intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Táo (1961-2020)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

4
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Táo (1961-2020) gồm các nội dung chính sau: Khái quát điều kiện tự nhiên - xã hội và con người xã Lũng Táo; quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc xã Lũng Táo dưới sự lãnh đạo của Đảng (1961 - 2020). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Táo (1961-2020)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỒNG VĂN BCH ĐẢNG BỘ XÃ LŨNG TÁO TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ LŨNG TÁO (1961 – 2020) Xuất bản năm 2022 1
  2. LỜI GIỚI THIỆU Lũng Táo là xã biên giớ, nằ m ở phía Tây Bắc của huyện Đồng Vănnơi điểm tựa tiền i , tiêu có độ cao 1911 m so với mực nước biển - vị trí chiến lược về quân sự, quốc phòng của huyện Đồng Văn. Cha ông ta từ xa xưa đã nhận định: “vùng Lũng Táo quan trọng tới mức nếu ai chiếm được điểm cao 1911m thì coi như đã làm chủ Đồng Văn”. Vì vậy nơi đây, vào những năm đầu của thế kỷ XIX, nghĩa quân Sùng Mí Chảng đã chọn làm nơi đóng quân để chiến đấu chống lại thực dân Pháp xâm lược, gắn liền với tên gọi “Núi Vua” được lưu truyền đến ngày nay; cũng tại nơi đây, ta đã tiêu diệt gọn toán Phỉ cuối cùng ở cụm cứ điểm Mã Sồ, trong vụ bạo loạn năm 1959 – 1960; là nơi đã diễn ra những trận chiến ác liệt trong những năm chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 – 1986. Trải qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, thời kỳ nào nhân dân các dân tộc xã Lũng Táo cũng có những người con ưu tú, sáng tạo, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh anh dũng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ đảng (1962), Đảng bộ xã (1998 - 2020), nhân dân các dân tộc Lũng Táo đã đoàn kết một lòng, dũng cảm trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng và ý chí quyết tâm, đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thành tựu đó là nguồn cổ vũ, động viên để Lũng Táo tiếp tu ̣c phát huy trong công cuô ̣c đổ i mới của Đảng phát triển về kinh tế- xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, từng , bước đưa nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm là một thế mạnh của địa phương; phát triển làng nghề truyền thống nấu rượu ngô trở thành kinh tế mũi nhọn, gắn với phát triển du lịch khám phá Hang Tiên, du lịch trải nghiệm nhà cổ Há Súng, bể nước hữu nghị thôn Mà Lủng, điểm tựa 1911m, ngắm cảnh “ruộng bậc thang miền đá”…, đó là tiềm năng, thế mạnh để Lũng Táo phát triển bền vững. Việc nghiên cứu, sưu tầm và biên soạn cuốn “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Táo giai đoạn 1961 - 2020”, đã nhận được được sự chỉ đạo chặt chẽ , của Ban Thường vụ Huyện ủy Đồng Văn mà trực tiếp là Ban Tuyên giáo Huyện ủy, đồng thời có sự đóng góp của các đồng chí lão thành cách mạng, cán bộ, đảng viên và nhân dân cùng những người con của Lũng Táo. Đảng bộ, chính quyền xã Lũng Táo xin chân thành cảm ơn các cơ quan, đơn vị, các đồng chí cán bộ đảng viên, cùng các tầng lớp nhân dân trong xã đã nhiệt tình tham gia đóng góp ý kiến vào việc biên soạn, hoàn chỉnh bản thảo và tổ chức xuất bản để cuốn sách được kịp thời ra mắt bạn đọc. Do điều kiện sưu tầm tư liệu gặp khó khăn, khả năng biên soạn có hạn, chắc chắn cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong các đồng chí và bạn đọc góp ý kiến để lần tái bản cuốn sách được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng giới thiệu đến toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng bạn đọc! T/M BAN THƯỜNG VỤ BÍ THƯ Vừ Sâu Pó 2
  3. Phần một KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI XÃ LŨNG TÁO 1. Điều kiện tự nhiên Lũng Táo là xã biên giới, nằm cách trung tâm huyện lỵ Đồng Văn 16 km về phía Tây Bắc. Phía Bắc giáp xã Má Lé, phía Đông giáp xã Thài Phìn Tủng, phía Nam giáp xã Sà Phìn, phía Tây và Tây Bắc giáp Trung Quốc. Xã có địa hình đồi núi cao, bị chia cắt mạnh xen kẽ nhau, cao thấp không đồng nhất, độ dốc lớn gây khó khăn cho việc canh tác, phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp và các ngành kinh tế khác, cũng như đời sống sinh hoạt của nhân dân. Khí hậu xã Lũng Táo mang nhiều sắc thái của khí hậu ôn đới, được chia thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa thường có gió bão, lốc xoáy từ tháng 4 đến tháng 10 chiếm hơn 28% lượng mưa của cả năm. Mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nét nổi bật của khí hậu Lũng Táo là độ ẩm trong năm cao, mưa nhiều và kéo dài làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. Vào mùa bão thường có mưa lớn làm sạt lở đất đá, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân . Nhiệt độ trung bình năm của xã Lũng Táo là 23,1 0C phân bố khá đồng đều trên địa bàn xã; mùa hè nền nhiệt trung bình 21,60C; mùa đông nền nhiệt độ trung bình 19,10C. Về mùa đông thời tiết thường rét đậm, hanh khô, xuất hiện sương muối, hiện tượng sương mù nhiều; có năm xuất hiện mưa tuyết, băng giá. Nhìn chung, khí hậu của xã phù hợp để phát triển nhiều loại cây ăn quả, nhiều loại rau, hoa màu và cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi ong lấy mật. Tổng lượng mưa trung bình năm tại xã dao động trong khoảng 1760mm- 2000mm. Thời gian chiếu sáng trung bình năm khoảng 1.420-1.445 giờ; mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10; số giờ nắng chiếm khoảng 920 - 950 giờ; mùa lạnh từ tháng 11 - 4 năm sau, số giờ nắng chiếm khoảng 500 - 520 giờ; số giờ nắng tháng cao nhất tuyệt đối 248 giờ (tháng 08 năm 2009); số giờ nắng tháng thấp nhất tuyệt đối 42,5 giờ (tháng 03 năm 2009). Đất đai được hình thành từ 2 nguồn gốc đó là do phong hóa tại chỗ từ đá mẹ và đất bồi tụ do xói mòn rửa trôi tạo nên: Nhóm đất đỏ vàng: Đây là nhóm đất chiếm tỷ lệ lớn nhất, phát triển tại chỗ với quá trình hình thành đặc trưng của vùng nhiệt đới ẩm - quá trình feralit. Do địa hình dốc nên quá trình này diễn ra trong điều kiện các silicat bị rửa trôi và các hợp chất sắt, nhôm được tích luỹ. Vỏ phong hoá giầu ôxit và hydroxit sắt hình thành các loại đất có màu đỏ vàng. Nhóm đất này có các loại đất chính sau: Đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất (Fs), đất đỏ vàng trên đá macma axit (Fa), đất vàng nhạt trên đá cát (Fq), đất mùn nâu vàng trên đá vôi (Fv). Nhóm đất này thích hợp với nhiều loại cây như cây lương thực và màu, cây công nghiệp, cây ăn quả. Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi: Nhóm đất này cũng phát triển tại chỗ. Trên đất nương rẫy, nhóm đất này có các loại đất chính sau: Đất mùn vàng đỏ trên đá sét và biến chất (Hs), đất mùn vàng nhạt trên đá cát (Hq), đất mùn vàng đỏ trên đá macma axit (Ha). Đây cũng là nhóm đất 3
