intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hùng An (1943-2010) - Tập 1

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:136

10
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hùng An (1943-2010) - Tập 1" giới thiệu với bạn đọc về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Hùng An giai đoạn 1943 - 2010. Với 61 năm thành lập chính quyền (1949-2010), 62 năm kể từ khi thành lập chi bộ Đảng liên xã đầu tiên (1948-2010) và 46 năm ngày thành lập Đảng bộ xã Hùng An (1964-2010), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng của xã đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử, khi thuận lợi, lúc khó khăn; song cũng giành được thắng lợi vẻ vang.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hùng An (1943-2010) - Tập 1

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG ĐẢNG BỘ XÃ HÙNG AN TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ HÙNG AN TẬP I (1943 - 2010) Xuất bản tháng ... năm 2014 1
  2. LỜI GIỚI THIỆU Ôn lại truyền thống lịch sử cách mạng của Đảng bộ là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay và mai sau, đặc biệt kể từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện Chỉ thị số 24 - CT/TU, ngày 22 tháng 11 năm 2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang “Về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 15 - CT/TW, ngày 28 tháng 08 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng( khóa XI) về tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hùng An đã chỉ đạo thành lập ban sưu tầm, ban biên soạn, nhằm tìm hiểu khai thác, nghiên cứu và biên soạn cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hùng An"; từ đó phát huy sức mạnh chính trị, sức mạnh truyền thống cách mạng, sức mạnh đoàn kết dân tộc, các quan điểm chỉ đạo, những bài học được tổng kết từ thực tiễn, trong suốt quá trình phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng qua các thời kỳ kháng chiến giành chính quyền bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước cho hôm nay và mai sau. Nội dung của cuốn sách, giới thiệu với bạn đọc về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Hùng An giai đoạn 1943 - 2010. Với 61 năm thành lập chính quyền (1949 - 2010), 62 năm kể từ khi thành lập chi bộ Đảng liên xã đầu tiên (1948 - 2010) và 46 năm ngày thành lập Đảng bộ xã Hùng An (1964 - 2010), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng của xã đã trải qua nhiều chặng đường lịch sử, khi thuận lợi, lúc khó khăn; song cũng giành được thắng lợi vẻ vang. Tuy trải qua nhiều biến động của lịch sử, nhân dân các dân tộc xã Hùng An vẫn kiên định, trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, tiếp bước cha anh, đoàn kết xung quanh Đảng để cống hiến sức người, sức của cho cách mạng, cho cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền của dân tộc và quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu "Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Thông qua cuốn sách truyền thống cách mạng của xã để giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc và thế hệ trẻ xã Hùng An, luôn tự hào truyền thống vẻ vang của quê hương; từ đó, biết kế thừa và phát huy tinh thần cách mạng của các thế hệ cha anh, đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ, lãnh đạo nhân dân quyết tâm vượt mọi khó khăn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng giao cho. Trong quá trình thu thập, sưu tầm, tìm hiểu, khai thác tư liệu, nghiên cứu và biên soạn cuốn truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã, Ban 2
  3. Thường vụ Đảng uỷ luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Thường trực Huyện uỷ, Ban Tuyên giáo huyện uỷ, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Giang; sự hỗ trợ đóng góp quý báu của các cán bộ, đảng viên, cán bộ lão thành cách mạng, nhân dân các dân tộc trong và ngoài xã để hoàn thành cuốn "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hùng An", giai đoạn (1943 – 2010). Trong thời gian biên soạn, mặc dù ban biên soạn đã có nhiều cố gắng với trách nhiệm được giao và tinh thần quyết tâm cao trước Đảng bộ, trước nhân dân; song do thời gian dài, trải qua hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chiến tranh biên giới, tư liệu bị thất lạc nhiều, nên cuốn sách không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi xin tiếp thu mọi ý kiến đóng góp của các đồng chí và các bạn để cuốn sách hoàn thiện hơn. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hùng An" (1943 - 2010). Mọi ý kiến đóng góp quý báu của các đồng chí, xin gửi về Văn phòng Đảng ủy xã Hùng An, số điện thoại 02193897538, xin chân thành cảm ơn! T/M BAN THƯỜNG VỤ ĐẢNG UỶ BÍ THƯ Hoàng Hải Mạnh 3
  4. CHƯƠNG I Khái quát về điều kiện tự nhiên và xã hội của xã Hùng An 1. Điều kiện tự nhiên: Xã Hùng An cách trung tâm huyện Bắc Quang khoảng 09 km và nằm ở phía nam của huyện. Phía bắc tiếp giáp với xã Quang Minh; phía đông giáp xã Quang Minh và xã Vô Điếm ; phía nam giáp xã Vĩnh Hảo và một phần của xã Tiên Kiều ; phía tây giáp xã Việt Hồng và xã Thị trấn Việt Quang .Tổng diện tích tự nhiên của toàn xã là 3.654,41 ha. Địa hình của xã Hùng An tương đối phức tạp, do bị chia cắt bởi các dãy núi cao, các khe suối, sông và quốc lộ II; ba phần tư diện tích của xã là đồi, núi thấp, tạo nên các thung lũng nhỏ, các soi bãi phù xa màu mỡ chạy dọc theo sông Lô và các thung lũng, rất phù hợp cho việc trồng cây ăn quả và các loại cây dài ngày. Với tổng diện tích toàn xã là 3.654,41 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 2.852,8 ha; đất trồng lúa 358,59 ha; đất trồng cây lâu năm 644,0 ha, đất lâm nghiệp 1.657,89 ha, còn lại các loại đất khác 801,61ha. Rừng ở đây trước kia phong phú và đa dạng về sinh học, có nhiều gỗ quý, có nhiều loại thảo dược và chim muông, động vật hoang giã; song do con người khai thác quá mức, chưa có ý thức bảo vệ, nên rừng tự nhiên bị kạn kiệt, các loại gỗ quý không còn; mất đi sự phong phú đa dạng của sinh vật, thực vật, hiện nay chủ yếu rừng tái sinh và rừng trồng. Đất rừng của xã chia thành hai khu vực có sự xen kẽ lẫn nhau: Khu núi đá xem kẽ đồi đất gồm các thôn Hùng Tâm, Kim Bàn, Đá Bàn, Thạch Bàn, Bó Loỏng, An Bình, Tân Tiến, Hùng Thắng, Tân Hùng và Hùng Mới, còn lại các thôn khác chủ yếu đồi thấp, không cao, nên thích hợp với nhiều loại cây trồng như: Cây chè; cây cam, quýt, cây bưởi, ổi....; các đồi, bãi, thung lũng thuận lợi cho việc chăn nuôi gia súc, gia cầm, gieo, trồng các cây công nghiệp và cây ngắn ngày; mặt khác với lợi thế nhiều khe, suối thuận tiện cho việc đắp đập, ao hồ vừa phục vụ thuỷ lợi, tưới tiêu đồng ruộng, vừa chăn nuôi cá, thuỷ cầm tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Hệ thống sông, suối của xã Hùng An phân bổ tương đối đều, hầu như thôn nào cũng có - Lớn nhất là sông Lô chảy qua địa phận của xã, có chiều dài khoảng 7,5 km, rất thuận lợi cho việc vận chuyển, giao lưu hàng hoá. Ngoài ra còn có các con suối như: Khuổi Nậm Chính, khuổi Phày và các khe nhỏ, đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đắp đập phục vụ sản xuất, xây dựng thuỷ điện nhỏ, phục vụ đời sống sinh hoạt, nuôi thủy sản của nhân dân. Song các con suối cũng làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, nhất là vào mùa mưa đi lại khó khăn do bị lũ quét, lũ ống, sạt nở. Khí hậu, thời tiết ở địa phương rất phù hợp cho việc phát triển cây trồng và vật nuôi. 4
