intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đức Xuân (1986-2016)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đức Xuân (1986-2016)" giới thiệu với bạn đọc về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Đức Xuân giai đoạn 1986-2016. Với 30 năm thành lập chính quyền (1986-2016) và 27 năm ngày thành lập Đảng bộ xã Đức Xuân (1989-2016); dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng của xã đã trải qua một chặng đường lịch sử với nhiều thuận lợi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đức Xuân (1986-2016)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG ĐẢNG BỘ XÃ ĐỨC XUÂN TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ ĐỨC XUÂN (giai đoạn 1986 - 2016) TẬP I Xuất bản tháng 3 năm 2016
  2. 2 LỜI GIỚI THIỆU Thực hiện Chỉ thị số 24 - CT/TU, ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang “ Về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 15 - CT/TW, ngày 28 tháng 08 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX), về tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”. Ban Thường vụ Đảng bộ xã Đức Xuân đã chỉ đạo thành lập ban sưu tầm, ban biên soạn nhằm tìm hiểu, khai thác, nghiên cứu và biên tập cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đức Xuân"; nhằm phát huy hết sức mạnh chính trị, sức mạnh truyền thống cách mạng, sức mạnh đoàn kết các dân tộc, trong suốt quá trình phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng qua các thời kỳ kháng chiến, giành chính quyền, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước cho hôm nay và mai sau. Nội dung của cuốn sách giới thiệu với bạn đọc về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Đức Xuân giai đoạn 1986 - 2016. Với 30 năm thành lập chính quyền (1986 - 2016) và 27 năm ngày thành lập Đảng bộ xã Đức Xuân (1989 - 2016); dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng của xã đã trải qua một chặng đường lịch sử với nhiều thuận lợi. Đặc biệt vào giai đoạn khi cả nước bắt đầu bước sang thời kỳ đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tuy là một xã khó khăn của huyện, song nhân dân các dân tộc xã Đức Xuân luôn kiên định, trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, tiếp bước cha anh, đoàn kết xung quanh Đảng để cống hiến sức người, sức của cho cách mạng, cho cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chủ quyền của dân tộc và quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu "Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Thông qua cuốn sách truyền thống cách mạng của xã để giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc và thế hệ trẻ xã Đức Xuân luôn luôn tự hào truyền thống vẻ vang của quê hương; từ đó, biết kế thừa và phát huy tinh thần cách mạng của các thế hệ cha anh, đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ, lãnh đạo nhân dân quyết tâm vượt mọi khó khăn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng hiện nay và tương lai. Trong quá trình thu thập, sưu tầm, tìm hiểu, khai thác tư liệu, nghiên cứu và biên soạn cuốn truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đức Xuân, Ban Thường vụ Đảng uỷ luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Thường trực Huyện uỷ, Ban Tuyên giáo huyện uỷ, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Giang; sự hỗ trợ đóng góp quý báu của các cán bộ, đảng viên, cán bộ lão thành cách mạng, nhân dân các dân tộc trong và ngoài xã để hoàn thành cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đức Xuân".
  3. 3 Trong thời gian biên soạn, mặc dù ban biên soạn đã có nhiều cố gắng với trách nhiệm được giao và tinh thần quyết tâm cao trước Đảng bộ; song cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi xin tiếp thu mọi ý kiến đóng góp của các đồng chí và các bạn để cuốn sách hoàn thiện hơn. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập xã, 27 năm ngày thành lập Đảng bộ xã, Ban Thường vụ Đảng ủy xã xin trân trọng giới thiệu cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đức Xuân" (1986 - 2016) tới toàn thể Đảng bộ và nhân dân các dân tộc cùng bạn đọc. T/M BAN THƯỜNG VỤ BÍ THƯ Lý Văn Phúc
  4. 4 CHƯƠNG I Khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội và truyền thống lịch sử của xã Đức Xuân I. Điều kiện tự nhiên: Đức Xuân là một xã vùng III, nằm ở phía đông của huyện, cách trung tâm huyện Bắc Quang trên 49 km. Phía Bắc tiếp giáp với xã Liên Hiệp; phía Nam giáp xã Trung Hà - huyện Chiêm Hóa và xã Yên Thuận - huyện Hàm Yên của Tỉnh Tuyên Quang; phía Đông giáp xã Trung Hà - huyện Chiên Hóa - tỉnh Tuyên Quang; phía Tây giáp xã Vô Điếm. Địa hình của xã Đức Xuân tương đối phức tạp, do bị chia cắt bởi các dãy đồi, núi cao và các khe suối; diện tích của xã chủ yếu là đồi núi cao, phần lớn là đồi núi đá sen kẽ với các đồi núi đất. Sự kiến tạo của địa chất như trên đã tạo nên các thung lũng, các soi bãi phù xa màu mỡ chạy dọc theo các thung lũng, các con suối, rất phù hợp cho việc trồng cây lương thực và các loại cây ngắn ngày. Với tổng diện tích toàn xã là 5.615,69 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp 620,42 ha; đất trồng lúa 142,50 ha; đất trồng cây lâu năm 238,82 ha; đất lâm nghiệp 3.859,64 ha; đất phi nông nghiệp 72,16 ha; còn lại các loại đất khác 1.135,23 ha. Rừng ở đây trước kia phong phú và đa dạng về sinh học, có nhiều gỗ quý như: Đinh, lát, dổi, trai, nghiến, trò …, có nhiều loại thảo dược quý hiếm và chim muông, động vật hoang dã như: Hổ, báo, gấu, lợn rừng, hươu, nai, sơn dương, nhím, chim trĩ, vẹt, sáo, iểng….; song do con người khai thác, săn bắn quá mức, chưa có ý thức bảo vệ, nên rừng tự nhiên bị kạn kiệt, các loại gỗ quý và động vật hoang dã không còn nhiều; hiện nay chủ yếu rừng tái sinh và rừng trồng, rừng nguyên sinh còn rất hạn chế. Đất rừng của xã tương đối cao, nên thích hợp với nhiều loại cây trồng lâm nghiệp kết hợp với chăn nuôi đại gia súc, gia cầm và gieo, trồng sen kẽ với các loại cây ngắn ngày; mặt khác với lợi thế nhiều khe, suối thuận tiện cho việc đắp đập, ao hồ vừa phục vụ thuỷ lợi, tưới tiêu đồng ruộng, vừa chăn nuôi cá, thuỷ cầm tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Hệ thống suối của xã Đức Xuân phân bổ tương đối đều, hầu như thôn nào cũng có - Lớn nhất là suối Đức Xuân bát nguồn từ thôn Xuân Đường qua thôn Xuân Thành đến thác bản Ba xã Trung Hà huyện Chiêm Hóa – Tuyên Quang. Suối có chiều dài trên 07 km, bắt nguồn từ, rất thuận lợi cho việc đắp đập lấy nước tưới cho các cánh đồng của xã. Ngoài ra còn có các con suối như: Suối Nậm Tạu thôn Nậm Tạu, suối Vằng Kheo thôn Xuân Thành, suối Vàng Thì của thôn Phiêng Phày. Các con suối nhỏ của các thôn đều chảy ra suối Trung - Hà Chiêm Hóa, đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho công tác sản xuất, xây dựng thuỷ điện nhỏ, phục vụ đời sống sinh hoạt