  4. thích hợp với hầu hết các loại cây trồng cũng như cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả và cây lâm nghiệp. Trên địa bàn xã không có tài nguyên về khoáng sản, nhưng tài nguyên rừng là một tiềm năng, đang được trồng và khoanh nuôi phục hồi rừng. Diện tích độ che phủ của rừng đạt 28,23% chủ yếu rừng tái sinh, rừng trồng sản xuất; tổng số đất rừng phòng hộ 467,9 ha. Tài nguyên nước tương đối phong phú, các nguồn nước từ “Núi Vua” đã cung cấp nước sạch cho trên 50% số thôn của xã, giúp cho nhân dân có nước sinh hoạt và sản xuất. Về cơ bản, nguồn nước cung cấp chủ yếu hiện nay của xã đa số đều là sử dụng các khe mạch nước nhỏ từ các chân núi ra và các bể chứa nước hộ gia đình, vì vậy chất lượng nước phục vụ cho người dân địa phương vẫn còn thiếu về mùa khô, nhất là những thôn xa nơi có nguồn nước. Trên địa bàn xã có duy nhất một con suối ở khu vực Thành Tủng thuộc địa phận thôn Má Sồ và Lô Lô Chải (khe suối Há Po), nước chảy nhiều chủ yếu vào mùa mưa, vào mùa khô có nước nhưng lưu lượng nước ở mức thấp, suối cung cấp nước cho người dân làm ruộng và làm thủy điện. Con suối này chảy vào suối ngầm ở khu vực Khi Lía thuộc địa phận của xã Thài Phìn Tủng và chảy ra khu vực thủy điện Séo Hồ. Diện tích đất tự nhiên từ sau khi chia tách thành lập xã đến năm 1978 là 2.040,0 ha, trong đó đất nông nghiệp 816,3 ha, đất lâm nghiệp 551,5 ha, đất chuyên dùng 31,4 ha, đất có khả năng lâm nghiệp 183,9 ha, sông suối 3,3 ha, các loại đất khác 347,1 ha. Đến 2018, diện tích đất tự nhiên của xã là 2.085,15 ha, trong đó đất nông nghiệp có 1.695,32 ha, đất phi nông nghiệp 74,23 ha, đất chưa sử dụng 315,6 ha1. 2. Điều kiện xã hội Trước năm 1961, Lũng Táo là một thôn của xã Sà Phìn, có 16 xóm, với 199 hộ/1.131 nhân khẩu. Ngày 5.7.1961 Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 91-CP chia 13 xã thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, khu tự trị Việt Bắc thành những xã mới. Xã Sà Phìn được chia thành 6 xã mới là: Sà Phìn, Lũng Táo, Thài Phì Tũng (Thài Phìn Tủng), Sính Lũng (Sính Lủng), Tả Phìn, Tả Lùng (Tả Lủng). Sau khi chia tách, xã Lũng Táo gồm có thôn Lũng Táo cũ và thôn Mà Sô (nay là thôn Mã Sồ), gồm 2 dân tộc Mèo và Lô Lô. Giai đoạn 1961 – 1965, xã Lũng Táo có 8 thôn, đến năm 1969 thành lập được 8 hợp tác xã; từ năm 1977 đến 1981 xã xây dựng thành công hợp tác xã toàn xã với tên gọi Hợp tác xã Hợp Nhất, nhằm đưa người nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ chiến tranh biên giới từ năm 1981 đến 1985, hai thôn Mà Lủng và Nhù Sang người dân phải di chuyển vào nội địa để sinh sống, hợp tác xã Hợp Nhất không duy trì được, chi bộ đã chỉ đạo thành lập 4 Hợp tác xã / 7 thôn; đến năm 1986, thực hiện chính sách đưa dân trở lại biên giới, các hộ dân trở lại biên giới thôn Mà Lủng và Nhù Sang; đến năm 1989 tách các thôn Cầu Phìn Lủng thành 4 thôn: Pó Xí, Cá Ha, Há Súng, Sính Thầu; 1 Nghị quyết số 01/NQ-HĐND ngày 29/6/2018 của HĐND huyện Đồng Văn về Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. 4
  5. tách thôn Mã Sồ thành 3 thôn Mã Sồ, Lô Lô, Hồng Ngài, nâng tổng số thôn của xã lên 14 thôn. Đến hết năm 2020, toàn xã có 16 thôn, trong đó có 3 thôn biên giới, gồm: Mà Lủng, Nhù Sang, Má Là; thôn nội địa, gồm: Lũng Táo, Hồng Ngài, Tua Ninh, Mò Só Tủng, Mã Sồ, Lô Lô Chải, Tìa Súng, Pể Há, Sà Lủng, Sính Thầu, Pó Sí, Há Súng, Cá Ha. Toàn xã có 771 hộ/3.994 khẩu, gồm các dân tộc Mông, Lô Lô, Kinh, Tày, Cờ Lao, Giấy, Pu Péo, Nùng, Dao, Mường, Hoa Hán. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, hệ thống giao thông vận tải chủ yếu là đường mòn đi bộ cho người và ngựa. Tháng 9/1975, tuyến đường từ Sà Phìn đến Lũng Táo khánh thành, huyện tiếp tục chỉ đạo thi công tuyến đường từ Lũng Táo đến Má Lé, thời gian thi công trong hơn 2 năm, ngày 15/10/1977 tuyến đường Lũng Táo - Má Lé chính thức khánh thành. Tuyến đường hoàn thành đã góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện Đồng Văn và đảm bảo an ninh - quốc phòng khu vực biên giới. Đến năm 2020, trên địa bàn xã tiếp tục duy trì làng nghề nấu rượu ngô truyền thống thôn Lũng Táo với quy mô 24 hộ tham gia, sản lượng đạt 80 nghìn lít/ năm; có 7 hộ kinh doanh buôn bán hàng tạp hóa và đang dần hình thành chợ biên giới tại thôn Nhù Sang; ngôi nhà cổ thôn Há Súng đang được bảo tồn và phát huy giá trị; bên cạnh đó có Hang tiên Nhù Sang, điểm ngắm hoa tam giác mạch thôn Lô Lô Chải… thu hút lượng đông du khách dừng chân tham quan. Đồng thời, triển khai đẩy mạnh đột phá về ứng dụng khoa học kỹ thuật vào cải tạo đàn bò vàng địa phương bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo; thực hiện hoàn thành 10/19 tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới. Trong lĩnh vực văn hóa có nhiều nét đặc sắc, là địa bàn còn giữ được nhiều bài khèn cổ, làn điệu dân ca Mông, dân ca Lô Lô, các phong tục truyền thống còn được lưu giữ và phát huy giá trị tốt đẹp đến ngày nay. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư được thực hiện và đạt kết quả tích cực, đến năm 2020 có 7/16 thôn văn hóa, với 419 gia đình được công nhận và giữ vững danh hiệu văn hóa. Số hộ có ti vi ngày càng tăng, toàn xã có 695 hộ có ti vi, có 12/16 thôn được phủ sóng truyền thanh không dây; 16/16 thôn có điện lưới quốc gia. Về giáo dục, trước thời điểm thành lập xã Lũng Táo, tại địa bàn có điểm trường dạy lớp vỡ lòng và lớp ánh sáng văn hóa. Năm 1999 hoàn thành Xóa mù chữ và Phổ cập giáo dục Tiểu học, đồng thời tổ chức được lớp học nội trú dân nuôi; năm 2004 thành lập trường Mầm non và trường Phổ thông cơ sở xã Lũng Táo; năm 2005 hoàn thành Phổ cập Trung học cơ sở. Đến năm học 2019-2020, tỷ lệ duy trì sĩ số bậc Mầm non đạt 99%, tỷ lệ duy trì sĩ số bậc Tiểu học đạt 98%, tỷ lệ duy trì sĩ số bậc Trung học cơ sở đạt 90%. Chất lượng giáo dục được nâng lên, đối với Tiểu học, chất lượng chuyển lớp, chuyển cấp đạt 91,13%; Trung học cơ sở chuyển lớp đạt 94,5%; tỷ lệ học sinh công nhận tốt nghiệp Trung học cơ sở đạt 94,9% Xã Lũng Táo quản lý cột mốc biên giới số 15 (từ thời kỳ Pháp - Thanh), với chiều dài đường biên giới 4,5 km. Sau phân giới cắm mốc ngày 18/11/2009 Chính phủ nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước CHND Trung Hoa đã ký nghị 5
  6. định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, có hiệu lực ngày 14/7/2010, đoạn biên giới do xã Lũng Táo quản lý dài 4,97 km, gồm 10 mốc trong đó có 6 mốc chính và 4 mốc phụ, gồm các mốc: 405, 406, 407, 408, 409, 409.1, 409.2, 410, 410.1, 401.2. Công tác quốc phòng - an ninh luôn được củng cố vững chắc, công tác đối ngoại luôn được mở rộng, xây dựng biên giới với nước bạn Trung Quốc hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Trải qua gần 60 năm xây dựng và trưởng thành, cấp ủy, chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Lũng Táo đã xây dựng khối đại đoàn kết vững mạnh, một lòng theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ đảng, sau này là Đảng bộ xã, mỗi cán bộ, đảng viên luôn nêu cao tinh thần tiền phong, gương mẫu để người dân noi theo, vì vậy trải qua các chặng đường cách mạng, xã Lũng Táo luôn dẫn đầu trong các phong trào thi đua, có nhiều cách làm hay, nhiều điển hình tiêu biểu đã được xây dựng ở Lũng Táo, được các cấp các ngành đánh giá cao. Có thể khẳng định rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền và sự đoàn kết của nhân dân các dân tộc trong xã, diện mạo của xã biên giới Lũng Táo huyện Đồng Văn đã có nhiều khởi sắc, cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân từng bước được nâng cao, góp phần quan trọng để người dân yên tâm bám trụ nơi biên giới. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, tàn dư của chế độ cũ để lại khá nặng nề, bên cạnh đó, điều kiện địa hình phức tạp, thời tiết, khí hậu diễn biến thất thường, rét đậm, rét hại, mưa đá, lốc xoáy thường xuyên xảy ra; thiếu đất canh tác, thiếu nước sinh hoạt; trình độ dân trí không đồng đều, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo có nguy cơ tái nghèo cao; một bộ phận quần chúng nhân dân còn tư tưởng trông trờ, ỷ lại vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước, chưa nỗ lực vươn lên trong xóa đói giảm nghèo, chính vì vậy đến nay Lũng Táo vẫn là một trong những xã nghèo của huyện Đồng Văn. 3. Nhân dân các dân tộc xã Lũng Táo thời kỳ trước năm 1961 Từ xa xưa nhân dân các dân tộc Lũng Táo đã phải liên tục đấu tranh để vượt qua những khó khăn trở ngại của thiên nhiên và chống lại sự áp bức, bóc lột cuả Thổ ty phong kiến ở địa phương, bên cạnh đó còn phải đối phó với thổ Phỉ từ bên ngoài tràn vào biên giới để cướp của, giết người, lấn chiếm đất đai. Khi chiếm đóng Hà Giang (1887), thực dân Pháp nắm lấy bọn Thổ ty phong kiến để lập bộ máy thống trị từ tỉnh xuống các châu, tổng, xã. Chúng thiết lập chế độ đạo quan binh nhằm quản lý thực hiện tất cả các quyền lực về quân sự theo lệnh của Tổng chỉ huy tối cao quân đội và tất cả các quyền lực về dân sự theo lệnh của Thống sứ Bắc Kỳ, dưới sự chỉ đạo tối cao của Toàn quyền Đông Dương trên toàn bộ khu vực vùng cao Bắc Kỳ. Ngày 28/11/1905, Quyền Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định: Kể từ ngày 01/01/1906 thiết lập các trung tâm hành chính tại các Đạo quan binh 2, 3 và 4. Theo đó, địa danh Lũng Táo là một làng thuộc xã Sà Phìn. Trong giai đoạn này, địa bàn Lũng Táo do thổ ty Vừ Phán Lùng cai quản. Ông đã lựa chọn địa điểm tại Há Súng để 6