  5. Khí hậu của xã Hùng An cùng chung với vùng khí hậu của huyện Bắc Quang, với đặc chưng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thời tiết, khí hậu có hai mùa rõ nét, mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9 hàng năm. Lượng mưa hàng năm đạt trên 3.500 mm, độ ẩm trung bình 80%; nhiệt độ trung bình 270C. Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình của mùa đông từ 16 - 220C; lượng mưa không đáng kể. Song có năm mưa to lũ quét, gió lốc, có tháng rét đậm kéo dài nhiệt độ xuống dưới 60C ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, chăn nuôi và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Hệ thống giao thông đường bộ của xã phát triển nhanh hơn so với các xã khác trong huyện. Đặc biệt có tuyến quốc lộ II chạy dọc qua 9 thôn của xã với chiều dài trên 12 km, bắt đầu từ thôn Thạch Bàn, Đá Bàn, Kim Bàn, Tân An, An Tiến, Tân Tiến, Hùng Tiến, Tân Hùng và kết thúc tại thôn Hùng Thắng. Các tuyến đường mòn, đường lâm nghiệp đi lại nối liền các thôn bản với nhau, hiện nay đã được sửa chữa, mở rộng và bê tông hóa với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Với hệ thống giao thông của xã phát triển, đây là điều kiện thuận lợi cho các phương tiện ô tô, xe máy và người dân vận chuyển, lưu thông hàng hoá, đi lại dễ dàng tới trung tâm xã, các thôn bản, chợ và vươn ra các huyện, tỉnh khác trong cả nước. 2. Điều kiện xã hội: Từ xa xưa, xã Hùng An có tên gọi là xã Hùng Nỗ, tên xã Hùng An chính thức cách đây 61năm, kể từ khi có chủ trương sát nhập các xã trong huyện ( năm 1949). Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 xã Hùng An chia thành hai xã: Xã Hùng Minh và xã An Tường, gồm 08 làng: Làng Thắng, làng Mới, làng Tiến, làng Dộc, Khuổi Lạch, Bó Loỏng, Đá Bàn, làng Khuổi Phày(khuổi Phày gồm hai xóm: xóm nặm Liền và xóm Váng), thuộc tổng Tinh Tường, châu Bắc Quang, thuộc Tiểu quân khu Bắc Quang ( Tiểu quân khu Vị Xuyên sát nhập với Tiểu quân khu Bắc Quang - tiền thân tỉnh Hà Giang sau này) 1. Dưới thời Pháp thuộc, địa phương đặt dưới chế độ quân quản. Khi tỉnh Hà Giang đặt dưới chế độ dân sự, lúc đó hai xã thuộc tổng Tinh Tường với 08 thôn bản, chủ yếu là dân tộc Tày, dân tộc Dao cùng chung sống. Vùng đất này trước đây rất hoang vắng, dân cư thưa, ít người qua lại. 1. Lịch sử huyện Bắc Quang, tập I (1939 - 1975), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Tháng 12 năm 1949, Bắc Quang tiến hành công tác nhập xã: Hai xã Mục Hà, Hồng Yên thành xã Yên Hà; hai xã Vĩnh Tuy, Hảo Tân thành xã Vĩnh Hảo; hai xã Tân Lộc, Trịnh Trang thành xã Tân Trịnh; hai xã Tiên Kiều, Hương Sơn thành xã Tiên Sơn; hai xã Hùng Minh, An Tường thành xã Hùng An. Kể từ đây xã Hùng An mới có tên chính thức trên bản đồ. Từ năm 1959 đến năm 1961, hợp tác xã bậc thấp được hình thành tại xã; đến năm 1967 xây dựng hợp tác xã bậc cao, nhằm thuận tiện cho việc quản lý 5
  6. hành chính, các thôn sát nhập và đổi tên khác như: làng Mới và làng Thắng đổi thành Hùng Thắng; làng Tiến và làng Dộc đổi thành Hùng Tiến, Đá Bàn và Khuổi Phày đổi thành Hùng Tâm, tên các hợp tác xã được gắn liền với tên theo các thôn bản. Năm 1970 thành lập thôn mới, thôn Tân An. Ngày 26 tháng 05 năm 1998, thực hiện chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Quang về việc điều chỉnh chia tách và đổi tên, thành lập các thôn mới, xã Hùng An tại thời điểm này có 11 thôn gồm: Hùng Thắng, Tân Hùng, Hùng Tiến, Tân Tiến, An Tiến, Tân An, Kim Bàn, Đá Bàn, Thạch Bàn, Hùng Tâm, Bó Loỏng. Năm 2006, thành lập hai thôn mới là thôn An Dương và thôn An Bình được tách ra từ thôn Bó Loỏng. Năm 2010, hai thôn Tân Thắng và Hùng mới được tách ra từ thôn Hùng Thắng. Đến năm 2010, tổng số thôn của xã có 15 thôn: Tân Thắng, Hùng Mới, Hùng Thắng, Tân Hùng, Hùng Tiến, Tân Tiến, An Tiến, Tân An, Kim Bàn, Đá Bàn, Thạch Bàn, Hùng Tâm, An Dương, An Bình, Bó Loỏng. Từ xưa, đồng bào các dân tộc trong xã luôn sống gần nhau, đoàn kết cùng nhau xây dựng quê hương, bảo vệ làng bản. Nghề nghiệp chủ yếu của đồng bào các dân tộc tại đây là trồng trọt, chăn nuôi; chủ yếu cấy lúa nước, lúa cạn. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 ruộng đất có rất ít, tập chung chủ yếu ở thôn (làng): làng Mới, làng Thắng, làng Tiến, làng Dộc. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, nhân dân đã tự khai hoang, phục hoá làm ruộng phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, dịch vụ ngoài ra nhân dân còn phát triển nghề thủ công như: Mộc, đan lát, dệt thổ cẩm, chế biến, dịch vụ..... Nền văn hoá của các dân tộc phát triển rất sớm. Tuy mỗi dân tộc có một bản sắc văn hoá riêng, phong tục riêng; song điều có một đặc điểm chung là thờ cúng tổ tiên, khi mất đều được làm ma; con cháu khi đến tuổi trưởng thành đều được cưới hỏi, xây dựng gia đình, cúng bái theo phong tục, tập quán phù hợp với từng gia đình, từng dòng họ và từng dân tộc. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm chiếm nước ta, chúng chiếm đóng Hà Giang vào năm 1887. Nhân dân các dân tộc Hà Giang vốn có truyền thống chống ngoại xâm, đã không khuất phục trước bất kỳ thế lực thống trị nào, luôn sẵn sàng đứng lên chống lại chế độ thực dân Pháp và bè lũ tay sai; chúng áp đặt hệ thống cai trị từ tỉnh đến huyện, xã Hùng Minh và xã An Tường cũng không ngoài hệ thống cai trị đó của thực dân Pháp. Tháng 4 năm 1890, sau khi điều chỉnh phạm vi quản lý, thực dân Pháp xác lập chế độ quân quản. Trước hết chúng tiếp tục duy trì và củng cố đội ngũ tay sai ở cấp cơ sở như: Lý Trưởng, Phó Lý, hội đồng kỳ mục ở vùng đồng bào dân tộc Tày; đối với khu vực người Dao cư trú chúng lập thành động và cử người Dao làm quản động. Khi ấy Hùng Minh và xã An Tường 6
