Hà Giang, quân Nhật co cụm lại. Cùng lúc đó, bọn Quốc dân đảng tràn vào địa phương, ra sức vơ vét cướp bóc của cải của nhân dân Xín Mần, khiến nhân dân trong vùng càng thêm điêu đứng, khổ cực. Ngày 01-6-1945, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo việc phát triển thêm cơ sở Việt Minh ở Hà Giang. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Lê Tâm (tức Lê Quảng Ba) và Nam Hải (tức Bế Triều) lãnh đạo đến Hà Giang tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng về kháng Nhật cứu nước, gây cơ sở Việt Minh, đẩy mạnh phong trào cách mạng để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 4-6-1945, Hà Giang nhập Khu giải phóng, một khu căn cứ cách mạng rộng lớn bao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái. Ngày 10-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh vô điều kiện. Nắm lấy thời cơ có một không hai, ngày 12-8-1945, Ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng ra lệnh cho giải phóng quân, các lực lượng vũ trang tự vệ, chính quyền các cấp và nhân dân trong Khu đứng lên khởi nghĩa. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2