  5. 5 của nhân dân. Song các con suối cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản, nhất là vào mùa mưa đi lại khó khăn do bị lũ ống, lũ quét gây sạt nở đất, cuốn trôi hoa màu, gia súc, nhà cửa, gây thiệt hại lớn cho địa phương và nhân dân. Khí hậu của xã Đức Xuân cùng chung với vùng khí hậu của huyện Bắc Quang, với đặc chưng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thời tiết, khí hậu có hai mùa rõ nét, mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 hàng năm. Lượng mưa hàng năm đạt trên 3.500 mm, độ ẩm trung bình 80%; nhiệt độ trung bình 270C; song nhiệt độ trung bình của xã thường thấp hơn so với nhiệt độ trung bình của huyện từ 1- 20C. Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình của mùa đông từ 18 - 220C; lượng mưa không đáng kể. Song có năm, có những tháng rét đậm kéo dài nhiệt độ xuống dưới 50C ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, chăn nuôi và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Tuy vậy nhìn chung khí hậu, thời tiết ở địa phương rất phù hợp cho việc phát triển các loại cây trồng và vật nuôi. Hệ thống giao thông đường bộ của xã phát triển chậm hơn so với các xã khác trong huyện. Trước cách mạng tháng 08 năm 1945, khu đất này rất ít người sinh sống, rừng núi rậm rạp, đi lại khó khăn, chủ yếu đường mòn. Sau cách mạng tháng 08 năm 1945, đặc biệt từ năm được chia tách xã( năm 1986), các tuyến đường mòn, đường lâm nghiệp đi lại nối liền các thôn bản với nhau, hiện nay đã được sửa chữa, mở rộng; một số thôn đã được bê tông hóa với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Tuyến đường chính liên xã từ thôn Nặm Tạu chạy qua các thôn Phiêng Phày, Xuân Thành, Xuâm Minh, Nậm Tạu, Xuân Thượng, Xuân Mới nối với đường 279, chạy qua địa phận các xã Liên Hiệp, Bằng Hành, Kim Ngọc, Quang Minh ra quốc lộ II đã được đầu tư rải nhựa. Đến nay, toàn xã có 07 thôn đã có đường ô tô tới trung tâm gồm: ; trong đó còn hai thôn chưa đường ô tô tới trung tâm thôn là Xuân Mới, Xuân Thượng, Nậm Tạu, Xuân Minh, Xuân Thành, Xuân Đường, Phiêng Phày.Với hệ thống giao thông của xã đã được đầu tư xây dựng và từng bước phát triển trong những năm gần đây là điều kiện thuận lợi cho các phương tiện ô tô, xe máy và người dân vận chuyển, lưu thông hàng hoá, đi lại dễ dàng tới trung tâm xã, chợ, các thôn bản và vươn ra các huyện, tỉnh khác trong cả nước. II. Điều kiện xã hội: Trước năm 1986, xã Đức Xuân thuộc xã Liên Hiệp ngày nay. Ngày 19 tháng 02 năm 1986, thực hiện Quyết định số 14/QĐ- HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc điều chỉnh, chia tách địa giới một số xã, thị trấn của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Tuyên; xã Liên Hiệp được chia thành 2 xã mới lấy tên là xã Liên Hiệp và xã Đức Xuân1. Kể từ đây xã Đức Xuân mới chính thức có tên trên bản đồ đất nước Việt Nam.
  6. 6 1. Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển(1891-2001), nhà xuất bản chính trị Quốc gia. Khi chia tách xã Đức Xuân có 03 thôn, gồm: Thôn Xuân Thành, Xuân Đường, Xuân Mới và 03 dân tộc cùng chung sống (Tày, Dao, Mông); với tổng số 1.154 nhân khẩu. Ngày 14 tháng 06 năm 1996 , thực hiện Quyết định của Hội Đồng nhân dân chia thôn Xuân Thành thành 02 thôn Xuân Thành và thôn Phiêng Phày; thôn Xuân Đường thành 02 thôn: thôn Xuân Đường và thôn Nà Bó; thôn Xuân Mới tách thành 02 thôn : thôn Xuân Mới và thon Nặm Tạu, nâng tổng số thôn của xã lên thành 06 thôn. Ngày 29 tháng 08 năm 1998, thôn Xuân Thành tách thành 02 thôn, Xuân Thành và Xuân Minh; nâng tổng số thôn của xã lên thành 07 thôn. Ngày 11 tháng 09 năm 2008, thôn Nặm Tạu tách thành 02 thôn, thôn Nặn Tạu và thôn Xuân Thượng; nâng tổng số thôn trong xã lên 08 thôn. Sự điều chỉnh địa giới hành chính, đã góp phần thuận lợi cho Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân trong xã tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, từng bước ổn định cuộc sống, xóa đói giảm nghèo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đề ra. Xã Đức Xuân là xã vùng sâu, vùng xa của huyện, là nơi sinh sống tập chung chủ yếu của đồng bào các dân tộc thiểu số. Từ xưa tới nay, đồng bào các dân tộc trong xã luôn sống gần nhau, đoàn kết, thân thiện, cởi mở cùng nhau xây dựng quê hương, bảo vệ làng bản. Nghề nghiệp chủ yếu của đồng bào các dân tộc tại đây là trồng trọt, chăn nuôi; chủ yếu cấy lúa nước, lúa cạn, trồng ngô và các cây hoa màu khác. Diện tích đất sản xuất lúa nước ở đây trước kia rất ít, tập trung chủ yếu ở thôn Xuân Mới, Xuân Đường, Xuân Thành , đến nay, thực hiện chủ trương của Đảng về chính sách "Định canh định cư " nhân dân đã tích cực khai hoang, phục hoá làm ruộng phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, dịch vụ; ngoài ra nhân dân còn phát triển nghề thủ công như: Mộc, đan lát, dệt vải, rèn... để phục vụ cuộc sống và trao đổi hàng hóa, tăng thu nhập, nâng cao cuộc sống hàng ngày. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm chiếm nước ta, chúng chiếm đóng Hà Giang vào năm 1887. Nhân dân các dân tộc Hà Giang vốn có truyền thống chống ngoại xâm, đã không khuất phục trước bất kỳ thế lực thống trị nào, luôn sẵn sàng đứng lên chống lại chế độ thực dân Pháp và bè lũ tay sai; chúng áp đặt hệ thống cai trị từ Tỉnh đến Huyện, xã cũng không ngoài hệ thống cai trị đó. Tháng 4 năm 1890, sau khi điều chỉnh phạm vi quản lý, thực dân Pháp xác lập chế độ quân quản. Trước hết chúng tiếp tục duy trì và củng cố đội