  7. xây dựng công trình nhà ở kiêm pháo đài kiên cố. Nhưng sau đó ông bị ốm chết2. Thổ ty khác lên cai quản vùng đất này. Công trình đó là nhà cổ của họ Vừ, thuộc thôn Há Súng, xã Lũng Táo ngày nay. Năm 1911, thủ lĩnh Sùng Mí Chảng đã tập hợp người Mèo nổi dậy chống lại thực dân Pháp, sau khi rút khỏi vùng núi Tù Sán (thị trấn Đồng Văn ngày nay), Sùng Mí Chảng đã chọn vùng rừng núi Mã Sồ (Lũng Táo) làm nơi đóng quân, xây dựng lán trại… để chiến đấu chống lại thực dân Pháp xâm lược. Sau khi Sùng Mí Chảng bị bắt, nghĩa quân tan giã. Từ đó, vùng rừng núi Mã Sồ được người dân nơi đây gọi là “Núi Vua” còn lưu truyền đến ngày nay. Đến cuố i năm 1929, xã Sà phìn thuộc tổng Đông Minh, châu Đồng Văn (với tên gọi Sa Phìn). Thời kỳ này xã Sa Phìn có 48 làng: Lũng Sá Phìn, Siao Sa Phin, Lũng Hòa, Làn Chá Tổng, Kicau Phì Lũng, Thái Phình Tông, Sín Lũng, Pảo Hồ Quang, Lũng Lò, Chù Lũng, Chú Quấn Tảng, Séo Lũng, Voàn Sù Sán, Lo Chá Tổng, Háo Sù Tổng, Thìn Mán Tổng, Lá Tà, Sàng Tổng Sử, Ngài Là Tổng, Má Chè, Sán Sì Tổng, Sừ Lèng Sư, Sáo Có Lũng, Lũng Tao, Má Sò, Sùng Lủng, Ta Cúng Phàng, Yáng Sĩ Tổng, Niêàu Sản, Niêàu Lũng, Má Phấn, Khí Lái, Mà Lũng, Mã Chá Sào, Gìn Lũng, Tả phìn, Mao Sáo Tổng, Má Vàng Sán, Má Sá, Tả Tổng Sư, Tả Chù Lũng, Hiang Sáo Tổng, Hòu Lũng, Lũng Thàu, Lồi Chá Tổng, Ngài Pản Sủi, Sui Tổng Sư, Sinh Tổng Sư3. Từ cuối năm 1929 đến sau cách mạng tháng 8/1945 địa danh Lũng Táo cơ bản không thay đổi, về mặt hành chính thời kỳ này Lũng Táo là một thôn của xã Sà Phìn. Tại đây, thực dân Pháp lập bốt gác ở thôn Nhù Sang để canh phòng nơi biên giới. Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Từ đây, cách mạng Việt Nam bước sang giai đọan mới, giai đoạn có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản. Tháng 8 năm 1945, chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và đồng bào thế giới. Sự kiện trọng đại ấy đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Hà Giang tiến nhanh vào giai đoạn đấu tranh giành chính quyền toàn tỉnh. Đến cuối năm 1945, cuộc đấu tranh giành chính quyền cách mạng trong toàn tỉnh Hà Giang cơ bản hoàn thành thắng lợi. Tại châu Đồng Văn , do thế lực Thổ ty , Bang tá, Tổng giáp, Mã phài còn mạnh , nên ta vẫn duy trì chế độ Thổ ty đồng thời đẩy mạnh vận động tuyên truyền cách mạng trong vùng Thổ ty, Bang tá. Đối với Vương Chí Sình, một Bang tá lớn có thế lực trong đồng bào Mông ở Đồng Văn, cán bộ Việt Minh đã tiếp cận, tuyên truyền chủ trương chính sách của Mặt trận Việt Minh, vận động ông ủng hộ Việt Minh, tạo điều kiện để ông về Hà Nội gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã giao cho Vương Chí Sình làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Đồng Văn. 2 Địa chí Hà Giang trang tập I - xuất bản năm 2020. 3 Tư liệu Trung tâm lưu trữ Quốc gia I. 7
  8. Như vậy, ở Đồng Văn không có cuộc đấu tranh giành chính quyền như các nơi khác, mà trên thực tế ta tạm thời thừa nhận chính quyền của Thổ ty với danh nghĩa “Ủy ban hành chính” để từng bước cải tạo chinh quyền của ́ Thổ ty thành chính quyền cách mạng . Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 thắng lợi , kết thúc chín năm kháng chiến chố ng thực dân Pháp của dân tộc ta, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ngay sau đó, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, phá hoại hiệp định Giơnevơ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong giai đoạn này tình hình trật tự trị an ở huyê ̣n Đồ ng Văn còn rất phức tạp , bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch và tầng lớp trên tăng cường hội họp bàn cách chống phá cách mạng. Chúng tổ chức buôn lậu có vũ trang để đi lại móc nối với nhau, đe dọa, khủng bố tinh thần những người tích cực theo cách mạng, đưa tay chân của chúng vào lực lượng dân quân, gạt bỏ thành phần tích cực của ta, tìm mọi cách chia rẽ cán bộ, bộ đội với nhân dân, đe doạ lực lượng cốt cán của ta. Chúng tuyên truyền đề cao Pháp - Mỹ, chống chính sách thuế, dân công, phá hoại sản xuất, chia rẽ các dân tộc . Nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng trở nên vô cùng cấp bách4. Tại thôn Lũng Táo, xã Sà Phìn, do tình hình chính trị còn rất phức tạp, thế lực kinh tế, chính trị của Tổng giáp, Mã phài còn mạnh5, mọi quyền hành đều tập trung trong tay Thổ ty; 100% người dân đều sống bằng nghề nông, đất đai cằn cỗi và phần nhiều là đá, phần diện tích đất màu mỡ đều do Lý trưởng và địa chủ nắm giữ. Công cụ sản xuất thô sơ, trâu bò không đủ phục sức kéo cho người nông dân; phương pháp sản xuất còn lạc hậu, kết quả thu hoạch không đáng kể. Nhiều phong tục tập quán còn lạc hậu, dân chúng còn mê tín nhiều, phương pháp ăn ở vệ sinh chưa được phổ biến, có xóm việc ăn ở của người và gia súc lẫn lộn, 100% người dân đều mù chữ. Trong khi đó, Thổ ty bóc lột người dân rất nặng nề. Hằng năm, người dân phải thay nhau tới hầu hạ các gia đình Thổ ty và đến làm không công cho các gia đình Lý tưởng, địa chủ. Mọi thông tin đều bị chúng bưng bít, vì vậy đã làm cho người dân sống dưới chế độ của Thổ ty phong kiến vô cùng cực khổ, đói rét, bệnh tật… Trong giai đoạn 1955 - 1957, Ủy ban hành chính xã Sà Phìn thực hiện chủ trương của huyện Đồng Văn là chưa tiến hành cải cách ruộng đất, mà chỉ tiến hành một số chính sách như: giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất, thực hiện thuế nông nghiệp. Xuất phát từ đặc điểm tình hình ở Đồng Văn là chế độ Thổ ty phong kiến nên ở thôn Lũng Táo, xã Sà Phìn thi hành sắc lệnh giảm tô ở mức bình thường, nhằm giải quyết nhiệm vụ trước mắt là “người cày có ruộng”. Lúc này, do ảnh hưởng sai lầm của cuộc cải cách ruộng đất ở miền xuôi và cải cách ruộng đất ở Trung Quốc làm cho giai cấp bóc lột ở 4 Sau hoà bình lập lại (1954), huyện Đồng Văn còn có 13 xã chưa có chính quyền nhân dân, mà vẫn nằm dưới sự khống chế của các thế lực Thổ ty địa phương - Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn tâ ̣p I (1944-1975), trang 72. 5 Thời kỳ này, tại thôn Lũng Táo do lý trưởng Mua Dũng Pó ở Mã Sồ cai quản. 8