  7. nằm ở tổng Tinh Tường, do ông chánh Chung làm chánh tổng và ông Chánh Đức làm phó chánh tổng. Chúng tiếp tay cho bọn cầm quyền ra sức bắt phu, bắt lính, thu thuế. Nhân dân phải bỏ công việc đồng ruộng để đi phu, đi lính, xây dựng đồn bốt và các công việc khác không công, phục vụ cho bộ máy cai trị của chúng (tự lo cơm, gạo, thực phẩm, công cụ... đi làm); những người dân muốn tránh khỏi nạn đi phu, bắt lính thì phải chạy tiền đút lót cho Lý Trưởng, Phó Lý trong xã. Để thực hiện các chính sách đã đề ra, chúng thành lập đội lính dõng phục vụ mưu đồ cai trị của chúng. Về lĩnh vực đời sống kinh tế, thực dân Pháp thi hành chính sách hết sức hà khắc, với các loại thuế khác nhau đánh vào người dân: Thuế thân, thuế điền, thuế gia ốc, thuế nuôi quân, thuế kinh lý, thuế nuôi ngựa, thuế môn bài, thuế kiểm lâm, thuế rượu, thuế đò, thuế chợ.... làm cho nhân dân khổ cực và không ít gia đình khuynh gia bại sản, phải bán ngựa, bán trâu... thậm trí nhiều gia đình không có tiền mua muối để ăn. Thâm độc hơn chúng còn khuyến khích người dân trồng, hút thuốc phiện, uống rượu, đánh bạc.... Các hủ tục lạc hậu và tệ nạn xã hội luôn luôn là bạn đồng hành với chính sách ngu dân của chúng, với mục đích đầu độc và làm tổn hại giống nòi của nhân dân ta. Chính vì chính sách đó, nên hầu như 100% người dân thất học; cả xã không có một lớp học nào. Khi bị ốm đau không nơi khám chữa bệnh, chỉ dựa vào cây rừng hoặc cúng bái là chính; vì vậy dịch bệnh xẩy ra thường xuyên như: Dịch sốt rét, dịch đậu mùa, thương hàn, sởi...... không có thuốc điều trị, nên không trách khỏi những tổn thất thương tâm trong nhân dân. Dân số toàn xã đến năm 2010 có tổng số 2.232 hộ, với 7.948 nhân khẩu và 13 anh em dân tộc cùng chung sống: Dân tộc Tày, dân tộc Kinh, dân tộc Nùng, Mông, Dao, Cao Lan, dân tộc Clao, dân tộc Hoa, Sán Dìu, La Chí, Pà Thẻn, Lô Lô và dân tộc Mường; trong đó dân tộc Tày có 3.223 người chiếm 41,0 %, dân tộc Kinh 3.811 người chiếm 48%, dân tộc Dao 829 chiếm 10%, còn lại 1% là các dân tộc anh em khác. Đến hết tháng 12 năm 2010, Đảng bộ xã Hùng An có 23 chi bộ, trong đó có 07 chi bộ trường học, 15 chi bộ thôn bản, 01 chi bộ cơ quan xã; với 469 đảng viên, trong đó nữ 201 đảng viên chiếm 43%. Hàng năm kết nạp được từ 5 - 8 quần chúng ưu tú vào Đảng. Các chi bộ và đảng viên là nòng cốt trong công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, quyết tâm phấn đấu tổ chức, xây dựng xã Hùng An ngày càng đoàn kết, dân chủ, giầu đẹp, văn minh; luôn giữ vững truyền thống tốt đẹp là xã văn hoá đã được cấp trên công nhận. 7
  8. CHƯƠNG II Nhân dân xã Hùng An trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp (1943 - 1954). I. Nhân dân các dân tộc xã Hùng An tham gia cuộc vận động cách mạng, tiến tới xây dựng chính quyền và thành lập chi bộ xã (1943 -1949). Trong những năm 1939 - 1945, tại tỉnh Hà Giang phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ và được mở rộng ở các vùng phong trào còn yếu, các vùng sâu, vùng xa, các vùng dân tộc thiểu số trong toàn tỉnh. Tháng 3 năm 1943, cán bộ Việt Minh đến Khau Củm, Khuổi Phầy xã Hùng An, Khuổi Nghè xã Hảo Tân. Đồng bào Dao ở đây đã được các đồng chí Thái và đồng chí Hiệp tuyên truyền, giác ngộ về đường lối cách mạng, giải thích chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh, nhiệm vụ đánh đuổi Pháp - Nhật để giải phóng nước nhà. Đồng bào đã tổ chức ăn thề quyết tâm theo cách mạng. Tại đây, cán bộ Việt Minh đã thành lập ra Ban Việt Minh xã gồm 5 người, ban phụ nữ gồm 5 chị em, một đội du kích tự vệ tuyên truyền gồm 22 người, với vũ khí thô sơ tự trang bị cũng được thành lập. Hoạt động của Việt Minh dần được lan rộng ra các vùng xung quanh. Quần chúng phấn khởi ra nhập mặt trận Việt Minh. Phong trào đang phát triển mạnh mẽ, thì thực dân Pháp và tay sai tiến hành càn quét và khủng bố giã man. Ngày 30 tháng 12 năm 1943, chúng bắt đi 9 đồng bào và cán bộ, trong đó xã Hùng Minh có 04 người là đồng chí Linh Văn Đế, đồng chí Hoàng Văn Lực, đồng chí Hoàng Văn Viên và đồng chí Lý Phẩm; mặt khác bọn chúng tăng cường khủng bố, truy lùng cán bộ. Trước tình thế đó, cán bộ Việt Minh tạm thời rút về Hàm Yên, Chiêm Hóa( tỉnh Tuyên Quang) để củng cố lực lượng. Phong trào Việt Minh ở đây tạm thời lắng xuống, song cũng là hồi chuông cảnh báo, mở đầu cho thời kỳ chuẩn bị xây dựng lực lượng chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai tại các địa phương, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 09 tháng 03 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp ở Bắc Quang rơi vào thế bị động, cô lập, chống đỡ yếu ớt và bỏ chạy; quân Nhật nhanh chóng chiếm các đồn tại khu vực Bắc Quang. Giai đoạn này phong trào cách mạng đã lan rộng tất cả các xã trong huyện. Ngày 07 tháng 06 năm 1945, lực lượng vũ trang với sự đồng tình, ủng hộ của đồng bào, Uỷ ban Việt Minh lâm thời tổng Bằng Hành được thành lập gồm 7 đồng chí. Ngày 10 tháng 06 năm 1945, Ban Việt Minh xã Quang Minh được thành lập gồm 03 người. Ngày 14 tháng 06 năm 1945, nhân dân các xã Bằng Hành, Liên Hiệp, Kim Ngọc đã họp, bầu ra Uỷ ban nhân dân cách mạng các xã và thành lập đội tự vệ. 8
  9. Ngày 24 tháng 06 năm 1945, đại biểu Uỷ ban nhân dân cách mạng các xã, cùng nhân dân địa phương họp mít tinh tại Thác Vệ để thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng và Việt Minh tổng, đồng thời chứng kiến đốt bằng, sắc, ấn triện của bọn địa chủ cường hào. Ban Việt Minh đã tuyên bố xoá bỏ chế độ áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến. Uỷ ban đảm nhiệm việc tổ chức và lãnh đạo nhân dân sản xuất, bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng cuộc sống mới. Chính sự lớn mạnh nhanh chóng của phong trào cách mạng trong huyện đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và nhận thức của nhân dân các dân tộc trong xã Hùng Minh và An Tường. Đến tháng 8 năm 1945, Bắc Quang mới giải phóng được một số xã như: Liên Hiệp, Bằng Hành, Kim Ngọc, Vô Điếm, Quang Minh, Hùng An ( Hùng Minh và An Tường), Việt Vinh, Tiên Kiều, Việt Lâm, Trung Thành, Bạch Ngọc, Đồng Tâm, xã Hảo Tân và các xã khác vẫn còn nằm trong vùng tạm chiếm của địch. Để tăng cường cho lực lượng cách mạng ở Hà giang, nhằm giải phóng các xã còn bị tạm chiếm. Tháng 9 năm 1945, Xứ ủy Bắc kỳ điều động một đơn vị vũ trang do đồng chí Anh( tức Nông Thượng Đĩnh) và đồng chí Thông chỉ huy từ Yên Bái sang giải phóng Đồng Yên, Vĩnh Phúc, Tiên Yên và các xã khác trong huyện. Ngày 10 tháng 09 năm 1945, Ban Việt Minh xã Hùng Minh được thành lập gồm 5 người, đồng chí Linh Văn Đế