  7. 7 ngũ tay sai ở cấp cơ sở như: Lý Trưởng, Phó Lý, hội đồng kỳ mục ở vùng đồng bào dân tộc Tày; đối với khu vực người Dao cư trú chúng lập thành động và cử người Dao làm quản động. Chúng tiếp tay cho bọn cầm quyền ra sức bắt phu, bắt lính, thu thuế. Nhân dân phải bỏ công việc đồng ruộng để đi phu, đi lính, xây dựng đồn bốt và các công việc khác không công, phục vụ cho bộ máy cai trị của chúng (tự lo cơm, gạo, thực phẩm, công cụ... đi làm); những người dân muốn tránh khỏi nạn đi phu, bắt lính phải chạy tiền đút lót cho Lý Trưởng, Phó Lý trong xã. Để thực hiện các chính sách đã đề ra, chúng thành lập đội lính dõng phục vụ mưu đồ của chúng. Nền văn hoá của các dân tộc phát triển rất sớm. Tuy mỗi dân tộc có một bản sắc văn hoá riêng, đặc trưng cho từng dân tộc. Nền văn hóa đó thể hiện qua ngôn ngữ, trang phục, văn hóa, phong tục, những câu truyện dân gian ca ngợi cái đẹp, tình yêu thiên nhiên, đất nước, quê hương, tình yêu nam nữ....; đồng thời phê những phán thói hư tật xấu trong xã hội. Những nhạc cụ dân tộc, cũng được từng dân tộc sáng tạo ra phù hợp với những làn điệu dân ca như: Thổi Khèn, thổi sáo, kèn lá, chiêng, phách.... Tại các ngày lễ, tết truyền thống của dân tộc, các hoạt động tín ngưỡng xen kẽ với các hoạt động thể thao, văn nghệ quần chúng cũng được nhân dân thực hiện sôi nổi như: Đánh quay, đánh yếu, đẩy gậy, hát giao duyên, hát then, hát lượn....Chính các làn điệu văn hóa - nghệ thuật của các dân tộc đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Song văn hóa - phong tục của các dân tộc đều có một đặc điểm chung là thờ cúng tổ tiên, khi mất đều được làm ma, con cháu khi đến tuổi trưởng thành đều được cưới hỏi, xây dựng gia đình, cúng bái theo phong tục, tập quán phù hợp với từng gia đình, từng dòng họ và từng dân tộc. Vì vậy, để phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế ngày càng sâu rộng, cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền tới toàn thể nhân dân gạt bỏ các yếu tố lạc hậu, phản động, mê tín dị đoan còn tồn tại trong đời sống của đồng bào các dân tộc. Tích cực bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống lành mạnh, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần phát triển, giữ gìn nền văn hóa các dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Tín ngưỡng của các dân tộc trong xã, vốn không theo một tôn giáo chính thống nào, mà chỉ thờ cúng tổ tiên theo phong tục truyền thống. Song trong những năm gần đây, một số phần tử xấu đã lợi dụng sự hạn chế hiểu biết pháp luật, sự cả tin, trình độ văn hóa, nhận thức của đồng bào còn hạn chế, chúng dùng nhiều thủ đoạn khác nhau nén nút truyền đạo Tin lành tới đồng bào các dân tộc, đặc biệt dân tộc Mông, nhằm lôi kéo đồng bào học đạo và theo đạo trái pháp luật, trái phong tục tập quán,
  8. 8 truyền thống văn hóa tốt đẹp đã được gìn giữ và tồn tại bao đời nay, với mục đích thực hiện âm mưu " Diễn biến hòa bình", chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc. Về lĩnh vực đời sống kinh tế, thực dân Pháp thi hành chính sách hết sức hà khắc, với các loại thuế khác nhau đánh vào người dân như: Thuế thân, thuế điền, thuế gia ốc, thuế nuôi quân, thuế kinh lý, thuế nuôi ngựa, thuế môn bài, thuế kiểm lâm, thuế rượu, thuế đò, thuế chợ.... làm cho nhân dân khổ cực và không ít gia đình khuynh gia bại sản, phải bán ngựa, bán trâu... thậm trí nhiều gia đình không có tiền để mua muối ăn. Thâm độc hơn chúng còn khuyến khích người dân trồng, hút thuốc phiện, uống rượu, đánh bạc.... Các hủ tục lạc hậu và tệ nạn xã hội luôn luôn là bạn đồng hành với chính sách ngu dân của chúng, với mục đích đầu độc và làm tổn hại giống nòi của nhân dân ta. Chính vì chính sách đó, nên hầu như 100% người dân thất học; cả xã không có một lớp học nào. Khi bị ốm đau chỉ dựa vào cây rừng hoặc cúng bái là chính, vì vậy dịch bệnh xẩy ra thường xuyên như: Dịch sốt rét, dịch đậu mùa, thương hàn, sởi...... không có thuốc điều trị, nên không chánh khỏi những tổn thất thương tâm trong nhân dân. Về kinh tế chủ yếu của các dân tộc xã Đức Xuân là sản xuất nông - lâm nghiệp, cây lương thực chính là lúa, ngô, trong đó cây lúa là cây lương thực chính; ngoài ra nhân dân còn phát triển trồng cây công nghiệp như chè, lạc, cây ăn quả như cam, quýt..., các cây ngắn ngày khác rau, dưa, đậu đỗ các loại xen kẽ trên các nương ngô. Đồng thời phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm, dê, trâu, bò, vừa hỗ trợ sản xuất, cải thiện cuộc sống, vừa tăng thu nhập trong nhân dân. Dân số toàn xã Đức Xuân trước đây rất ít, chỉ vài chục hộ, với 03 dân tộc cùng chung sống: Dân tộc Tày, dân tộc Dao và dân tộc Mông, mỗi dân tộc sống theo từng khu vực. Đến nay với sự chỉ đạo của Đảng và phát triển của xã hội, nhận thức của nhân dân, các dân tộc đã sống đan sen với nhau và luôn đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm trong sản xuất, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ làng bản. Đến năm 2014 xã Đức Xuân có tổng số 487 hộ, với 2.278 người; trong đó nữ 1.124 người, chiếm 49% tổng số người trong xã và có 05 dân tộc cùng chung sống: Dân tộc Dao, dân tộc Tày, dân tộc Kinh, dân tộc Nùng và dân tộc Mông; trong đó dân tộc Dao 1.270 người chiếm 56%, dân tộc Tày 748 người chiếm 33%, dân tộc Mông 209 người chiếm 9 %, còn lại dân tộc Kinh và dân tộc Nùng chiếm 2% dân số toàn xã. Trước năm 1945 xã Đức Xuân chưa có một đảng viên nào. Nhưng một số thanh niên trong xã đã được giác ngộ cách mạng và đi theo đường lối Đảng như: Đồng chí Ma Văn Nhung, đồng chí Ma Văn Tùy và đồng chí Ma Thị Canh là những cán bộ tiền khởi nghĩa của xã và được kết nạp tại liên chi
  9. 9 bộ vào những năm 1945 và 1946; ngoài ra còn có các quần chúng cũng tích cực tham gia hoạt động cách mạng góp phần giải phóng quê hương. Đến hết tháng 12 năm 2015, Đảng bộ xã Đức Xuân có 12 chi bộ, trong đó có 02 chi bộ trường học, 08 chi bộ thôn bản, 02 chi bộ cơ quan xã, với 228 đảng viên. Hàng năm kết nạp được từ 3 - 6 quần chúng ưu tú vào Đảng. Các chi bộ và đảng viên là nòng cốt trong công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, quyết tâm phấn đấu tổ chức, xây dựng Đảng bộ xã Đức Xuân ngày một đoàn kết, dân chủ, giầu đẹp, văn minh; luôn giữ vững truyền thống văn hóa tốt đẹp của xã. III. Truyền thống cách mạng trước khi thành lập xã. Cũng như bao dân tộc khác trong cả nước, truyền thống cách mạng của nhân dân các dân tộc xã Đức Xuân hòa chung với truyền thống lịch sử đấu tranh dựng nước và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam; đồng thời gắn liền với truyền thống đấu tranh chống các thế lực thù trong giặc