  9. thôn Lũng Táo hoang mang, lo sợ bị mất quyền lợi, tìm cách tẩu tán tài sản, ruộng đất. Chúng câu kết với các phần tử phản động, bất mãn xuyên tạc và chống lại chính sách giảm tô, giảm tức của ta, đặc biệt là chính sách thuế nông nghiệp và các cuộc vận động xã hội khác. Ngày 10/8/1957, Đảng bộ huyện Đồng Văn tổ chức Đại hội toàn thể đảng viên lần thứ Nhất. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ chủ yếu trong nhiệm kỳ tới là: Tăng cường củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc; tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo và cải thiện đời sống nhân dân; tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang từ huyện đến xã; đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các tổ chức đoàn thể để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo mọi mặt trong giai đoạn cách mạng mới. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất, Ủy ban hành chính xã Sà Phìn đã lanh đa ̣o nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động đẩy mạnh sản xuất ̃ nông, lâm nghiệp; các đoàn thể quần chúng, lực lượng dân quân, du kích ở địa bàn Lũng Táo cũng được củng cố, kiện toàn. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Hà Giang về “cải cách dân chủ” ở vùng cao. Ở Đồng Văn, tầng lớp trên cũng họp với Đặc vụ Quốc dân Đảng vạch kế hoạch nổi loạn, triển khai lực lượng, vũ khí, phân công người phụ trách từng khu vực. Nhất là sau bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính cấp huyện, xã (tháng 5/1959) chúng phản ứng rất mạnh, kích động quần chúng, đe dọa cán bộ mới được bầu cử. Nhằm ngăn chặn âm mưu gây rối của địch, tháng 9/1959, Tỉnh ủy Hà Giang quyết định mở đợt truy quét Đặc vụ Quốc dân Đảng ở dọc biên giới, bắt 51 tên (riêng ở Đồng Văn có 49 tên, thu 2000 súng). Cay cú trước đòn đánh bất ngờ này, địch ra sức tuyên truyền chống chính sách, tích cực chuẩn bị nổi loạn. Tên Vàng Chúng Dình (đặc vụ Trung Quốc) được phân công làm tổng chỉ huy quân sự, tại địa bàn Lũng Táo do tên Mua Dũng Pó cùng với con trai là Mua Súa Giàng chỉ huy. Đầu tháng 11 năm 1959, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Văn ra Nghị quyết về công tác củng cố tổ đổi công và xây dựng hơ ̣p tác xã . Đây là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt nhằm hạn chế, tiến tới xóa bỏ quyền lợi chính trị, kinh tế của tầng lớp Thổ ty, Bang tá, Tổng giáp, Mã phài vì tầng lớp này đang sở hữu hàng chục ngàn ha nương rẫy. Do không nắm chắc tình hình, cấp ủy chính quyền tỉnh, huyện coi nhẹ công tác tuyên truyền ổn định tư tưởng tầng lớp trên và quần chúng nhân dân, chủ quan coi thường địch, vẫn đánh giá “địch không có khả năng bạo loạn, chúng phản ứng chỉ để gây áp lực, đòi yêu sách” nên không có biện pháp đối phó. Do đó bọn đặc vụ, phản động lợi dụng kích động quần chúng, lôi kéo tầng lớp trên chống lại chủ trương chính sách của Đảng, âm mưu nổi loạn cướp chính quyền. Máy bay Mỹ xuất hiện ở vùng biên giới Việt - Trung thả biệt kích, gián điệp xuống móc nối với bọn phản động ở Lũng Táo, Má Lé, Lũng Cú chống lại chính quyền, kích động bọn phản động gây bạo loạn. 9
  10. Ngày 13/11/1959 bọn phản động ở Lũng Cú do tên Giàng Vạn Sùng cầm đầu đã bắt cóc thôn đội trưởng và truy đuổi, phóng hỏa bắt đồng chí công an viên. Ngày 26/11/1959, tại Sà Phìn một toán Phỉ đã truy đuổi và bắn chết đồng chí dân quân xã. Ngày 30/11/1959 bọn phản động đưa 40 tên lên gác cổng trời Cán Tỷ, làm trận địa chiến đấu. Ngày 02/12/1959 bọn phản động ở cổng trời Cán Tỷ giữ 2 đoàn ngựa thồ hàng của tỉnh vào Đồng Văn, đuổi dân công quay trở lại. Ngày 4/12/1959 huyện Đồng Văn đưa đoàn cán bộ lên cổng trời giải giáp, chúng bắn chết 1 cán bộ công an huyện, bắn bị thương 1 cán bộ huyện đội. Từ ngày 5 đến 8/12/1959 bọn phản động hoạt động mạnh ở các xã vùng cao Đồng Văn, chúng ngăn chặn dân nộp thuế, đi họp, kích động lôi kéo dân quân theo chúng. Ngày 9/12/1959 bọn phản động chiếm nhiều nơi trong huyện, cuộc bạo động phản cách mạng đã thực sự nổ ra. Chúng tung ra khẩu hiệu “Chống lên hơ ̣p tác xã , chống bộ máy Chính quyền mới được bầu cử, chống giảm trồng thuốc phiện, không đi làm đường, không nộp thuế, không nộp súng”. Ngày 12/12/1959, khi phiên chợ xã Đồng Văn đang lúc đông nhất, 2 toán phỉ theo 2 hướng tấn công vào xã Đồng Văn. Công an Đồng Văn, dân quân tự vệ và nhân dân xã Đồng Văn đã anh dũng chiến đấu, bẻ gẫy cuộc tấn công liều lĩnh, hung bạo đó của phỉ. Ngày 14/12/1959, Phỉ đánh chiếm Lũng Phìn, chúng giết người, đốt ảnh Bác Hồ, phá trụ sở Ủy ban hành chính xã, cướp cửa hàng mậu dịch, phá kho chứa lương thực. Trước tình hình diễn biến phức tạp của cuộc bạo loạn, Tỉnh ủy đã báo cáo xin chủ trương giải quyết của Trung ương và quyết định thành lập Ban chỉ huy chiến dịch, trụ sở Ban chỉ huy đóng tại xã Quản Bạ. Ngày 18/12/1959 các đơn vị tham gia chiến dịch lên tới Đồng Văn, sau khi giải phóng cổng trời Cán Tỷ, ngày 23/12/1959, tiểu đoàn 12 Công an nhân dân vũ trang, Trung đoàn 246 quân khu Việt Bắc, Đại đội 10 Tỉnh đội Hà Giang và Phân đội 55 Công an nhân dân vũ trang Cao Bằng, sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiễu phỉ ở Mèo Vạc, Sơn Vĩ đã hành quân hỏa tốc đến xã Đồng Văn. Quân ta phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, trong đánh ra, ngoài đánh vào. Bọn phỉ ở xã Đồng Văn không chống đỡ nổi sức tấn công vũ bão của quân ta. Trùm phỉ Vàng Chúng Dình và đồng bọn hoảng hốt chạy vào khu vực Mã Sồ (thuộc địa phận xã Lũng Táo ngày nay). Tại đây, chúng đã ẩn náu trong hang đá, chiếm giữ và canh gác tại 3 điểm cao: núi Vàng (Chúng Vàng), núi Thuốc (Chúng súa) và núi Mã Sồ (Chúng Ma Sô); chúng xếp đá làm nhà ở cho tên chỉ huy ở trên đỉnh núi cao nhất là núi Vàng, có canh phòng cẩn mật (đây là đỉnh núi cao nhất khu vực này, xung quanh đều là vách đá dựng đứng, chỉ có duy nhất một dông núi có thể đi lên đến đỉnh núi, nhưng đá tai mèo lởm chởm, rất khó có thể tiếp cận được khu vực này). Chủ trương của Ban Chỉ huy chiến dịch là phải tiêu diệt xong vị trí Mã Sồ mới ăn tết. Ngày 26/01/1960, ta mở cuộc công kích vào cụm cứ điểm Mã Sồ. Được sự giúp đỡ của lực lượng dân quân địa phương, mà trực tiếp là đồng chí Mua Pà Tỏa – Trung đội trưởng dân quân xã Sà Phìn, là người ở Mã Sồ, nên lực lượng của ta tiếp cận mục tiêu một cách nhanh chóng. Rạng sáng ngày 27/01/1960, tức ngày 29 tết (theo Âm lịch là tháng thiếu nên không có ngày 30 tết)), ta chính thức nổ súng đánh vào cứ điểm Mã Sồ. Phỉ thấy lực lượng của ta mạnh, nên chúng chống trả yếu ớt, sau đó những tên cầm đầu 10
  11. đã bỏ chạy lên vùng rừng núi 1911 và lẩn trốn sang biên kia biên giới. Trong trận này, 2 chiến sỹ của ta đã anh dũng hy sinh. Ngày 28/01/1960 (mùng 1 tết)6, ta giải phóng Mã Sồ. Chiến dịch tiễu phỉ ở Đồng Văn giành được thắng lợi, vụ bạo loạn cơ bản bị dập tắt, còn một số tên tướng Phỉ ngoan cố lẩn trốn trong rừng sâu, hang đá sau đó phải lần lượt ra hàng hoặc bị bắt. Chiến dịch tiễu Phỉ từ tháng 3/1960, chuyển từ hình thức đấu tranh vũ trang sang hình thức vận động quần chúng tiễu Phỉ kết hợp với củng cố chính quyền, đẩy mạnh sản xuất, tiếp tục thực hiện các mục tiêu “cải cách dân chủ” ở Đồng Văn. Sau một thời gian vận động, thuyết phục đến tháng 5/1960 còn một số tên Phỉ ngoan cố lẩn trốn trong rừng sâu, hang đá đã ra hàng 300 tên. Tại xóm Mã Sồ, thôn Lũng Táo, xã Sà Phìn tổng số có trên 30 hộ dân đều bị chúng ép theo làm Phỉ, cả xóm duy nhất còn 4 gia đình có người tham gia dân quân nên không theo Phỉ, là gia đình đồng chí Mua Pà Tỏa, Vàng Pháy Tủa, Mua Chúng Già, Giàng Dũng Po. Cầm đầu vụ bạo loạn ở Mã Sồ là bố con Mua Dũng Pó và Mua Súa Giàng. Trong trận tuy quét Phỉ tại Mã Sồ, bố con Mua Dũng Pó đã chốn thoát, được sự vận động giáo dục của chính quyền địa phương, tên Mua Dũng Chía theo làm Phỉ đã xung phong đi truy tìm và bắt được Mua Dũng Pó để lập công7. Sau ngày bị bắt, tên Mua Dũng Pó đã bị chết trong quá trình điều tra; tên Mua Súa Giàng bị kết án 7 năm tù, sau khi mãn hạn tù Mua Súa Giàng về quê làm ăn sinh sống lương thiện, chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước tại địa phương; toàn bộ các hộ dân của xóm Mã Sồ trước đây theo làm Phỉ, nay đã trở về với chính quyền cách mạng, được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, không ai bị bắt hoặc bị kết án tù, các hộ dân đều chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tháng 10/1961, tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang mở 3 phiên tòa xét xử những tên cầm đầu cuộc bạo loạn ở Đồng Văn, tử hình 3 tên. Sau chiến dịch tiễu Phỉ ở Đồng Văn tiểu đội trưởng Công an vũ trang Mai Xuân Hùng được kết nạp ngay vào đảng; huyện đội trưởng Mã Chính Lâm được thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất và được gặp Bác Hồ; Xã Đội phó xã Vần Chải Sùng Dúng Lù được Chủ tịch nước tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”8. Thành công lớn nhất trong việc đập tan cuộc bạo loạn phản cách mạng ở Đồng Văn (1959 - 1960) là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu rõ bộ mặt xấu xa của bọn đặc vụ Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch và bọn phản động, bấy lâu lừa bịp nhân dân chống lại cách mạng. Nhân dân các dân tộc ở Đồng Văn đã ý thức được vai trò quần chúng của mình trong cuộc đấu tranh vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính dân tộc 6 Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn 1944 – 1975 (tập I), trang 126 ghi: ngày 31/01/1960 là ngày mùng 1 tết, nhưng thực tế ngày mùng 1 tết năm Canh Tý (1960) là ngày 28/01/1960. 7 Theo lời kể của đồng chí Mua Chá Sáu, sinh năm 1951, nguyên cán bộ văn hóa xã Lũng Táo, là con trai của đồng chí Mua Pà Tỏa, người trực tiếp chứng kiến chiến dịch tiễu Phỉ. 8 Đồng chí Sùng Dúng Lù được Chủ tịch nước tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày 01/01/1967 11