được chỉ định làm Chủ tịch Mặt trận Việt Minh. Ngày 4 tháng 11 năm 1945, Bắc Quang được giải phóng. Ủy ban cách mạng lâm thời huyện Bắc Quang được thành lập và ra mắt đồng bào. Ngày 25 tháng 12 năm 1945, nhân dân các dân tộc thị xã Hà Giang và Đại biểu các địa phương, vui mừng phấn khởi mít tinh chào mừng Uỷ ban hành chính lâm thời của tỉnh do đồng chí Thanh Phong làm Chủ tịch. Song song với việc thành lập Uỷ ban lâm thời của tỉnh, cùng ngày Xứ uỷ Bắc kỳ quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Giang. Đồng chí Hồng Quân được chỉ định làm Bí thư Tỉnh uỷ lâm thời. Phát huy truyền thống yêu nước của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân tỉnh Hà Giang nói riêng. Nhân dân các dân tộc trong xã, luôn luôn đoàn kết theo tiếng gọi của Đảng thực hiện cương lĩnh của mặt trận Việt Minh, kiên quyết đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, chống lại áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến, đánh đuổi các Đảng phái phản động, đem lại cuộc sống bình yên cho người dân. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, huyện Bắc Quang đã xuất hiện những nhân tố tích cực. Tháng 12 năm 1946, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Bắc Quang được kết nạp hai quần chúng ưu tú đầu tiên vào Đảng, đó là đồng chí Chu Đức Tung ( xã Bạch Ngọc huyện Vị Xuyên ngày nay) và đồng 9
  10. chí Hoàng Thịnh Kinh( xã Việt Vinh ). Đồng thời Tỉnh uỷ quyết định thành lập tổ Đảng gồm 04 đồng chí, do nữ đồng chí Phương Lâm làm tổ trưởng. Từ đó dưới sự lãnh đạo của Đảng phong trào cách mạng của huyện phát triển nhanh chóng tới các cơ sở. Ngày 20 tháng 02 năm 1947 xét thấy đủ điều kiện, Tỉnh uỷ Hà Giang quyết định thành lập chi bộ cơ quan huyện Bắc Quang do đồng chí Phương Lâm làm Bí thư chi bộ. Ngày 15 tháng 05 năm 1947, Huyện uỷ Bắc Quang chính thức được thành lập, đồng chí Phạm Gia Tuân được Tỉnh uỷ chỉ định làm Bí thư Huyện uỷ. Trước năm 1945 xã Hùng Minh và An Tường chưa có một đảng viên nào. Nhưng một số thanh niên trong xã đã được giác ngộ cách mạng đi theo Đảng và được kết nạp tại liên chi bộ vào năm 1948 và năm 1949 gồm các đồng chí: Hoàng Văn Thứ, Hoàng Tinh Quyền, Hoàng Đình Vạn, Phan Đức Tung, Phùng Văn Tâm, Hoàng Văn Vấn, Hoàng Đức Độ. Đây là những đảng viên đầu tiên của hai xã sinh hoạt ghép tại liên chi bộ các xã Hùng Minh, An Tường, Quang Minh, Việt Vinh. Ngày 20 tháng 2 năm 1949, thực hiện công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ về phương pháp quản lý, lãnh đạo cho ủy viên ủy ban các xã của huyện được tổ chức tại xã Tiên Kiều; hai xã Hùng Minh và an Tường cử mỗi xã 03 đồng chí ủy viên Ủy ban kháng chiến hành chính tham gia lớp tập huấn. Ngày 25 tháng 01 năm 1949, liên chi bộ xã Hùng Minh và An Tường được thành lập, khi thành lập liên chi bộ có 07 đảng viên, đồng chí Linh Văn Đế được chỉ định giữ chức Bí thư chi bộ. Sự kiện liên chi bộ xã ra đời là một bước ngoặc lịch sử quan trọng, đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào cách mạng trong xã dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ Đảng. Ngay sau khi được thành lập, chi bộ đã nhanh chóng tập chung chỉ đạo bộ máy chính quyền, các đoàn thể và lực lượng dân quân du kích, phân công từng đồng chí đảng viên và cán bộ xuống các thôn bản tuyên truyền, vận động nhân dân; giác ngộ quần chúng thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương. Do thực hiện tốt công tác tuyên truyền vận động, nên tư tưởng của người dân thông suốt; đã thu hút được đông đảo nhân dân các dân tộc trong toàn xã tích cực tham gia phát triển sản xuất nâng cao cuộc sống, bảo vệ an ninh, hưởng ứng xây dựng phong trào cách mạng. Uy tín của Đảng ngày càng được nâng cao trong quần chúng và đã trở thành niền tin của các dân tộc, thúc đẩy mọi người thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Đồng thời trong tháng 12 năm 1949, Đảng bộ Huyện Bắc Quang đã quyết định thành lập chi bộ xã Hùng An, thay thế liên chi bộ Hùng Minh và An Tường. 10
  11. Hưởng ứng phong trào thi đua ái Quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, từ cuối năm 1949 như: Phong trào đóng công trái kháng chiến đã được đông đảo nhân dân hưởng ứng thực hiện, toàn xã đã đóng góp được 875 đồng. Ngoài ra xã còn phát động và hưởng ứng phong trào " Hũ gạo nuôi quân" ủng hộ cho bộ đội được trên 1.700 kg thóc, 06 con trâu và trên 400 chiếc bánh chưng trong dịp tết và nhiều loại thực phẩm khác. Cùng với các phong trào thi đua yêu nước đã được phát động, phong trào văn hoá, giáo dục cũng được huyện chỉ đạo thực hiện và phát triển nhanh chóng; toàn xã đã tổ chức thực hiện được 8 lớp bình dân học vụ với 146 học viên, trước tiên tập chung ưu tiên cho cán bộ và đảng viên, quần chúng ưu tú, nhằm xoá nạn mù chữ cho cán bộ để phục vụ công tác lãnh đạo chỉ đạo nhân dân thực hiện nhiện vụ; đồng thời tiếp tục chỉ đạo các lớp bình dân học vụ khác với phương châm " Người biết chữ dạy cho người không biết chữ" để mọi người biết đọc, biết viết, nhằm xoá nạn mù chữ trong toàn xã. Ngoài việc chỉ đạo các hoạt động của chính quyền, các đoàn thể xã hội, chi bộ luôn quan tâm tới củng cố chi bộ, phát triển đảng viên mới. Trong năm 1949, chi bộ đã giới thiệu, bồi dưỡng, kết nạp 03 quần chúng ưu tú cho Đảng, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ lên 10 đồng chí. Tóm lại trong 5 năm( từ năm 1945 - 1949) dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trực tiếp Huyện uỷ Bắc Quang, chi bộ xã Hùng An ra đời đã lãnh đạo và kiện toàn Ủy ban Hành chính kháng chiến và các đoàn thể xã hội, tuyên truyền vận động nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định đời sống; đồng thời tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua, ủng hộ sức người, sức của phục vụ cách mạng tiếp tục đấu tranh chống bọn đế quốc và tay sai giành thắng lợi hoàn toàn, bảo vệ cuộc sống yên bình cho nhân dân. Nhân dân yên tâm sản xuất, phát triển kinh tế và luôn luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. II. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, nhân dân các dân tộc xã Hùng An tích cực tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và phát triển sản xuất( 1950 - 1954). Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền của cả nước thành công năm 1945, cách mạng Việt Nam đã bước sang một thời kỳ mới - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời - Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, do Chủ Tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Mặc dù cách mạng đã thành công, song nước ta vẫn đứng trước nhiều thử thách, nhiều khó khăn bởi thù trong, giặc ngoài. Năm 1950, cuộc kháng chiến của cả nước được đẩy mạnh, đồng thời được sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế, đã tạo điều kiện thuận lợi để cuộc cách mạng của nước ta vững bước tiến lên và chuẩn bị cho cuộc tổng phản công giành độc lập. Trong thời gian này, Hội nghị toàn quốc lần thứ III của 11