ngoài và hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, của khu cách mạng Trọng Con, huyện Bắc Quang: Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp để thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để thống nhất đất nước; cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Đó là truyền thống hào hùng để bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, trong đó có sự đóng góp của nhân dân các dân tộc xã Đức Xuân. Đồng thời cũng là truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, chống chọi với thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1939 - 1954), giai đoạn này nhân dân các dân tộc xã Đức Xuân còn thuộc xã Liên Hiệp ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân các dân tộc luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết một lòng, kiên quyết đấu tranh chống thực dân Pháp và các thế lực thù địch, giải phóng quê hương, xây dựng chính quyền. Truyền thống lịch sử đó gắn liền với truyền thống cách mạng khu Trọng Con, lịch sử Đảng bộ Huyện Bắc Quang bằng những nhiệm vụ cụ thể như: Động viên con em lên đường nhập ngũ, vận tải lương thực, thực phẩm, thành lập các tổ dân quân tự vệ bảo vệ làng bản, bảo vệ chính quyền; thành lập các tổ đổi công, tích cực tăng gia sản xuất phát triển kinh tế gia đình, đồng thời đóng góp của cải, vật chất cho kháng chiến. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, các phong trào thi đua đã được Đảng, chính quyền, các đoàn thể phát động và được đông đảo nhân dân hưởng ứng thực hiện như phong trào " Hũ gạo kháng chiến", " Phong trào Hoàng Hanh" , " Tổ đổi công Trịnh Xuân Bái".... Kết quả đã có hàng trăm con em các dân tộc tình nguyện tham gia kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, vận tải lương thực, thực phẩm và hàng tấn lương thực, thực phẩm của nhân dân ủng hộ đóng góp cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, góp
  10. 10 phần mở ra một trang sử mới cho cách mạng Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã có 2 liệt sĩ đã anh dũng hy sinh tuổi thanh xuân của mình vì quê hương, vì Tổ quốc và 03 đồng chí được công nhận là cán bộ tiền khởi nghĩa là đồng chí Ma Văn Nhung, đồng chí Ma Văn Tùy và đồng chí Ma Thị Canh. Đây là những tấm gương tiêu biểu để cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau học tập và tiếp tục noi theo tinh thần vì nước, vì dân để xây dựng và bảo vệ quê hương, Tổ quốc. Giai đoạn 1955 - 1975, đây là giai đoạn cả nước thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản, miền Bắc tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi và cũng không ít những khó khăn trước mắt, đồng thời không ngừng tăng cường chi viện sức người, của cải để đánh đuổi đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; mặt khác luôn nâng cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Miền Nam tăng cường xây dựng lực lượng, vừa sản xuất, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động, nhân dân hai niềm Nam - Bắc, đã đoàn kết một lòng, kiên định với đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng, vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, với nhiều giải pháp cụ thể thiết thực, phù hợp, hiệu quả và nhiều phong trào thi đua đã được phát động như: Phong trào "Phụ nữ 3 đảm đang, thanh niên 3 sẵn sàng", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Hậu phương thi đua với tiền phương", "đường cày đảm đang".....đã được nhân dân các dân tộc đồng tình hưởng ứng thực hiện và thu được kết quả cao. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam đang giành được nhiều thắng lợi, đồng thời công cuộc phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh ở miền Bắc cũng đang trên đà thắng lợi thì ngày 02 tháng 09 năm 1969, cả nước nghe tin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân các dân tộc Việt Nam đã từ trần. Trước tổn thất to lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân; cả nước đã biến đau thương thành sức mạnh, quyết tâm thực hiện lời Di chúc thiêng liêng của Người " Cuộc kháng chiến chống Mỹ còn kéo dài. Đồng bào ta có thể hy sinh nhiều của, nhiều người.Dù sao chúng ta phải quyết đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn...". Để thực hiện tốt lời Di chúc của Người, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã mở đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng, toàn dân, nhằm nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập và làm theo Di chúc của Người. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ xã, của Huyện ủy Bắc Quang, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong xã đã được học tập và quán triệt sâu sắc Di chúc của Người và các Chỉ thị, Nghị quyết của các cấp; đồng thời phát động các phong trào thi
  11. 11 đua trong trong lao động, sản xuất; động viên con em lên đường nhập ngũ; đóng góp thuế và các nghĩa vụ khác cho Nhà nước, góp phần đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tai sai bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước vào ngày 30 thánh 04 năm 1975. Trong đó có sự đóng góp sức người và vật chất của nhân dân các dân tộc trong xã. Riêng thôn Đức Xuân( thuộc xã Liên Hiệp ngày nay) đã có 13 thanh niên xung phong lên đường tham gia chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, trong đó có 01 liệt sĩ đã anh dũng hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc, cho nhân dân và 01 đồng chí đã mất đi một phần xương máu của mình trên chiến trường. Giai đoạn 1975 - 1985, đây là giai đoạn cả nước tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hòa bình, đồng thời cũng chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng như: Ngày 25 tháng 04 năm 1976, cử tri xã cùng với cử tri cả nước vui mừng cầm lá phiếu bầu Quốc Hội khoá VI - Quốc Hội của nước Việt Nam thống nhất; ngày 02 tháng 7 năm 1976, kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá VI đã quyết định đổi tên nước thành nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thủ đô là Hà Nội; từ ngày 14 đến ngày 20 tháng 12 năm 1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam quyết định đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và đề ra kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường nội lực cách mạng, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển Chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khoá V, kỳ họp thứ hai, ngày 27 tháng 12 năm 1975 về việc hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, đầu tháng 4 năm 1976 việc hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang được tiến hành và lấy tên là tỉnh Hà - Tuyên. Tháng 02 năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã mở cuộc vận động tăng cường cán bộ cho các huyện biên giới phía Bắc. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn phát triển mạnh hợp tác xã nông nghiệp trong cả nước nói chung, trong đó có các xã của huyện Bắc Quang. Song cũng bộc lộ rõ những hạn chế trong cơ chế quản lý Nhà nước, quản lý hợp tác xã theo hình thức quản lý quan liêu bao cấp tập chung, làm hạn chế sức phát triển của xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh cả nước còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế và trên thực tiễn tổng kết, đánh giá công tác khoán ở một số địa phương trong cả nước; để khai thác, phát huy tiềm năng phát triển kinh tế, đặc biệt kinh tế nông nghiệp. Ngày 13 tháng 01 năm 1981, Ban Bí thư Trung ương đã ra Chỉ thị 100/CT - TW về cải tiến công tác khoán và mở rộng "Khoán sản
  12. 12 phẩm đến nhóm và người lao động" trong Hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra đời là mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển đổi cơ chế trong công tác quản lý, sản xuất nông nghiệp của nước ta. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ, Đảng bộ xã đã triển khai quán triệt Chỉ thị 100/CT-TW, ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư Trung ương "Về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động" tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã; đồng thời phát động phong trào thi đua trong lao động sản xuất, phấn đấu hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra. Phong trào thi đua đã được chính quyền, các hợp tác xã, các đoàn thể xã hội, các đoàn viên, hội viên và nhân dân các dân tộc phấn khởi, đồng tình, hưởng ứng thực hiện. Cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động đã tạo động lực mới, môi trường mới trong lao động sản xuất, đem lại kết quả rõ rệt về các mặt: diện tích, năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi đều tăng, bảo đảm kết hợp hài hòa ba lợi ích (nhà nước, tập thể và người lao động); khuyến khích được mọi người, mọi nhà tích cực tận dụng tiềm năng sẵn có của gia đình để phát triển sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhằm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao cuộc sống, tăng thu nhập, giảm đói nghèo cho gia đình và xã hội; tư tưởng của nhân dân không trông chờ, ỷ lại vào tập thể. Chính vì vậy kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của xã từng bước được củng cố và phát triển. Trải qua 55 năm( 1930 - 1985) kể từ khi có Đảng lãnh đạo, nhân dân các dân tộc trong huyện Bắc Quang nói chung, trong xã nói riêng đã đoàn kết một lòng không ngừng đấu tranh với thiên nhiên, với các kẻ thù xâm lược, đã tạo nên ý thức độc lập, tự do của dân tộc, song cũng luôn bao dung, dũng cảm kiên cường, cần cù, nhẫn nại trong lao động sản xuất, yêu quê hương, đất nước. Đức tính đó đã tạo nên sức mạnh mãnh liệt để vượt qua những thử thách của thiên nhiên, chiến thắng mọi kẻ thù. Đồng thời cũng tạo nên những nét đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi và cũng là sức mạnh để nhân dân các dân tộc trong xã cùng với nhân dân trong huyện Bắc Quang và cả nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng, quyết tâm phấn đấu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng, đưa đất nước tiếp tục phát triển trong giai đoạn mới.
  13. 13 CHƯƠNG II Chi bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện những năm đầu công cuộc đổi mới và chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng bộ xã (1986 - 1990) I. Chi bộ lãnh đạo nhân dân thực hiện những năm đầu công cuộc đổi mới của Đảng. Sau mười năm( 1975 - 1985), tiến hành thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng, thống nhất hành động và giành được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực, song cũng còn nhiều khó khăn, thử thách; tình trạng khủng khoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng, lạm phát kinh tế tăng, thiên tai lũ lụt hàng năm xẩy ra với cường độ lớn, khó lường, sản xuất chưa đủ tiêu dùng, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Mặt khác đất nước chúng ta phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch; tình hình thế giới diễn biến phức tạp, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông âu tan rã đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh của đất nước ta. Là một xã của tỉnh niềm núi nằm phía đông bắc của Tổ quốc, cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng chung của cả nước. Xuất phát từ một nền kinh tế phát triển còn chậm, kinh tế tự cung, tự cấp là chính, cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp chưa được đổi mới kịp thời; nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Sản lượng lương thực tăng trưởng chậm, bình quân lương thực đầu người còn thấp, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao. Mặt khác thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh thường xuyên xẩy ra, năng suất cây trồng thấp, kỹ thuật thâm canh và ứng dụng các biện pháp khoa học còn hạn chế, trình độ quản lý kinh tế của cán bộ còn yếu; cơ sở hạ tầng chưa phát triển, lưu thông hàng hóa còn khó khăn( chủ yếu phân phối). Do vậy đời sống của nhân dân còn gặp không ít khó khăn. Song nhân dân cả nước nói chung và nhân dân xã Đức Xuân nói riêng, luôn luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước sẽ có cơ chế quản lý đổi mới, phù hợp để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước những năm 1986, xã Đức Xuân là tên một Hợp tác xã thuộc xã Liên Hiệp ngày nay. Do điều kiện hợp tác xã Đức Xuân rộng, xa nơi trung tâm của xã Liên Hiệp, đường đi lại rất khó khăn, nên công tác quản lý, chỉ đạo phát triển kinh tế gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình trên, Hội Đồng nhân dân huyện Bắc Quang đã có văn bản đề nghị Tỉnh, Trung ương cho phép chia tách và thành lập mới một số xã trong huyện, trong đó có xã Đức Xuân.