  12. đang diễn ra ở miền núi. Nhiều cụ già, phụ nữ, kể cả những người trước đây làm Phỉ đã tự nguyện đứng vào đội ngũ quần chúng cách mạng. Nhiều Tổng giáp, Mã phài đã phấn đấu trở thành cán bộ tỉnh, huyện, xã, con cháu của họ được tạo điều kiện học tập, công tác như mọi công dân khác. Trong vụ bạo loạn này, cán bộ, nhân dân và dân quân du kích thôn Lũng Táo, mà đặc biệt là lực lượng dân quân xóm Mã Sồ, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mua Pà Tỏa đã tích cực đấu tranh chống lại bọn phản động gây bạo loạn, góp phần ổn định tình hình nơi biên giới. Vụ bạo loạn ở Đồng Văn được dập tắt , đó là mô ̣t thắ ng lơ ̣i lớn có ý nghia ̃ chính trị sâu sắc . Đã đâ ̣p tan âm mưu muố n tách cao nguyên đá Đồ ng Văn ra khỏi bản đồ Viê ̣t Nam để thành lâ ̣p “ngũ xã tự tri”̣ của người Mông và bọn phản động , tay sai thực dân Pháp và đế quố c Mỹ. Góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc , đẩ y ma ̣nh sự nghiê ̣p cải cách dân chủ , từng bước xây dựng cuô ̣c số ng ấ m no , hạnh phúc cho các dân tô ̣c vùng cao nguyên đá , góp phần vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hô ̣i, đấ u tranh thố ng nhấ t đấ t nước. Phần hai QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ LŨNG TÁO DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (1961 - 2020) I. Chi bộ đảng xã Lũng Táo lãnh đạo nhân dân trong xã đẩy mạnh sản xuất, tích cực góp phần chi viện cho tiền tuyến đánh mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1961 - 1975) 1. Chi bộ Đảng xã Lũng Táo được thành lập, lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) Tháng 9/1960, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, phát triển kinh tế quốc dân (1961 - 1965). Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất là “Chuyển sang lấy xây dựng CNXH là trọng tâm, thực hiện một bước công nghiệp hóa XHCN, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH, đồng thời hoàn thành cải tạo XHCN làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế XHCN”. Ở Đồng Văn, sau chiến dịch tiễu Phỉ, chính quyền cách mạng ở cơ sở tiếp tục được củng cố một bước. Tuy nhiên do dân số đông, địa bàn rộng, trình độ, khả năng quản lý của cán bộ hạn chế, trong khi đó có xã có từ 6 nghìn đến 8 nghìn dân9, sau chiến dịch tiễu Phỉ vẫn còn có nhiều diễn biến phức tạp, trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng nhân dân các dân tộc còn thấp, đường xá đi lại từ xã đến thôn có nơi phải mất một ngày đường, hầu hết cán bộ đầu ngành của xã chưa biết chữ. Trước thực tế trên, ngày 18/9/1960, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Văn xây dựng Phương án chia xã trình Tỉnh và Chính phủ. Ngày 5/7/1961, Hô ̣i đồ ng Chinh phủ ra quyế t đinh số ́ ̣ 9 Xã Sà Phìn trước khi chia tách có 1.500 hộ/ 8.304 khẩu, gồm 3 dân tộc: Mèo, Lô Lô, Cờ Lao. 12
  13. 91-CP chia 13 xã thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, khu tự trị Việt Bắc thành những xã mới, xã Sà Phìn được chia tách thành 6 xã mới là: Sà Phìn, Lũng Táo, Thài Phì Tũng (nay là Thài Phìn Tủng), Sính Lũng (nay là Sính Lủng), Tả Phìn, Tả Lùng (nay là Tả Lủng). Sau khi chia tách, xã Lũng Táo gồm có thôn Lũng-Táo cũ và thôn Mà-Sô (nay là Mã Sồ) với 16 xóm, gồm 199 hộ/1.131 nhân khẩu, có 2 dân tộc Mèo và Lô Lô sinh sống10. Được sự nhất trí của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện Đồng Văn quyết định chỉ định đồng chí Mua Pà Tỏa làm Chủ tịch lâm thời Ủy ban hành chính xã (đồng chí Mua Pà Tỏa là Chủ tịch Ủy ban hành chính đầu tiên của xã Lũng Táo). Đồng thời thành lập và củng cố MTTQ và các tổ chức đoàn thể nhằm đáp ứng nhiệm vụ cách mạng của một xã mới thành lập. Đồng chí Vừ Nhìa Pó - Phó Chủ tịch Trưởng Công an xã, đồng chí Thào Chứ Sùng – Phó Chủ tịch xã Đội trưởng, đồng chí Vàng Thị Vừ - Chủ tịch Phụ nữ, đồng chí Vàng Chìa Sò - Chủ tịch MTTQ, đồng chí Vừ Nhìa Pó – Phó Chủ tịch Trưởng công an xã. Cuối năm 1961, Ủy ban hành chính xã Lũng Táo chính thức bước vào hoạt động, trụ sở làm việc đầu tiên tại vị trí nhà lưu trú giáo viên trường Tiểu học hiện nay, thuộc thôn Mo Só Tủng. Ngôi nhà được chuyển từ thôn Nhù Sang là nhà của cơ quan Hải quan của huyện (trước khi chia tách xã, tại Nhù Sang có trạm Hải quan của huyện). Bước sang đầu năm 1962, Huyện ủy Đồng Văn ra quyết định thành lập chi bộ xã Lũng Táo với 3 đảng viên11, đồng thời chỉ định đồng chí Vừ Mó Sá - cán bộ cải cách của huyện là người ở thôn Nhù Sang làm bí thư chi bộ. Ngay sau khi thành lập, chi bộ đã tập trung lãnh đạo cuộc vận động cải cách dân chủ ở xã, phòng chống gián điệp, biệt kích và tuy bắt bọn phản động, phỉ địa phương… Sau hơn một năm thành lập, đến hết năm 1963 chi bộ đảng xã đã kết nạp được 9 đảng viên. Từ ngày 22 đến 26/8/1962, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ II được tổ chức. Đại hội đã xác định nhiệm vụ tro ̣ng tâm của huyê ̣n là : Tập trung phát triển nông nghiệp như lúa, ngô, chăn nuôi; phát triển lâm nghiệp, các cây dược liệu; phát triển mạng lưới giao thông, thương nghiệp, tài chính và sự nghiệp văn hoá, giáo dục. Nhiệm vụ cụ thể trước mắt của Đảng bộ huyện là tiếp tục hoàn thành cải cách dân chủ kết hợp với tổ chức lại sản xuất. Tăng cường mở rộng phong trào tổ đổi công , từng bước đưa lên bình công chấm điểm, làm cơ sở cho thành lập Hợp tác xã nông nghiệp sau này. Để tiến tới Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ IV, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất, từ ngày 4 đến ngày 7/5/1963, Đảng bộ huyện Đồng Văn tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ III, báo cáo chính trị trình Đại hội đã khẳng định: tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa nhiệm vụ xây dựng hợp tác xã, tiến tới hoàn thiện quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định: Nhiệm vụ trọng tâm 10 Theo báo cáo số 93, ngày 18/9/1960 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Văn về phương án chia xã của huyện Đồng Văn. 11 trong đó đồng chí Vừ Mó Sá là cán bộ cải cách dân chủ của huyện, đồng chí Mua Pà Tỏa; Vàng Thị Vừ là đảng viên tại chỗ. 13