  12. Đảng được triệu tập. Hội nghị đã đề ra chủ trương gấp rút xây dựng lực lượng chủ lực, tăng cường lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích, đẩy mạnh phá tề, trừ gian, tăng cường công tác dân vận và địch vận, với khẩu hiệu" Tất cả cho tuyền tuyến, tất cả cho chiến thắng". Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Đảng bộ huyện Bắc Quang đã chỉ đạo nhân dân ở các xã đã được giải phóng hăng hái sản xuất, tích cực đóng góp thóc, gạo, tiền bạc và các vật liệu khác phục vụ cho kháng chiến; đồng thời tuyên truyền vận động thanh niên lên đường tòng quân tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trong thời gian này, trên địa bàn toàn tỉnh nói chung, huyện Bắc Quang và xã Hùng An nói riêng, bọn Việt Nam Quốc dân đảng với danh nghĩa vào giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất âm mưu của chúng là lật đổ chính quyền cách mạng, đàn áp, cướp bóc tài sản của nhân dân. Nhiệm vụ của cán bộ Việt Minh và Ủy ban hành chính kháng chiến lúc này đề ra hai nhiệm vụ: Một là, củng cố chính quyền cách mạng, Hai là, phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt. Cũng trong thời gian này chi bộ, chính quyền và các đoàn thể từ xã đến các thôn bản vừa mới được kiện toàn; lực lượng đảng viên, cán bộ còn ít, trình độ tổ chức, năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế, chưa có kinh nghiệm; lực lượng vũ trang còn mỏng, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí thấp. Tuy nhiên phong trào cách mạng của cả nước đang dâng cao, đã tác động tích cực đến tư tưởng của cán bộ, nhân dân trong xã. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ, sự chỉ đạo kịp thời của cấp trên, kết hợp với thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân theo lời kêu gọi của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Tại xã lực lượng dân quân du kích đã được thành lập và ra sức tập luyện, bảo vệ trị an, hăng hái tăng gia sản xuất, tích cực ủng hộ thóc gạo, tiền bạc.... cho cuộc kháng chiến; nhiều thanh niên hăng hái, xung phong tình nguyện, phấn khởi lên đường tòng quân tham gia chiến đấu. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xã Hùng An đã có hàng trăm thanh niên lên đường nhập ngũ, trong đó có nhiều tấm gương chiến đấu ngoan cường, hy sinh anh dũng như liệt sĩ: Hoàng Văn Đường, Linh Văn Vĩnh, Hoàng Văn Bính, Phạm Văn Trúc, Lý Ngọc Thán…và nhiều đồng chí đã phải mang trên mình những thương tích chiến tranh không thể phai mờ như đồng chí Lương Văn Thổ, Đỗ Duy Cát… Xã Hùng An đạt được nhiều thành tích trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá xã hội, chính là sự lãnh đạo chặt chẽ của chi bộ, sự chỉ đạo kịp thời có hiệu quả của Huyện uỷ, sự đồng tình giác ngộ, ủng hộ tích cực của nhân dân về sức người, sức của; đã góp phần không nhỏ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn. 12
  13. Ngày 10 tháng 04 năm 1950, Đảng bộ tỉnh Hà Giang tiến hành Đại hội lần thứ I. Đại hội đã khẳng định tinh thần đoàn kết, yêu nước của đồng bào, cán bộ chiến sĩ không quản gian khổ hy sinh, hết lòng, hết sức tham gia kháng chiến. Đại hội xác định vị trí, vai trò, trách nhiệm của Hà Giang là tỉnh hậu phương cho căn cứ Việt Bắc, và đề ra nhiệm vụ lãnh đạo toàn Đảng bộ trước hết phải thực hiện tốt công tác xoá nạn mù chữ cho cán bộ, đảng viên, củng cố Uỷ ban hành chính kháng chiến ở các huyện, phát triển đảng viên; phát động phong trào thi đua sản xuất, chống các đảng phái phản động, chia rẽ dân tộc...... Nghị quyết của Đại hội đã soi sáng cho nhân dân toàn tỉnh. Cùng với nhân dân trong toàn huyện, chi bộ và nhân dân các dân tộc xã Hùng An đã nhận thức rõ vai trò trách nhiệm của mình. Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân hăng hái thi đua lao động, sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất nâng cao cuộc sống, ủng hộ cuộc kháng chiến; đồng thời tuyên truyền, vận động thanh niên lên đường nhập ngũ, huy động dân công phục vụ tuyền tuyến, huấn luyện dân quân bảo vệ trật tự an ninh trong xã.... Những việc làm trên đã được quần chúng nhân dân đồng tình hưởng ứng, nên toàn xã đã huy động được hàng nghìn ngày công, hàng tấn lương thực, thực phẩm ủng hộ cho các chiến dịch của quân đội ta. Ngày 16 tháng 05 năm 1950, Chi bộ xã tổ chức Đại hội lần thứ I, với 11 đảng viên tham dự. Đại hội chi bộ được tổ chức tại đồi Lung Tiện( thôn Tân Hùng ngày nay). Đại hội đã tổng kết đánh giá kết quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ từ khi thành lập chi bộ đến nay và bầu ban chi ủy khóa mới. Đại hội đã thống nhất đánh giá, mặc dù chi bộ mới được thành lập, điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội còn khó khăn, kinh nghiệm chỉ đạo còn hạn chế; song với sự đoàn kết thống nhất cao trong chi bộ, sự đồng thuận của nhân dân các dân tộc trong xã, tình hình của xã đã có sự khởi sắc hơn trước. Tư tưởng của nhân dân được ổn định, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương được quan tâm triển khai, tuyên truyền tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sản xuất nông nghiệp được quan tâm chỉ đạo, song chủ yếu là giống lúa dài ngày, năng xuất thấp, kỹ thuật còn lạc hậu, nên sản lượng thu nhập không cao ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Chăn nuôi chưa phát triển mạnh, thu nhập thấp, chưa có biện pháp phòng trừ dịch bệnh, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu tự cung tự cấp là chính. Song nhân dân rất tự giác thực hiện các khoản thuế đóng góp cho Nhà nước đạt 100% kế hoạch. Ngoài lĩnh vực kinh tế, chi bộ luôn quan tâm chỉ đạo và củng cố chính quyền, các đoàn thể xã hội nhằm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Công tác củng cố tổ chức Đảng và phát triển Đảng viên cũng được chi bộ chỉ đạo sát sao; chi bộ đã phân công từng đồng chí đảng viên phụ trách các thôn bản và chỉ đạo mọi hoạt động tại các thôn bản được phân công 13