  14. 14 Ngày 30 tháng 04 năm 1986, tại điểm trường Nà Đon trước kia( nay là trường THCS xã Đức Xuân) Ủy ban nhân dân huyện Bắc Quang đã long trọng tổ chức lễ công bố Quyết định số 14/QĐ - HĐBT, ngày 19 tháng 02 năm 1986 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập, điều chỉnh địa giới hành chính một số xã, thị trấn của huyện Bắc Quang thuộc tỉnh Hà - Tuyên, trong đó có Hợp tác xã Đức Xuân được tách ra từ xã Liên Hiệp ngày nay và lấy tên là xã Đức Xuân. Khi chia tách xã Đức Xuân có diện tích tự nhiên là 4.592 ha, với 1.154 nhân khẩu. Đồng thời Ủy ban nhân dân huyện công bố Quyết định thành lập bộ máy chính quyền lâm thời; đồng chí Ma Đức Tấu được chỉ định giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Phàn Phụ Chòi giữ chức Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, kiêm trưởng Công an xã; đồng chí Vàng Ngọc Chiến - Công an huyện tăng cường, giữ chức Phó Trưởng Công an xã; đồng chí Ma Văn Đặng giữ chức Xã đội trưởng và các cơ quan, đoàn thể khác trong xã cũng được thành lập để tổ chức hoạt động. Kể từ đây xã Đức Xuân chính thức có tên trên bản đồ Việt Nam và bắt đầu đi vào hoạt động. Song song với việc thành lập chính quyền, Huyện ủy Bắc Quang cũng công bố quyết định thành lập chi bộ xã và chỉ định Ban chi ủy lâm thời. Đồng chí Mai Hoàng Lộc được chỉ định giữ chức Bí thư chi bộ; đồng chí Mai Đức Tấu, giữ chức Phó bí thư chi bộ kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đồng chí Mai Kim Linh - chi ủy viên. Khi thành lập chi bộ xã Đức Xuân có 08 đảng viên. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên của xã, nhiệm vụ chủ yếu của chi bộ là lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể xã hội tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của Đảng các cấp; chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nội quy, quy định của địa phương nhằm từng bước nâng cao đời sống, vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm an ninh - trật tự an toàn xã hội. Ngay sau khi được thành lập, Ban chi ủy chi bộ xã đã họp nhận định tình hình và bàn thống nhất một số những nội dung trước mắt cần chỉ đạo tổ chức thực hiện là: Về thuận lợi, là một xã mới thành lập trong huyện, nên Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện và các ban ngành, đoàn thể của huyện sẽ tập trung tạo mọi điều kiện để giúp đỡ so với các xã khác trong huyện. Đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ, năng động, nhiệt huyết; nhân dân luôn cần cù, sáng tạo vượt mọi khó khăn trong lao động, sản xuất để phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Về khó khăn, là một xã xa trung tâm huyện, đường giao thông từ trung tâm xã đến các thôn bản và huyện còn khó khăn, trình độ nhận thức của cán bộ và nhân dân có những hạn chế nhất định; sản xuất, thu nhập chính chủ yếu là nông - lâm nghiệp; các ngành nghề dịch vụ, công nghiệp hầu như chưa phát
  15. 15 triển. Đây là những thách thức lớn, đòi hỏi chi bộ, chính quyền và các ban ngành đoàn thể trong xã cần có sự phấn đấu, nỗ lực để tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra. Trước mắt Chi bộ xác định rõ những việc cần thiết tập trung chỉ đạo là: Một là, tăng cường công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, xây dựng các nội quy, quy định của địa phương để cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc bàn bạc dân chủ, thống nhất hành động, để tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn. Hai là, kiện toàn hệ thống các thôn bản để hoạt động đi vào nề nếp, hiệu quả, nhằm phát huy tinh thần dân chủ trong nhân dân. Ba là, tập trung chỉ đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất nông - lâm nghiệp, sử dụng 100% diện tích lúa và hoa màu, tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển chăn nuôi, phòng chống dịch bệnh; trong đó tập trung vào sản xuất lương thực, thực phẩm, phát triển chăn nuôi là mặt trận hàng đầu; phát triển dịch vụ. Tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng, trồng rừng, quản lý thị trường, nắm chắc các nguồn thu, giải quyết tốt vấn đề đời sống, học tập cho nhân dân và học sinh. Thực hiện tốt công tác xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn. Bốn là, đẩy mạnh phát triển xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, đời sống; trong đó mở rộng các tuyến đường liên thôn, xây dựng các đập thủy lợi, làm mương máng phục vụ sản xuất, thủy điện nhỏ kết hợp với phát triển thủy sản nâng cao đời sống nhân dân. Năm là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, chính trị cho đội ngũ cán bộ từ xã đến các thôn bản; nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận đáp ứng yêu cầu hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác được giao. Sáu là, tăng cường công tác xây dựng đảng, phát triển đảng viên mới, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức Đại hội chi bộ theo đúng Điều lệ Đảng quy định, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đẩy mạnh phong trào cách mạng quần chúng, phát động các phong trào thi đua gắn với các ngày lễ lớn của đất nước, của địa phương; bảo đảm an ninh, quốc phòng trật tự an toàn xã hội trong toàn xã. Để tổ chức thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ trên, Ban chi ủy đã chỉ đạo Chính quyền, các ban, ngành đoàn thể xã hội, các hợp tác xã xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để tổ chức thực hiện; mặt khác phân công các đồng chí trong ban chi ủy, các đồng chí đảng viên, cán bộ chủ chốt của xã phụ trách từng thôn bản, từng hợp tác xã, đồng thời thảo luận dân chủ thống nhất với nhân dân nhằm tổ chức thực hiện đạt hiệu quả tốt nhất.
  16. 16 Do có những biện pháp chỉ đạo cụ thể, kiên quyết; các đoàn thể xã hội tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, nhân dân các dân tộc trong xã được thảo luận dân chủ, tích cực hưởng ứng kế hoạch sản xuất của hợp tác xã đề ra, nên sản xuất trong xã có nhiều khởi sắc hơn trước, trong đó: Đối với sản xuất nông nghiệp, toàn xã có 15 ha diện tích lúa nước, năm 1986 toàn xã cấy đạt 100% diện tích, với những giống lúa mới CR.203, nông nghiệp 8 là chủ yếu, nhằm thay đổi các giống lúa cũ năng xuất thấp. Mặt khác ngưới dân đã tích cực đầu tư phân bón, không cấy chay, bảo đảm thủy lợi và phòng trừ sâu hại nên năng suất đạt 3,0 tạ/ha, sản lượng đạt 45tấn thóc. Diện tích cây màu của xã có trên 30 ha, tập trung chủ yếu trồng ngô, sắn, lạc, sen kẽ với rau đậu các loại nhằm phục vụ cho người và chăn nuôi tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Diện tích cây công nghiệp (cây chè) của xã còn khiêm tốn. Về chăn nuôi trong xã phát triển khá mạnh, song chủ yếu với hình thức tự cung, tự cấp là chính, những sản phẩm trở thành hoàng hóa rất ít, vì giao thông đi lại còn nhiều khó khăn; trong đó tập trung chủ yếu chăn nuôi trâu, còn nuôi lợn và gia cầm chủ yếu phục vụ gia đình, bình quân mỗi gia đình có từ 2 - 3 con trâu, một số hộ có từ 7 - 8 con trâu, với mục đích chăn nuôi cung cấp sức kéo, phân bón cho sản xuất, phục vụ sinh hoạt và tăng thu nhập cho người dân. Công tác phòng, chống ngăn ngừ dịch bệnh, chống rét trong chăn nuôi đã được tuyên truyền và thực hiện tốt hơn so với thời gian trước. Vì vậy năm 1986 cả xã không có dịch xẩy ra, không có hiện tượng trâu bị chết rét như những năm trước. Ngoài lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đồng thời được sự hỗ trợ giúp đỡ của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Bắc Quang, xã đã xây dựng, thành lập được trạm y tế, cửa hàng mua bán của xã đưa vào hoạt động. Tuy về cơ sở còn nhiều khó khăn, song đã có nơi để nhân dân đến khám và chữa bệnh; có nơi để cung cấp những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân và thu mua những sản phẩm trong nhân dân. Công tác củng cố chính quyền, các đoàn thể xã hội, an ninh quốc phòng cũng được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, nên toàn xã không có hiện tượng đơn thư khiếu kiện, an ninh trật tự xã hội luôn được bảo đảm duy trì thực hiện tốt. Đây là những thành quả ban đầu, tạo điều kiện để Chi bộ tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện có hiệu quả hơn trong thời gian tới. Ngày 15 tháng 11 năm 1986, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Bắc Quang, Đại hội chi bộ lần thứ nhất của xã Đức Xuân long trọng được tổ chức tại thôn Tân Thành, nhiệm kỳ (1986 - 1989), dự Đại hội có 08 đảng viên trong toàn chi bộ. Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm đánh giá những thành tựu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo kể từ khi chi bộ xã được thành lập ( tháng 4/1986).