  14. vẫn là mặt trận kinh tế, trong đó nông nghiệp vẫn là mặt trận hàng đầu. Đồng thời tích cực mạnh dạn đầu tư vào phát triển các ngành, nghề kinh tế phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa - xã hội, góp phần nâng cao dân trí, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, được sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Văn, Chi bộ và Ủy ban hành chính xã Lũng Táo đã tâ ̣p trung lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới, củng cố và xây dựng tổ đổi công chuẩn bị tiến tới thành lập Hợp tác xã nông nghiệp, phát triển văn hóa - xã hội, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tập trung thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ Nhất, xây dựng CNXH và chi viện cho cách mạng miền Nam, đấu tranh thống nhất đất nước. Trong xây dựng Đảng, chi bộ đã tích cực hưởng ứng cuộc vận động chỉnh đốn Đảng của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương với phương châm “Chỉnh huấn tốt, công tác tốt, sản xuất tốt”, từng bước nâng cao nhận thức, giác ngộ cách mạng cho đảng viên, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng CNXH, chi viện cho cách mạng miền Nam đánh Mỹ, thống nhất Tổ quốc. Thực hiện chỉ đa ̣o của Ban Thường vụ Huyê ̣n ủy , Ủy ban hành chính xã Lũng Táo đã cử đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính và Ủy viên thư ký tham gia tập huấn 7 ngày tại huyện ở Phố Bảng về thực hiện cải cách dân chủ , sau đó phố i hơ ̣p với tổ công tác của huyện tổ chức hội nghị HĐND , hô ̣i nghi ̣của các đoàn thể ở xã để truyên truyề n tới người dân . Bước đầ u triể n khai thực hiê ̣n cải cách dân chủ gă ̣p rấ t nhiề u khó khăn , như ngôn ngữ bấ t đồ ng , tư tưởng quầ n chúng còn hoang mang , lo sơ,̣ khi tổ cán bô ̣ đế n vâ ̣n đô ̣ng có xóm nhân dân đã bỏ cha ̣y lên nương , hoă ̣c cán bộ cố t cán đế n ở nhưng người dân ngăn cản không cho ở… Khi tổ chức gă ̣p gỡ đươ ̣c người dân thì người dân lo lắ ng, nhấ t là đổ i công lên hơ ̣p tác xã , có người dân đã phát biểu “đi học để sản xuấ t thì tôi đi, chư đi học lên hợp tác xã đổ i công thì có thái tưng miế ng thi ̣t tôi ra cũng không ́ ̀ đi”. Bên ca ̣nh đó , bọn phản động ra sức tuyên truyền nói xấu lên hợp tác xã , kích động dân chúng, gây chia rẽ giữa các dân tộc, chúng còn trắng trợn công khai chống đối lại sản xuất và đe dọa dân chúng làm cho dân chúng lo sợ. Một số đối tượng phản cách mạng và bóc lột tỏ ra hoang mang, có tên giết gà, thắp hương cúng xung quanh nhà khẩn cầu cho qua khỏi thời gian cải cách dân chủ này, chúng tuyên truyền xảy ra chiến tranh làm cho nhân dân hoang mang, đặc biệt đã xảy ra một vụ bức tử cốt cán tại Lũng Táo. Nhữ ng gia đinh bóc lô ̣t thì nghi ̃ rằ ng : “cán bộ cải cách dân chủ sẽ l ấy hết ruộng ̀ đấ t, trâu bò…, nhân dân lao động sợ sản xuấ t nhiề u sẽ đóng thuế nhiề u , phải bán cho Nhà nước ”. Nhiề u người dân bỏ không làm ruô ̣ng , nương dẫn đế n na ̣n nói bắ t đầ u hoành hành, tình hình thiế u giố ng sản xuất, thiếu trâu bò, nông cu ̣ khá phổ biế n. Sang đợt công tác bước 2, tổ công tác của huyện tại xã Lũng Táo đã nhận thức rõ hơn những khó khăn tại cơ sở, đặc biệt xã đã rút kinh nghiệm sâu sắc sau vụ bạo loạn giết người năm 1959. Vì vậy tổ công tác đã tổ chức họp dân để tuyên truyền, vận động, thực hiê ̣n 3 cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm), đồ ng cam cô ̣ng kh ổ với người dân . Các hộ Địa chủ, Phú nông đã tự nguyện hiến đất, lương thực, trâu bò cho hợp tác xã, điển 14
  15. hình như địa chủ Vừ Dũng Páo nói: “nhờ có đảng về nhanh nên tôi không lên địa chủ, không có đảng thì ngày nay tôi đã lên địa chủ, tôi có tội với nông dân”. Đến khi thực hiện chia ruộng đất đã thể hiện được sự đoàn kết nội bộ trong nông thôn, người dân đã có sự tương trợ nhường nhịn lẫn nhau, vì vậy khi chia đất có 6 xóm ở Lũng Táo nhường cho 2 xóm Hồng Ngài và Mã Sồ ít đất hơn. Bà Vừ Thị Thia được chia 5 cân giống, bà đã nói: “hôm nay ngày 30 là ngày Đảng cứu sống gia đình tôi, hàng năm cứ đến ngày 30 là tôi nhớ đến công ơn của Đảng, cũng như nhân dân. Tôi xin hứa tích cực sản xuất, bảo vệ gia súc đáp lại công ơn Đảng”. Ngoài số hộ được chia ruộng đất ra, có những hộ không được chia ruộng đất nhưng cũng vui vẻ phát biểu, như anh Giàng Sè Páo, Mua Mí Sùng nói: “tuy chúng tôi không được chia, nhưng cũng được hưởng quyền tự do. Chúng tôi đã đoàn kết đánh đổ giai cấp bóc lột, ruộng đất về tay nông dân lao động, chúng tôi khỏi bị cảnh nghèo đói như trước, sẽ không còn chỗ để người bóc lột nữa. Chúng tôi hứa cùng nhau đoàn kết hơn nữa, đề cao cảnh giác, đề phòng địa chủ ngóc đầu dậy, giúp nhau sản xuất, học tập, làm cho đời sống được đủ cơm no, áo ấm, đồng thời cải tạo những phần tử bóc lột, phản động để trở thành con người mới, làm cho nông thôn yên ổn làm ăn, chấp hành mọi chính sách của Đảng, Chính phủ đề ra”12. Sau khi đánh đổ giai cấp bóc lột, ruộng đất của địa chủ về tay nông dân lao động, quần chúng rất phấn khởi, thực sự tin tưởng vào Đảng, Chính phủ, vì vậy các mặt công tác ở Lũng Táo có nhiều tiến bộ hơn. Tuy vậy, cũng còn một số sai lầm đó là việc nắm số liệu bóc lột của địa chủ, phú nông chưa được cụ thể, phải làm đi làm lại nhiều lần, điển hình như phú nông Lình không có 5 cân phát canh, nên khi vạch thành phần hộ không nhận. Sau cải cách đã phải loại một đồng chí Phó công an ra khỏi tổ chức. Trong lĩnh vực sản xuấ t nông nghiê ̣p : chi bộ lãnh đạo triển khai gieo trồng và chăm sóc các loại cây trồng đảm bảo theo kế hoạch huyện giao, như bắp, lúa, rau đậu các loại… Năm 1961, triển khai gieo trồng 181 kg giống bắp, lúa 24 kg, khoai lang 1.180 kg; năm 1962 triển khai gieo trồng 211 kg giống bắp, lúa 64 kg, khoai lang 2.400 kg, triển khai trồng 7 kg giống mì để tăng nguồn thu cho nhân dân. Phong trào xây dựng tổ đổi công được triển khai tích cực13, đến cuối năm 1963 xã thành lập được 5 tổ đổi công , đồ ng thời có lực lươ ̣ng thanh niên tiế n bô ̣ của xã làm nòng cốt phong trào nên phong trào tổ đổi công , bình công chấm điểm được thực hiện tương đối tốt. Phong trào tương trợ, giúp đỡ các gia đình khó khăn, neo đơn ngày càng được chú trọng, đã có nhiề u hô ̣ gia đinh chia sẻ lương thực cho các hô ̣ lúc khó khăn. Để ̀ tăng năng xuấ t cây trồ ng , xã đã thí điểm bón phân đạm cho bắp , năm 1962 là năm đầu tiên thí điểm bón phân đạm cho bắp với diện tích triển khai thí điểm là 3,5 kg giống bắp, phân đạm bón 21 kg, đồ ng thời tich cực vâ ̣n đô ̣ng nhân dân ủ phân xanh , phân ́ chuồ ng, bình quân một ống giống bón được 17 - 20 điu phân. Bên cạnh đó, chi bộ đã ̣ tập trung lãnh đạo công tác vận động quần chúng đi khai hoang ruộng nương tại xã Má 12 Trích báo cáo tổng kết công tác hợp tác hóa, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ trong 35 xã khu Bắc huyện Đồng Văn năm 1962 – Tài liệu lưu trữ tại kho lưu trữ Huyện ủy Đồng Văn. 13 Đến hết năm 1962, trong 35 xã khu Bắc huyện Đồng Văn mới thành lập được 1 hợp tác xã Đồng Tâm ở xã Đồng Văn – theo báo cáo số 308/BC ngày 13/01/1963 của Huyện ủy Đồng Văn về Tổng kết tình hình mọi mặt năm 1962. 15
  16. Lé được thêm nhiều diện tích, tăng thêm lương thực, nhờ đó trong nhiều năm xã không phải đề nghị Nhà nước hỗ trợ cứu đói lương thực. Tuy nhiên, do công tác quản lý không tố t , cán bộ xã không thật sự gương mẫu nên không thu đươ ̣c thuế , không bán đươ ̣c thóc , bắ p cho Nhà nước, trong khi đó mô ̣t số hô ̣ dân bán sang bên kia biên giới, nhưng lanh đa ̣o Ủy ban hành chính xã không có biê ̣n ̃ pháp giải quyết kịp thời . Trước tình hình đó , huyê ̣n đã c hỉ đạo tổ công tác của huyện trực tiế p về xã làm viê ̣c và chấ n chỉnh ổ n đinh tình hình. ̣ Trong giai đoạn này, chi bộ đảng đã thực hiện nghiêm túc chủ trương vận động nhân dân giảm diện tích trồng thuốc phiện. Để việc triển khai đạt được kết quả, chi bộ đã chỉ đạo từ chi bộ, đến chính quyền xã, các tổ chức như mặt trận, thanh niên và phụ nữ được học tập kỹ chủ trương của Đảng, Nhà nước, tự nguyện giảm diện tích và tích cực tìm các thứ hoa màu khác để thay thế, đi sát với mọi tầng lớp nhân dân, có hướng vận động hẳn hoi, kiên quyết với những gia đình ngoan cố, lạc hậu, không chấp hành… Về chăn nuôi đã được chú trọng phát triển, tính trung bình mỗi hô ̣ nuôi đươ ̣c 1,5 con bò cơ bản đáp ứng đủ sức cày kéo và cung cấp được lượng phân bón cho cây trồng; đàn lợn bình quân mỗi hộ có 1,7 con. Tuy nhiên, nhiều hộ làm đám ma, đám cưới xin giết mổ một con nhưng đã giết mổ đến 4-5 con, nên tổng đàn gia súc không tăng so