  14. phụ trách; đồng thời cùng với các thôn bản có trách nhiệm giới thiệu, bồi dưỡng những quần chúng ưu tú cho Đảng, trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 04 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ lên 11 đồng chí. Đại hội đã nêu ra những hạn chế đó là: Ban chi ủy mới, kinh nghiệm lãnh đạo còn hạn chế, trình độ dân trí thấp, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi chưa phát triển, nên năng xuất cây trồng vật nuôi còn thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Công tác chỉ đạo đôi lúc chưa quyết liệt, phát triển đảng viên còn chậm so với nhu cầu cách mạng. Đại hội đề ra một số nhiệm vụ là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng các cấp, chính sách pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, để toàn thể cán bộ, nhân dân nắn vững và thực hiện tốt. Phát động các phong trào thi đua sản xuất, đảm bảo cấy hết 100% diện tích, tập chung chăm sóc cây trồng, vật nuôi, không cấy chay; nhằm tăng năng suất ổn định đời sống nhân dân, góp phần hoàn thành 100% các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao. Tăng cường công tác chỉ đạo chính quyền và các đoàn thể xã hội, vận động thanh niên lên đường tham gia chống Pháp, làm tốt công tác hậu phương. Phát triển đảng viên mới, phấn đấu trong nhiệm kỳ kết nạp từ 6 - 12 quần chúng ưu tú vào Đảng. Đại hội đã bầu ban chi ủy khóa mới gồm 3 đồng chí; đồng chí Linh Văn Đế, được bầu giữ chức Bí thư chi bộ; đồng chí Mạc Văn Thịnh, giữ chức phó bí thư chi bộ kiêm Xã đội trưởng và 01 đồng chí ủy viên. Thời gian này, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến mới. Tháng 2 năm 1951, Đảng ta tiến hành Đại hội, Đại biểu lần thứ II. Đại hội đã chỉ rõ những nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam là: Ra sức xây dựng hậu phương, kịp thời phục vụ các chiến dịch, góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời đưa Đảng ta ra hoạt động công khai, nhằm tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết của Đại hội đã trở thành phương hướng trọng tâm, nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng là kêu gọi toàn dân hành động. Quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đề ra, Nghị quyết chi bộ lần thứ I, chi bộ xã Hùng An đã khẩn chương xây dựng chương trình hành động, đưa ra các giải pháp cụ thể, phù hợp với địa phương để động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân thi đua hoàn thành các chỉ tiêu đề ra, trong đó chi bộ tập chung chỉ đạo các nhiệm vụ cụ thể như: Chấn chỉnh lại tổ chức Đảng, quán triệt học tập nghị quyết của Đại hội tới tất cả cán bộ, đảng viên, nhân dân; đẩy mạnh công tác phát triển lực lượng đảng viên trong cán bộ, dân quân và những quần chúng ưu tú. Quan tâm nâng cao chất lượng hoạt động chi bộ, đồng thời tổ chức các lớp học ngắn ngày cho cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn của đội ngũ cán bộ Đảng và chính quyền để hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Tiếp tục chỉ đạo tốt công tác 14
  15. sản xuất, chăn nuôi tạo ra nhiều của cải trong xã hội, để đóng góp, ủng hộ cho tuyền tuyến; không ngừng củng cố lực lượng dân quân, du kích, tuần tra canh gác bảo vệ tốt công tác trật tự, an ninh trên địa bàn. Tháng 2 năm 1951, Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Quang lần thứ I được triệu tập. Đại hội có 50 đại biểu tham dự, Đại hội bầu ra Ban chấp hành gồm 11 đồng chí. Đại hội đã chỉ rõ những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là: Đẩy mạnh sản xuất, chấn chỉnh các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền từ huyện đến xã, xây dựng lực lượng dân quân du kích và bộ đội địa phương, vận động thanh niên xung phong tòng quân, ủng hộ kháng chiến. Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Quang lần thứ I, chi bộ xã đã phát động phong trào thi đua khai hoang, phục hoá, tăng gia sản xuất, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Với phương châm phấn đấu sản xuất theo hướng tự giải quyết lương thực cho nhân dân và cung cấp lương thực, thực phẩm cho tuyền tuyến. Đồng thời tích cực vận động tuyên truyền trong nhân dân hưởng ứng phong trào "Hũ gạo kháng chiến" tới từng gia đình, từng thôn bản, để ủng hộ bộ đội ngoài mặt trận; kết quả toàn xã đã ủng hộ được trên 785 kg gạo cho bộ đội. Phong trào chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội đã được toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc đồng tình hưởng ứng và tích cực tham gia, thu được kết quả đáng tự hào. Từ ngày 15 đến ngày 25 tháng 4 năm 1951, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ II được triệu tập, Đại hội đã đánh giá, tổng kết những kinh nghiệm tuyên truyền, vận động và công tác lãnh đạo của Đảng trong toàn tỉnh và thảo luận ra nghị quyết gồm các nội dung cơ bản như sau: Một là, tăng cường công tác quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang ở các huyện và các xã. Hai là, tiếp tục giáo dục chính trị tư tưởng và động viên tinh thần phục vụ, tham gia kháng chiến trong đồng bào, nhất là đồng bào ở những vùng hẻo lánh. Ba là, tăng cường tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo việc phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo cải thiện đời sống trong nhân dân, đẩy mạnh công tác xây dựng đảng, xây dựng chính quyền, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo mọi mặt trong giai đoạn mới. Tháng 9 năm 1951, sắc lệnh thuế nông nghiệp được ban hành. Thực hiện chỉ đạo chiến dịch thuế nông nghiệp của tỉnh và huyện do Nhà nước ban hành. Chi bộ xã Hùng An coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt cần tập chung lãnh đạo, chỉ đạo để hoàn thành chỉ tiêu cấp trên giao. Song ngay từ những ngày đầu ra quân, các tổ vận động đã gặp những khó khăn do tư tưởng của nhân dân chưa thông suốt, trình độ giác ngộ cách mạng còn hạn chế; công tác tuyên truyền, dân vận chưa được quan tâm đúng mức, một số cán bộ chưa nắm vững chính sách, nên khi thực hiện lúng túng, thậm chí mắc sai lầm, 15