  17. 17 Đại hội đã khẳng định, mặc dù Chi bộ xã mới được thành lập tám tháng, song dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của ban Chi ủy, của Chính quyền, các đoàn thể xã hội, sự hưởng ứng nhiệt tình, có hiệu quả của các hợp tác xã, các thôn bản và toàn thể nhân dân các dân tộc trong xã, đã đoàn kết chặt chẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành cơ bản những chỉ tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong phát triển kinh tế - xã hội , an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Để đưa ra những chỉ tiêu nhiệm vụ sát với tình hình của địa phương, đại hội đã nhận định những khó khăn, thuận lợi trong thời gian tới: Thuận lợi: Là một xã mới được thành lập, nên xã sẽ được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện và các cơ quan, ban nghành của huyện, nhằm tạo điều kiện giúp đỡ cho xã về cơ sở vất chất, củng cố, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Mặt khác tập thể cán bộ, đảng viên trong xã luôn có sự đồng thuận, đoàn kết thống nhất cao trong mọi hoạt động; nhân dân luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Chi bộ, Chính quyền, các đoàn thể trong xã. Tình hình an ninh, chính trị, an toàn xã hội luôn được bảo đảm. Đây là những điều kiện cơ bản, trọng tâm để Chi bộ lãnh đạo nhân dân hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra. Song cũng còn không ít những khó khăn, thách thức trong nhiệm kỳ tới như: Cơ sở vật chất của xã còn thiếu thốn, giao thông từ trung tâm xã đến huyện và các thôn bản còn nhiều khó khăn, kinh tế phát triển còn chậm, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao; trình độ quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo của cán bộ từ xã đến các thôn bản, các hợp tác xã và nhận thức của nhân dân cũng còn hạn chế so với các xã khác trong huyện; tỷ lệ hộ nghèo còn cao, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong cây trồng, vật nuôi còn hạn chế; công tác y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình còn gặp nhiều khó khăn.... Trước những thuận lợi, khó khăn trên, với sự quyết tâm cao của Chi bộ, Đại hội đã đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ (1986 - 1989) là: Một là, tăng cường công tác tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của Đảng các cấp, các chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nội quy, quy định của địa phương tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc; để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu biết, có sự nhận thức đúng đắn để tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao nhất. Hai là, củng cố các hợp tác xã, tập trung chỉ đạo sản xuất đạt 100% diện tích, không để đất bỏ hoang; đồng thời khuyến khích người dân tăng cường khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích lúa nước ở những thôn có khả năng mở rộng được, nhằm nâng cao năng xuất, sản lượng đáp ứng đủ nhu cầu lương thực trong nhân dân, hạn chế hộ đói, nghèo; mặt khác tích cực sử dụng tốt các loại đất đồi, soi bãi trồng các cây hoa màu phục vụ đời sống và phát triển chăn nuôi; phấn đấu trồng mới từ 2 - 3 ha cây chè, cây ăn quả ( cam, quýt). Tiếp tục phát triển chăn nuôi, trong đó trú trọng chăn nuôi đại gia súc,
  18. 18 phấn đấu tổng đàn trâu đạt từ 650 - 750 con; đàn lợn từ 800 - 900 con, đàn gia cầm các loại từ 1.100 - 1.300 con. Ba là, tích cực công tác bảo vệ rừng phòng hộ, trồng rừng, tuyên truyền cho người dân không phát, đốt rừng làm nương rẫy, nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân. Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh cho người, gia súc, kiên quyết không để dịch bệnh xẩy ra trên địa bàn; tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; đảm bảo đủ các loại thuốc để khám, chữa bệnh cho nhân dân tại địa bàn; phát động phong trào văn hóa, thể dục thể thao dân tộc, nhằm nâng cao sức khỏe, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Năm là, tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng của xã như trụ sở xã, trường học, các điểm trường; làm mương, xây dựng đập bảo đảm cung cấp đủ nước tưới cho các cánh đồng; tu sửa mở rộng các tuyến đường liên thôn với phương châm vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện. Sáu là, tăng cường công tác xây dựng đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội từ xã đến các thôn bản, các hợp tác xã; mặt khác không ngừng nâng cao bồi dưỡng chính trị, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, nhằm đáp ứng với yêu cầu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Phấn đấu trong nhiệm kỳ cử từ 15 - 20 cán bộ đi tham gia học tập các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, bồi dưỡng lý luận chính trị. Tích cực giới thiệu từ 10 - 20 quần chúng ưu tú cho đảng để bồi dưỡng, kết nạp vào hàng ngũ của đảng, trong đó cần ưu tiên quan tâm những đồng chí đang tham gia công tác xã hội từ xã đến các thôn bản; nhằm chuẩn bị tốt các điều kiện thành lập Đảng bộ xã trong thời gian thích hợp. Đại hội đã bầu Ban chi ủy khóa mới gồm 03 đồng chí, đồng chí Mai Hoàng Lộc được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư Chi bộ xã, đồng chí Mai Đức Tấu, Phó Bí thư Chi bộ kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đồng chí Mai Kim Linh - ủy viên Chi bộ xã. Từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức đây là" Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng" . Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới về nhiều mặt:" đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới về tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác", với tinh thần " nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật". Đại hội đã nghiêm túc đánh giá, tổng kết kinh nghiệm thành công và chưa thành công trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời Đại hội cũng nhấn mạnh sự tồn tại khách quan cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; kiện toàn hệ