với kế hoạch giao. Tiểu thủ công nghiê ̣p : xã đã vận động xây dựng được 3 lò ngói phục vụ nhu cầu của nhân dân trên địa bàn xã , kết quả đó đã góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận nhân dân. Đặc biệt, xã Lũng Táo đã triển khai xây dựng quỹ tín dụng, là 1 trong 7 xã của huyện Đồng Văn tổ chức được quỹ tín dụng trong thời điểm này, với số tiền quỹ 987 đồng/30 hộ tham gia. Công tác giáo dục ở địa bàn xã Lũng Táo được quan tâm đúng mức, ngoài việc duy trì lớp vỡ lòng, lớp 1, lớp 2, phong trào bình dân học vụ được triển khai tương đối hiệu quả, tiếp tục duy trì lớp học từ những năm 1959 đến giai đoạn này; việc triển khai các lớp bình dân học vụ có sự giúp đỡ tích cực của tổ cải cách dân chủ, vì vậy phong trào giáo dục của Lũng Táo trong giai đoạn này được huyện đánh giá là xã có phong trào khá. Về văn hóa - văn nghệ, xã đã thành lập được đội văn nghệ biểu diễn thường xuyên. Đặc biệt, tổ chức biểu diễn tại các cuộc mít tinh triển khai cải cách dân chủ, chia ruộng đất thu hút đông đảo nhân dân đến xem và cổ vũ, trong các cuộc mít tinh này, xã đã vận động được các hộ địa chủ, phú nông phát biểu tại buổi mít tinh, qua đó công tác tuyên truyền có kết quả hơn, tạo ra khí thế thi đua, phong trào sản xuất phát triển. Công tác y tế đươ ̣c triể n khai tuy nhiên xã chưa xây dựng được trạm y tế, nơi làm việc của cán bộ y tế phải làm cùng với nơi làm việc chung của xã. Mặc dù vậy, cán bộ trạm xá xã đã cùng với y tế của huyện triển khai phun thuốc khử trùng, tiêu độc tới 100% nhà ở các hộ dân, chuồng trại, nhà vệ sinh. Quá trình phun thuốc cán bộ y tế đã tổ chức tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, nên nhân dân đã có ý thức tin tưởng vào khoa học, biết dùng thuốc. Bên cạnh đó các ngành, đoàn thể xã tích cực vận động nhân dân 16
  17. ăn ở hợp vệ sinh, thực hiện vệ sinh cá nhân… Tuy nhiên, phong trào được triển khai rộng rãi nhưng chưa thực sự hiê ̣u quả, phong trào làm hố xí , hố ủ phân triể n khai không quyế t liê ̣t nên viê ̣c ăn ở của người dân không đảm bảo vê ̣ sinh , mô ̣t số người dân bi ̣mắ c bê ̣nh như tiêu chảy, kiế t ly.̣ Phong trào quần chúng bảo vệ trị an được chi bộ quan tâm, xã đã thành lập được Ban bảo vệ trị an gồm 9 thành viên, do 1 Ủy viên Ủy ban làm Trưởng ban, Trưởng công an làm Phó ban, các thành viên gồm: Quân sự, Bí thư đoàn Thanh niên, Chủ tịch Phụ nữ... Đồng thời chỉ đạo thành lập tổ bảo vệ trị an ở các thôn, thành phần gồm Tổ trưởng tổ sản xuất hoặc Trưởng thôn và Công an, Dân quân tại tổ sản xuất, thôn. Sau khi thành lập được Ban bảo vệ trị an ở xã và Tổ bảo vệ trị an ở tổ sản xuất, thôn bản, chi bộ xã đã chỉ đạo xây dựng quy ước, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên, lịch sinh hoạt định kỳ vì vậy hoạt động của Ban và Tổ đã đi vào nề nếp, ý thức cảnh giác và tinh thần hăng hái của anh em rất rõ. Bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn có những mặt tiêu cực rất nguy hiểm, đó là còn có cán bộ, đảng viên trong chi bộ đã buông lỏng cảnh giác, một số phẩn tử xấu có liên quan đến vụ nổi Phỉ năm 1959 cùng tầng lớp trên ở trong xã và một số xã bạn chưa chịu cải tạo, thường xuyên liên hệ với nhau, tung ra luận điệu phản tuyên truyền, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, như chính sách hợp tác hóa, chính sách tuyển quân, một số bí mật tái trồng cây thuốc phiện, tiến hành buôn lậu, vượt biên trái phép, đe dọa dẫn đến bức tử một cán bộ cốt cán, khống chế và lôi cuốn quần chúng lạc hậu làm việc phi pháp… Từ năm 1963, 1964 trở đi, phong trào bảo vệ trị an được phát động rộng rãi trong quần chúng; gắn liền với nhiệm vụ phòng chống gián điệp, biệt kích, sẵn sàng đối phó với chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, công tác huấn luyện cho dân quân được quan tâm xã đã tổ chức luyện tập báo động cả trong nhân dân, đánh giá chất lượng dân quân giai đoạn này đạt khá. Tháng 8 năm 1964, Đảng bộ huyện Đồng Văn tiến hành Đại hội lần thứ IV. Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm vụ chủ yếu của Đảng bộ trong giai đoạn này là: tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội và an ninh - quốc phòng để Đồng Văn cùng với các địa phương trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chi bộ Đảng xã Lũng Táo đã quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, chỉ đạo các thôn, bản xây dựng và hoàn thiện Hợp tác xã nông nghiệp, vì theo quan niệm của Đảng ta lúc đó, xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp là xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN, cho nên bằng bất kỳ giá nào cũng phải thực hiện bằng được mô hình Hợp tác xã, mô hình làm ăn tập thể ở nông thôn. Trong thực tế, xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp là một nội dung quan trọng của cuộc cải cách dân chủ, xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất ở nông thôn. Từ đây, phong trào xây dựng Hợp tác xã bắt đầu triển khai mạnh tại xã Lũng Táo, tuy nhiên bước đầu có nhiều khó khăn nhất định, do nhận thức của người dân, nhưng quan trọng nhất là trình độ, năng lực của cấp ủy, chính quyền xã, đặc biệt là Chủ nhiệm và kế toán hợp tác xã nên phong trào xây dựng hợp tác xã tại xã Lũng Táo chưa phát triển, chủ yếu hình thành tổ đổi công chiếm trên 70% số hộ, trong đó có một số tổ lên bình 17
  18. công chấm điểm. Cũng trong năm 1964, sau khi chi bộ xã Vần Chải xây dựng thành công chi bộ 4 tốt, chi bộ Lũng Táo đã đăng ký với Ban Thường vụ Huyện ủy xây dựng chi bộ 4 tốt và đạt kết quả, được huyện biểu dương. Cuối năm 1964, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam bị phá sản, chúng chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam, phát động chiến tranh phá hoại miền Bắc. Ngày 5/8/1964 đế quốc Mỹ cho máy bay, tàu chiến đánh phá miền Bắc nhằm phá hoại công cuộc xây dựng CNXH và ngăn chặn miền Bắc chi viện cho miền Nam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9, khóa III (5/1965) đã quyết định chuyển hướng hoạt động kinh tế - xã hội của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến. Nhiệm vụ của miền Bắc lúc này là vừa xây dựng CNXH, vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và chi viện cho cách mạng miền Nam. Trải qua thời kỳ cải tạo và xây dựng CNXH, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, nhân dân các dân tộc xã Lũng Táo đã giành được những thắng lợi to lớn trên nhiều mặt. Kinh tế - xã hội phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể, quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc. Trong công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH, nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng ta, chính quyền phong kiến đã dần thay thế bằng chính quyền cách mạng. Chế độ tự do dân chủ đã động viên đồng bào các dân tộc hướng đi và hành động theo cách mạng. Các tổ chức chính trị, phản động cách mạng lần lượt bị cách mạng xử lý. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ đảng, mỗi đảng viên trong chi bộ nêu cao tinh thần tiền phong gương mẫu trước quần chúng, thể hiện trên các mặt như: tích cực bài trừ mê tín dị đoan, không đi làm thầy cúng, không còn rượu chè bê tha, tham gia sinh hoạt và đóng đảng phí đầy đủ. 2. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, nhân dân xã Lũng Táo tích cực sản xuất, phát triển kinh tế, góp phần chi viện cho tiền tuyến đánh Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1965 - 1975) Bước sang năm 1965, máy bay Mỹ liên tục do thám bầu trời Hà Giang, thả tuyền đơn tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng. Ngày 10/8/1965, máy bay Mỹ bắn phá cầu Vĩnh Tuy làm một số thường dân chết và bị thương, quân dân Hà Giang trực tiếp đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Từ khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc và Hà Giang, bọn phản động bắt đầu ngóc đầu dậy chống tại chính quyền, chúng vừa công khai, vừa ngấm ngầm tuyên tuyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng do đường lối sáng suốt và đúng đắn của Trung ương Đảng và của Hồ Chủ tịch, toàn đảng, toàn dân ta triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và bọn tay sai bán nước. Những chiến thắng dồn dập của quân ta trên cả 2 miền Nam, Bắc đã làm cho đế quốc Mỹ và tay sai liên tiếp thất bại nhục nhã. Tại địa bàn Lũng Táo bọn phản động cũ từ năm 1959 chưa chịu cải tạo cùng với bọn địa chủ, phú nông định ngóc đầu dậy còn lợi dụng những khó khăn của nhân dân và Nhà nước ta để phản tuyên truyền, nói xấu chế độ gây hoang mang trong nhân dân và 18