  16. khuyết điểm như: Thiếu điều tra nghiên cứu, áp đặt mức thuế quá cao, thiếu công bằng, coi nhẹ công tác tuyên truyền vận động nhân dân. Lợi dụng những sai lầm của cán bộ ta, một số phần tử xấu kích động xuyên tạc chính sách thuế của nhà nước, gây nghi ngờ trong nhân dân. Trước tình hình trên, chi bộ đã kịp thời chấn chỉnh và cử những cán bộ, đảng viên có uy tín xuống những thôn bản có vướng mắc để tuyên truyền vận động trong nhân dân và uốn nắn kịp thời những thiếu sót trong công tác thu thuế. Vì vậy chiến dịch thu thuế của xã đã đạt được kết quả tốt và thu được 9. 870 kg thóc giao nộp cho nhà nước. Để chuẩn bị vụ mùa năm 1952, Đảng bộ huyện Bắc Quang đã phát động phong trào thi đua cày sâu, bừa kỹ, tăng diện tích, làm cỏ, bỏ phân, lấy thành tích chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước như: Ngày Quốc tế lao động (01/05), ngày sinh nhật Bác Hồ ( 19/05), ngày quốc khánh (02/09), phong trào thi đua học tập tấm gương anh hùng lao động nông nghiệp Hoàng Hanh và chiến sĩ thi đua Trịnh Xuân Bái; với tên gọi “Phong trào Hoàng Hanh” và “Tổ đổi công Trịnh Xuân Bái”. Chi bộ xã Hùng An đã chỉ đạo phát động phong trào được toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong xã đồng tình hưởng ứng, đã thu được kết quả cao trong sản xuất, diện tích đất ruộng không còn bị bỏ hoang, đất ruộng được cày bừa kỹ và bón phân chuồng trước khi cấy; khi cấy xong được chăm sóc làm cỏ, bón thúc, nên năng suất đạt 1,85 kg đến 2,7 kg/1 bó mạ; đồng thời đã thành lập được 06 tổ đổi công tại các thôn làng Mới, làng Dộc, Khuổi Lẹch, Đá Bàn và Bó Loỏng, đã được Huyện ủy biểu dương. Với mục đích đưa nông dân vào làm ăn tập thể, tạo sự nề nếp, làm ăn có kế hoạch, phát huy tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, vừa tăng năng xuất cây trồng, vừa xây dựng nông thôn mới. Ngoài ra xã tổ chức các phong trào văn hoá văn nghệ, thể thao, tổ chức các lớp bình dân học vụ, phổ biến tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước để toàn dân học tập và thực hiện đúng đường lối của Đảng và nhà nước đã ban hành. Về quân sự, được sự chỉ đạo của Trung ương, Bắc Quang tham gia chiến dịch tiễu phỉ ở biên giới, tại mặt trận Hoàng Su Phì, chiến dịch này xã Hùng An đã tích cực ủng hộ sức người, sức của; trong đó đại đội du kích của xã được huyện triệu tập tham gia chiến dịch và hàng trăm dân công tham gia tiếp tế lương thực trong chiến dịch. Trong quá trình chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã có nhiều tấm gương chiến đấu kiên cường, đồng thời đã có nhiều gương anh dũng hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho tổ quốc như liệt sĩ Hoàng Văn Đường, Linh Văn Vĩnh, Hoàng Văn Bính, Lộc Văn Lại, Lý Ngọc Thán…. Cuối năm 1952 ta đã phá tan âm mưu của bọn thổ phỉ. Từ thắng lợi này nhân dân của huyện Bắc Quang nói chung, xã Hùng An nói riêng càng tin 16
  17. tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đây nhân dân làm chủ ruộng đồng, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất, xây dựng hậu phương vững chắc, ủng hộ sức người, của cải cho cách mạng. Tháng 10 năm 1953, Huyện uỷ mở lớp huấn luyện học tập chính sách phát động quần chúng của Đảng, Nhà nước với các nội dung: - Sắc lệnh về chính sách ruộng đất ( sắc lệnh số 149/SL, ngày 12/4/1953). - Thông tư về những việc phải làm ở những nơi chưa phát động quần chúng. - Học tập chính sách dân tộc của Đảng. Xã Hùng An có 03 đồng chí tham gia học tập. Sau khi được quán triệt tại huyện, chi bộ xã đã xây dựng kế hoạch tổ chức quán triệt chung cho toàn thể cán bộ, đảng viên gắn với quán triệt nhiệm vụ của chi bộ đề ra; từ đó tiếp tục phân công các đồng chí cán bộ xuống phổ biến, tuyên truyền tới tất cả nhân dân các thôn bản trong xã đều được học tập chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương. Thông qua việc học tập đường lối của Đảng, nhân dân thấm nhuần tư tưởng, hăng hái thi đua sản xuất, tăng cường đoàn kết, củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng dân quân du kích, củng cố các đoàn thể, xây dựng cuộc sống mới...., tích cực đóng góp mọi mặt cho cuộc kháng chiến của đất nước. Cuối năm 1953, Đảng bộ huyện Bắc Quang triệu tập Đại hội lần thứ II. Đại hội đã kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết của Đại hội lần thứ I, bầu 11 đồng chí vào Ban chấp hành và đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm: Đẩy mạnh sản xuất, đưa chân ruộng sản xuất một vụ lên làm hai vụ, đưa giống lúa chiêm và giống lúa Nam Ninh vào sản xuất, phát triển trồng màu, tiếp tục củng cố các ban ngành đoàn thể từ huyện đến các xã; huy động nhân tài, vật lực cho chiến dịch Điện Biên Phủ, đẩy mạnh phong trào học tập văn hoá, xoá mù chữ. Với tinh thần cách mạng đang dâng cao, chi bộ Đảng và nhân dân các dân tộc trong toàn xã đã làm hết sức mình, góp phần cùng nhân dân cả nước đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Trong chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với nhân dân cả nước, quân và dân xã Hùng An sôi nổi chuẩn bị chiến đấu và phục vụ chiến đấu với tinh thần “ Tất cả cho tuyền tuyến, tất cả cho chiến thắng”, nhân dân tích cực ủng hộ lương thực, thực phẩm cho quân đội được 765 kg gạo, trên 250 kg lợn hơi. Nhiều thanh niên tình nguyện lên đường ra mặt trận, tình nguyện tham gia dân công vận chuyển lương thực, thực phẩm, làm đường, tải đạn....phục vụ cho chiến dịch. Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơ - Ne - Vơ vào ngày 20 tháng 07 năm 1954, chấm dứt ách đô hộ Việt Nam. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Thắng lợi của 17
  18. chiến dịch Điện Biên Phủ khẳng định sức mạnh của dân tộc và nhân dân Việt Nam, thể hiện sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân quyết tâm giải phóng dân tộc khỏi bị áp bức bóc lột, bảo vệ tự do, dân chủ, chủ quyền của dân tộc, của đất nước. Thắng lợi vẻ vang đó cũng có một phần công sức của nhân dân các dân tộc trong xã Hùng An. Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, với tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường; chi bộ và nhân dân các dân tộc xã Hùng An, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện uỷ Bắc Quang, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu cùng cả nước bước vào giai đoạn cách mạng mới, góp phần xây dựng bảo vệ thành công chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, kiên quyết đấu tranh, chi viện sức người, sức của để giải phóng Miềm Nam thống nhất đất nước, cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. CHƯƠNG III Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chi bộ và nhân dân các dân tộc xã Hùng An thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội; Đẩy mạnh tăng gia sản xuất góp phần chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước( 1955 - 1975). I. Khôi phục kinh tế, ổn định đời sống, phát triển văn hoá, xã hội và thực hiện công cuộc cải tạo Xã hội Chủ nghĩa ( 1955 - 1960). 1. Củng cố chính quyền, khôi phục kinh tế, ổn định đời sống nhân dân ( 1955 - 1957). Sau chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ thắng lợi hoàn toàn, chấm dứt chiến tranh ở miền Bắc, hoà bình được lập lại. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới: Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Trải qua trên tám nươi năm thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến, hậu quả để lại thật nặng nề về mọi mặt. Trong bối cảnh chung của cả nước, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang, huyện Bắc Quang nói chung, nhân dân xã Hùng An nói riêng bắt đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa có những thuận lợi, khó khăn: Thuận lợi: Dưới sự lãnh đạo của Đảng lao động Việt Nam đã đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách, biện pháp cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện. Từ những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đã được tỉnh uỷ Hà Giang, huyện uỷ Bắc Quang và trực tiếp là chi bộ xã cụ 18