  19. 19 thống chính trị, tăng cường đổi mới chỉnh đốn Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước; tập trung sức người và tiền của thực hiện ba trương trình kinh tế lớn về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Tháng 6 năm 1988, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI, tổ chức hội nghị lần thứ 5 quyết định ba vấn đề lớn: "Về công tác tư tưởng của Đảng, về công tác tổ chức cán bộ, về đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng". Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Bắc Quang, Chi bộ xã đã tổ chức học tập, quán triệt những nội dung cơ bản của các Nghị quyết cho toàn thể cán bộ, đảng viên, đồng thời xây dựng chương trình thực hiện Nghị quyết sát với tình hình cụ thể của địa phương để tổ chức thực hiện có hiệu quả. Với cơ chế đổi mới của Đảng, trong những năm 1986 - 1989, dưới ánh sang Nghị quyết lần thứ VI, của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nghị quyết Đại hội lần thứ III, Đảng bộ tỉnh Hà - Tuyên; Nghị quyết lần thứ XIII, của Đảng bộ huyện Bắc Quang, Nghị quyết lần thứ I của Chi bộ xã, các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương về công tác khoán sản phẩm trong nông nghiệp và đổi mới công tác quản lý kinh tế. Công tác lãnh đạo của Chi bộ xã, của chính quyền và các đoàn thể xã hội, các hợp tác xã đã được xây dựng kế hoạch cụ thể, sát thực phù hợp với điều kiện của địa phương. Bệnh quan liêu, cực bộ địa phương, hình thức đã từng bước được khắc phục và có sự triển vọng nhất định. Phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, an toàn xã hội đã được tăng cường; trong đó sản xuất nông nghiệp tăng trưởng khá, bình quần lương thực đầu người đạt 186kg/người/năm, tăng 2kg/người/năm so với đầu nhiệm kỳ; chăn nuôi phát triển nhanh chóng, trong xã đã hình thành một số mô hình sản xuất có thu nhập cao và phát triển ( chăn nuôi , chăn nuôi kết hợp cây ăn quả) để nhân dân học tập kinh nghiệm và nhân rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện hơn trước; tỷ lệ hộ khá trong xã tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo, đói giáp hạt đã giảm hơn so với đầu nhiệm kỳ. Các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội đều đạt so với kế hoạch đề ra, trong đó còn 2 chỉ tiêu chưa đạt. Thu ngân sách của xã các năm còn hạn chế, mới hoàn thành 90% các khoản thuế cho Nhà nước. Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng cũng được đầu tư thực hiện, toàn xã đã xây dựng và sửa chữa được 08 đập, 03 tuyến mương, sửa chữa mở rộng 2 tuyến đường nông thôn, 2 phòng học, nhà lưu trú cho giáo viên. Công tác khai hoang, phục hóa được nhân dân thực hiện tốt, năm 1988 diện tích toàn xã khai hoang được 05 ha ruộng lúa nước, nâng tổng số diện tích lúa nước toàn xã lên 20 ha. Công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân được quan tâm hơn, cán bộ y tế xã được tăng cường, chất lượng khám, điều trị cho nhân dân được nâng cao, ý thức của người dân được nâng cao trong việc phòng chống các loại dịch bệnh; công tác tiêm phòng đạt 85% chỉ tiêu đề ra. Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, với sự đóng góp tích cực của nhân dân. Trong nhiệm kỳ đã giới thiệu bồi dưỡng và kết nạp được 17 quần chúng ưu tú vào đảng, nâng tổng số đảng viên trong Chi bộ lên 25 đồng chí; an ninh
  20. 20 chính trị và trật tự xã hội luôn được giữ vững. Nhân dân luôn tin tưởng và sự lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, của địa phương, thực hiện tốt các phong trào thi đua góp phần hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch Nghị quyết các cấp đề ra. Ngày 21 tháng 06 năm 1989, tại trụ sở thôn Xuân Thành, Chi bộ xã Đức Xuân long trọng tổ chức Đại hội lần thứ II, nhiệm kỳ (1989 - 1992) dự Đại hội có 25 đồng chí Đảng viên trong Chi bộ. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế Đảng bộ đề ra một số mục tiêu cụ thể: Tổng sản lượng lương thực quy thóc 65 tấn ( thóc 45 tấn, màu quy thóc 20 tấn), bình quân lương thực đầu người đạt 200 kg/người/năm. Về chăn nuôi, đàn trâu, bò trên 800 con; đàn lợn trên 900 con; duy trì, phát triển đàn dê; đàn gia cầm phấn đấu đạt trên 1.200 con. Lâm sản phấn đấu khai thác 140 m3 gỗ tròn, trên 180 tấn nguyên liệu sợi dài và 200 tấn nguyên liệu sợi ngắn. Phấn đấu 40% thôn bản có các tuyến đường được mở rộng đến trung tâm thôn, hàng năm các tuyến đường đều được sửa chữa; 100% diện tích lúa đảm bảo đủ nước tưới tiêu, đồng thời tăng cường sử dụng những giống lúa mới, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm đưa năng xuất, sản lượng lên cao. Tăng cường công tác tuyên truyền về dân số, kế hoạch hóa gia đình, vệ sinh phòng trừ dịch bệnh, ăn chín uống sôi, giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1,95%; vận động đạt 100% các cháu trong độ tuổi đến trường, không có học sinh bỏ học. Giữ vững danh hiệu Chi bộ vững mạnh hàng năm, kết nạp từ 20 - 25 quần chúng ưu tú vào đảng. Đại hội đã bầu Ban chi ủy mới gồm 03 đồng chí. Đồng chí Mai Hoàng Lộc, tiếp tục được Đại hội tín nhiệm bầu tái cử giữ chức Bí thư Chi bộ; đồng chí Mai Kim Linh được bầu tái cử giữ chức Phó Bí thư Chi bộ, kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đồng chí Ma Đức Tấu, ủy viên Chi bộ xã. Ngay sau khi Đại hội Chi bộ xã lần thứ II được tổ chức thắng lợi. Ban chi ủy đã họp bàn thống nhất và chỉ đạo Chính quyền, các đoàn thể xã hội xây dựng chương trình hành động, trên cơ sở bán sát vào những chỉ tiêu, nhiệm vụ để cụ thể hóa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; đồng thời tích cực tuyên truyền cho hội viên, nhân dân nắn rõ để tổ chức thực hiện. Mặt khác Chi bộ phân công các đồng chí trong chi ủy, lãnh đạo Chính quyền, các đoàn thể trực tiếp phụ trách các thôn bản, các hợp tác xã và phát động các đợt thi đua gắn với các ngày lễ lớn của đất nước, của địa phương, nhằm lập thành tích cao trong lao động sản xuất. Với sự chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể và sự đoàn kết thống nhất cao của Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã hội và nhân dân các dân tộc trong xã, chắc chắn các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Chi bộ xã lần thứ II, nhiệm kỳ (1989 - 1992) thực hiện thành công tốt đẹp. II. Đảng bộ xã Đức Xuân được thành lập và tiếp tục chỉ đạo nhân dân thực hiện những năm đầu công cuộc đổi mới của Đảng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2