  19. phá hoại phong trào hợp tác xã của nông dân, chúng còn xuyên tạc chính sách nghĩa vụ quân sự, phong trào thanh niên 3 sẵn sàng, phụ nữ 3 đảm đang… Trước tình hình đó, Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy ngày 22/10/1965 đã nhận định: Đồng Văn là vùng còn nhiều cơ sở xã hội do bọn phản động hoạt động. Tại các xã Phố Là, Sủng Cháng, Lũng Cú, Má Lé… còn nhiều tên đặc vụ hoạt động, nhiều tên không chịu cải tạo sau vụ bạo loạn năm 1959, là nơi có một số tên quan lại, thổ ty chạy theo Pháp năm 1954. Như vậy Đồng Văn là vùng quan trọng, có điều kiện thuận lợi để đế quốc Mỹ thả biệt kích, gián điệp xuống móc nối với bọn phản động ở địa phương chống lại cách mạng. Xuất phát từ nhận định trên, huyện Đồng Văn đã chọn xã Lũng Cú và Má Lé làm thí điểm cải tạo các phần tử tại chỗ. Sau khi đánh giá rút kinh nghiệm, UBND huyện đã chỉ đạo xã Lũng Táo đã tập trung lực lượng điều tra, xác minh, tích cực phát động quần chúng nhân dân vận động, tố giác bọn phản động, tham gia giữ gìn trật tự an ninh thôn bản, luôn cảnh giác không mắc mưu kẻ xấu, các lực lượng thường xuyên tổ chức kiểm tra hộ tịch, hộ khẩu, ngăn chặn tình trạng vượt biên trái phép, tuần tra biên giới, giải quyết tốt các trường hợp xâm canh, xâm cư, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia Cuối tháng 5/1967, chi bộ xã Lũng Táo tổ chức Đại hội, đồng chí Vừ Mó Sá tiếp tục được Đại hội bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Chi bộ xác định: chuyển hướng xây dựng kinh tế sang điều kiện có chiến tranh, tăng cường khả năng quốc phòng - an ninh bảo vệ hậu phương, chi viện sức người, sức của cho tiề n tuyến đánh Mỹ; tăng cường xây dựng củng cố phong trào hợp tác xã, ổn định đời sống nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, sẵn sàng chiến đấu đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch. Phong trào xây dựng Hợp tác xã ở xã Lũng Táo giai đoạn này bắt đầu được tập trung chỉ đạo, triển khai, đến cuối năm 1965 xã xây dựng được 2 hợp tác xã14 và một số tổ đổi công, trong đó có 5 tổ lên bình công chấm điểm. Việc xây dựng Hợp tác xã là hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của đại đa số nông dân, vì nó xóa bỏ được chế độ bóc lột ở nông thôn; người dân được giải phóng, trở thành người chủ ruộng đất, làm chủ xã hội; do đó chủ trương xây dựng Hợp tác xã của Đảng được nông dân nhiệt tình hưởng ứng, tự nguyện đem ruộng đất, trâu, bò vào làm ăn tập thể trong Hợp tác xã. Đây là một cố gắng rất lớn có ý nghĩa lịch sử và là thắng lợi quan trọng của Chi bộ Lũng Táo đạt được, bởi vì Lũng Táo là địa bàn xa xôi, hẻo lánh, trình độ dân trí thấp, tư tưởng của hầu hết quần chúng đều sợ lên hợp tác xã, khả năng lãnh đạo, quản lý của hợp tác xã còn kém, nhất là khâu cán bộ quản trị và kế toán. Bên cạnh đó, những phần tử phản động, đầu sỏ liên quan đến vụ bạo loạn năm 1959 luôn tung ra luận điệu tuyên truyền chống lên hợp tác xã. Nhưng chi bộ Lũng Táo đã làm được nguyện vọng của quần chúng, chi bộ đã có những chủ trương rất mạnh dạn, vận dụng linh hoạt những 14 Toàn huyện Đồng Văn đến cuối năm 1965 có 32 hợp tác xã, bao gồm 25 hợp tác xã mới và 7 hợp tác xã cũ, với 887 hộ tham gia, chiếm 17% số hộ nông dân trong toàn huyện, so với kế hoạch Tỉnh giao vượt 170% - theo báo cáo của Ủy ban Hành chính huyện Đồng Văn tại kỳ họp thứ 3 HĐND huyện khóa III, năm 1965. 19
  20. nguyên tắc cơ bản về xây dựng hợp tác xã, áp dụng vào thực tiễn địa bàn Lũng Táo, vì vậy phong trào hợp tác xã từ đây bắt đầu phát triển mạnh. Hưởng ứng cuộc vận động “Cải tiến quản lý Hơ ̣p tác xã , cải tiến kỹ thuật, phát triển nông nghiệp mạnh mẽ và vững chắc” và cuộc vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” do Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Tỉnh ủy đề ra, Chi bộ Đảng đã tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân đường lối chủ trương, quan điểm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy, nhằm làm cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức được đường lối phát triển kinh tế của Đảng, điều kiện thuận lợi, khó khăn của địa phương. Từ đó tăng cường đoàn kết, nâng cao ý chí chiến đấu và niềm tin tưởng ở thắng lợi của sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền Nam. Thông qua đó, Chi bộ Đảng xã đã chỉ đạo gắn việc xây dựng Hợp tác xã với phong trào thi đua sản xuất nhằm ổn định đời sống nhân dân và hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước. Trong thời gian này, Hợp tác xã nông nghiệp từng bước được củng cố, hoàn thiện, là nhân tố chủ đạo thúc đẩy nền kinh tế tập thể phát triển, toàn xã có trên 90% số hô ̣ nông dân lao đô ̣ng đi v ào làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa . Chi bộ luôn luôn chăm lo cho đời sống nhân dân, được quần chúng tin tưởng, nể phục nên tự giác chấp hành, tạo thành phong trào quần chúng lao động sản xuất rộng khắp, năng xuất cây trồng tăng. Đến năm 1967, xã Lũng Táo đã hoàn toàn tự túc được lương thực, xóa được nạn đói giáp hạt, đây là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn mà dưới sự lãnh đa ̣o của Đảng bô ̣ huyê ̣n và sự lãnh đạo của chi bô ̣ đảng xã Lũng Táo đã đa ̣t đươ ̣c . Cũng nhờ đó mà trật tự trị an xã hội được ổn định, các phong tục tập quán lạc hậu được giảm đến mức thấp nhất, trường phổ thông Lũng Táo trở thành trường tiên tiến của huyện trong giai đoạn này. Trong phát triển kinh tế, Chi bộ đã tập trung lãnh chỉ đạo việc hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp, phát triển nông nghiệp toàn diện, chú trọng phát triển cây hoa màu, chăn nuôi, cây công nghiệp và lâm nghiệp. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Chi bộ đảng, sản xuất trên địa bàn xã được đẩy mạnh, năng suất ngô bình quân đa ̣t 11 đến 12,5 tạ/ha, lúa ruộng đạt 18,5 tạ/ha. Đặc biệt giai đoạn này, chi bộ đã tập trung chỉ đạo nhân dân trồng xen canh các loại cây rau đậu với bắp, có năm triển khai trồng xen canh khoai lang với bắp cho năng xuất cao, vì vậy đời sống của xã viên các tổ đổi công và Hợp tác xã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, người dân chưa tận dụng được phân xanh, việc bón phân đạm cho bắp chưa trở thành phong trào rộng rãi nhằm tăng năng xuất cây trồng. Bắt đầu từ năm 1965, xã triển khai trồng su hào lấy giống, ngay trong năm đầu tiên triển khai gieo trồng đã thu hoạch được 1.000 kg, năm 1966 đạt 2.000 kg vượt chỉ tiêu huyện giao. Từ năm 1966 trở đi, mỗi năm xã triển khai trồng và cho thu hoạch được từ 1.900 kg đến 2.500 kg hạt giống, kết quả đó đã góp phần cho bà con nông dân nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Dưới sự chỉ đa ̣o của Ban Chấ p hành Đảng bô ̣ huyê ̣n , Chi bộ đã lãnh đạo triể n khai phong trào 3 chuồ ng: mỗi hơ ̣p tác xã có 1 nhà kho chứa phân , đô ̣i sản xuấ t có 1 kho phân, mỗi hô ̣ xã viên mỗi gia đinh nông dân có 1 chuồ ng phân có mái che đảm bảo ̀ 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD


ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2