  19. thể hoá sát với tình hình của địa phương, chỉ đạo các thôn bản tổ chức thực hiện có hiệu quả. Mặt khác các chủ trương, đường lối, biện pháp của Đảng đề ra đều được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đồng tình hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả; trong đó thật tự hào có sự đóng góp tích cực của cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Hùng An. Khó khăn: Là một xã miền núi, địa hình phức tạp, ngăn cách bởi nhiều con suối; dân cư còn ít, giao thông còn khó khăn, trình độ dân trí thấp lại không đồng đều; kinh tế, văn hoá - xã hội chưa phát triển; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo của cán bộ còn hạn chế. Mặt khác tàn dư của chế độ xã hội cũ để lại nặng nề, các phần tử phản động vẫn còn lén lút hoạt động, tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong nhân dân, đặc biệt các vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số... Trước những thuận lợi, khó khăn trên. Đồng thời tiếp thu quán triệt các Nghị quyết 07(họp từ ngày 3-12/3) và Nghị quyết 08( họp từ ngày 13-20/8) năm 1955 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về "Tình hình hiện tại và nhiệm vụ trước mắt" và đề ra một số nhiệm vụ trước mắt của cách mạng hai miền Nam - Bắc. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện uỷ Bắc Quang, chi bộ xã Hùng An đã thống nhất đề ra những nhiệm vụ cụ thể: Trước hết phải có sự đoàn kết, thống nhất cao trong tập thể cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân các dân tộc trong xã, để thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đã ban hành, với phương châm tự lực cánh sinh, từng bước xây dựng quê hương. Trước mắt thực hiện tốt công tác tuyên truyền, chống di cư tự do; chống đốt, phát rừng; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, giải quyết vấn đề "Người cày có ruộng"; xoá bỏ chế độ bóc lột phong kiến, giảm nghèo đói, thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc; phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, trong đó chú trọng phát triển cây lương thực, cây ngắn ngày và hoa màu các loại; bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Với các giải pháp cụ thể và mục tiêu coi trọng điều chỉnh lại ruộng đất, thực hiện chính sách đối với ruộng công, ruộng hoang, ruộng vắng chủ; tiếp tục tuyên truyền nhân dân tích cực khai hoang, phục hoá để các hộ dân đều có ruộng sản xuất, nâng cao đời sống; đưa nông dân làm chủ ruộng đất, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội. Chi bộ đã giao nhiệm vụ cho chính quyền, chỉ đạo các đoàn thể phụ trách các thôn bản, tuyên truyền nhân dân sửa chữa được 19 con mương, 14 phai đập, với trên 450 ngày công lao động, để cung cấp nước tưới cho 30.214 bó mạ. Trong thời gian này, thời tiết khô hạn, mưa ít; lượng nước các khe suối không đủ cung cấp tưới tiêu cho đồng ruộng, xã đã huy động toàn dân giúp đỡ lẫn nhau chống hạn, cứu lúa. Đồng thời tuyên truyền trong nhân dân không du canh, du cư, phát rừng làm nương rẫy, tập chung định 19
  20. canh, định cư để phát triển trồng lúa nước; trong đó điển hình Bó Loỏng, Làng Tiến, Hùng Tân, làng Mới, làng Thắng đã triển khai tốt chủ trương trên. Sự nghiệp văn hoá, y tế và an ninh quốc phòng cũng được quan tâm chỉ đạo và có bước phát triển mới đi vào chiều sâu như: Công tác bình dân học vụ, toàn xã mở được 16 lớp, thanh toán xong nạn mù chữ cho trên 528 người trong xã; mặt khác tuyên truyền cho những người biết chữ trong gia đình, dạy những người chưa biết chữ trong gia đình, dòng họ để nhiều người biết chữ hơn. Các đội văn nghệ ở các thôn bản cũng được thành lập, nhằm phát huy truyền thống văn hoá của các dân tộc; công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được coi trọng, vệ sinh phòng dịch bệnh được quan tâm, đã dập tắt nhiều dịch bệnh lây lan. Công tác giáo dục tư tưởng được đẩy mạnh, thường xuyên phát động những đợt học tập chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững các đường lối, Nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ trên đã đáp ứng được nhu cầu thiết thực của nhân dân, người dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền các cấp. Do vậy nông dân rất tích cực, phấn khởi tăng gia sản xuất, từng bước thoát khỏi sự ràng buộc về kinh tế với tầng lớp trên. Nhân dân nhiệt tình đóng góp thuế, nghĩa vụ, tham gia xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển các đoàn thể xã hội, thành lập các tổ đổi công. Tích cực tham gia học tập, sinh hoạt văn hoá - xã hội, học tập các chính sách của Đảng và Nhà nước. Tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc được tăng cường, các đoàn thể phát triển mạnh, trong đó tổ chức Nông hội có 597 hội viên, hội Phụ nữ có 462 hội viên, Đoàn thanh niên có 325 đoàn viên, Thiếu nhi có 285 đội viên. Tổng số thành viên của các đoàn thể chiếm trên hai phần tư dân số toàn xã lúc bấy giờ. Ngoài nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm an ninh trật tự xã hội. Chi bộ luôn quan tâm đến phát triển Đảng viên, chi bộ đã theo dõi, bồi dưỡng, giúp đỡ và kết nạp 05 quần chúng ưu tú vào Đảng, đạt 50% kế hoạch, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ lên 25 đồng chí. Năm 1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất của huyện được tổ chức, Đại hội có 69 đại biểu thay mặt cho các dân tộc, tôn giáo trong toàn huyện về dự; Đại hội đã bầu ra 13 đồng chí có uy tín vào Uỷ ban Mặt trận huyện. Đại hội đã biểu quyết tán thành Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành. Sự thành công của Đại hội đã thể hiện sự đoàn kết, nhất trí cao của các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo trong toàn huyện với quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Ngay sau Đại hội, Mặt trận tổ quốc huyện đã chỉ đạo thành lập Mặt trận tổ quốc các xã. Với vai trò là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính quyền 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2