intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Quảng Nguyên (1962-2015)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:145

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Quảng Nguyên (1962-2015) nhằm ghi lại những đóng góp to lớn của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược cũng như trong hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để động viên, cổ vũ nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, củng cố và xây dựng tình yêu quê hương, đất nước, tích cực tham gia thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Quảng Nguyên (1962-2015)

  1. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ QUẢNG NGUYÊN TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ QUẢNG NGUYÊN (1962 - 2015) Xuất bản năm 2017
  2. LỜI GIỚI THIỆU Thực hiện Chỉ thị 15-CT/TW ngày 28/8/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “về tăng cường và nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Nguyên quyết định tổ chức biên soạn cuốn sách“Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Quảng Nguyên 1962 - 2015”, nhằm ghi lại những đóng góp to lớn của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược cũng như trong hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để động viên, cổ vũ nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, củng cố và xây dựng tình yêu quê hương, đất nước, tích cực tham gia thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Quảng Nguyên vô cùng anh dũng và phong phú. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong xã đã làm nên những kỳ tích lịch sử trong cuộc cách mạng chung của huyện, của tỉnh và của cả nước. Ngay sau khi được thành lập, vào năm 1962, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Quảng Nguyên đã trải qua những năm dài gian lao, vất vả đấu tranh với thiên nhiên, giặc ngoại xâm để bảo vệ và xây dựng cuộc sống. Đặc biệt là khi cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã trải qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, bền bỉ, vô cùng gian khổ nhưng cũng rất oanh liệt, vẻ vang, Đảng bộ và nhân dân xã Quảng Nguyên đã có nhiều đóng góp vào cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những chiến công, những sự kiện qua hàng ngàn ngày kháng chiến, xây dựng vẫn ghi đậm, khắc sâu trong tâm trí của các thế hệ mỗi người con quê hương. Đảng ủy xã Quảng Nguyên chân thành cảm ơn các đồng chí nguyên là lãnh đạo xã qua các thời kỳ lịch sử, Ban Tuyên giáo Huyện ủy, phòng lý luận Chính trị và Lịch sử Đảng Ban 2
  3. Tuyên giáo Tỉnh ủy, các tổ chức, cá nhân và nhân dân các dân tộc trong xã đã nhiệt tình, giúp đỡ tư liệu, đóng góp nhiều ý kiến bổ ích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất bản cuốn sách. Mặc dù, tiểu ban nghiên cứu, biên soạn, tổ biên tập đã có nhiều cố gắng, song do thời gian có hạn, việc sưu tầm tài liệu gặp khó khăn nên cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong các đồng chí và bạn đọc góp ý kiến bổ sung để lần xuất bản sau, nội dung cuốn sách được hoàn chỉnh hơn. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Quảng Nguyên xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc./. Tháng….năm 2017 TM. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ QUẢNG NGUYÊN BÍ THƯ Đặng Đức Thành 3
  4. Chương I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI CỦA XÃ QUẢNG NGUYÊN 1. Điều kiện tự nhiên Xã Quảng Nguyên là một xã vùng sâu vùng xa, cách trung tâm huyện Xín Mần 41 km về phía Nam của huyện. Phía Bắc giáp các xã Chế Là, Thu Tà huyện Xín Mần; phía Đông giáp các xã Hồ Thầu, Nậm Khòa huyện Hoàng Su Phì; phía Nam giáp các xã Khuôn Lùng huyện Xín Mần, xã Tân Nam, Tiên Nguyên huyện Quang Bình và phía Tây giáp các xã Nà Chì, Nấm Dẩn huyện Xín Mần. Với đặc thù là vùng thung lũng, xung quanh được bao bọc bởi các dãy núi cao Quảng Nguyên là mảnh đất được thiên nhiên ưu ái ban tặng nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, nhiều cảnh đẹp tự nhiên như: rừng nguyên sinh đèo gió tạo cho Quảng Nguyên có tiềm năng phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ. Với nguồn tài nguyên đất, rừng1 vô cùng phong phú, từ bao đời nay người dân xã Quảng Nguyên đã biết khai thác để phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Từ xa xưa, vùng đất Quảng Nguyên chủ yếu là rừng nguyên sinh với nhiều loại gỗ quý, như: đinh, sến, táu, dổi; các loại thảo dược quý và các loại động vật quý hiếm, như: hươu, nai, hổ, gấu, vượn rừng, khỉ, lợn rừng,v.v.. Song qua các giai đoạn phát triển của lịch sử, do sự khai thác quá mức của con người cùng với sự biến đổi bất thường của thời tiết, khí hậu đã làm ảnh hưởng tương đối lớn đến sự đa dạng về số lượng của hệ động thực vật tự nhiên nơi đây. Ngày nay, nhân dân các dân tộc xã Quảng Nguyên đang nỗ lực trồng cây, gây rừng, xử lý rác thải để tìm 1 Quảng Nguyên có tổng diện tích tự nhiên là 8.038,7 ha; trong đó diện tích đất nông nghiệp là 3.330,14 ha; đất lâm nghiệp là 4.523,82 ha. 4
  5. lại và phát huy lợi thế của tài nguyên rừng, vừa đảm bảo phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Khí hậu, thời tiết của xã Quảng Nguyên thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa Miền Bắc Việt Nam. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 220c - 340c, độ ẩm thích hợp cho sự phát triển của các loại thực vật. Trước đây, thời tiết, khí hậu ôn hòa rất thuậnlợi cho sản xuất và đời sống của nhân dân, tuy nhiên trong những năm gần đây do biến động bất thường của thời tiết, khí hậu giá rét về mùa đông, mưa lũ về mùa hè, đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất của nhân dân. Hệ thống sông suối của xã Quảng Nguyên tương đối đa dạng, nhiều lạch suối nhỏ chảy hợp thành con suối Nậm Lỳ. Đây là nguồn cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản của nhân dân trên địa bàn xã Quảng Nguyên. Đặc biệt có nguồn nước suối khoáng Nậm Choong thuận lợi cho việc phát triển kinh tế dịch vụ du lịch tắm suối khoáng. Ngoài ra, Quảng Nguyên là nơi có nguồn cát, sỏi làm vật liệu xây dựng; nguồn tre, nứa, vầu làm nguyên vật liệu giấy và sản xuất các mặt hàng thủ công có giá trị v.v.. cùng với đó là sự phát triển của các loại cây công nghiệp dài ngày, đặc biệt là với sản phẩm chè, thảo quả, nếp cái hoa vàng…của xã Quảng Nguyên , với trữ lượng thu hoạch hằng năm trên 200 tấn, hiện đang được củng cố và phát triển, sẽ hứa hẹn tiềm năng phát triển công nghiệp - xây dựng và tiểu thủ công nghiệp trong tương lai. Với lợi thế là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và là một trong ba xã phía Nam của huyện Xín Mần, trong những năm qua, hệ thống đường giao thông của Quảng Nguyên đã được quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ bản. Ngoài tuyến đường từ trung tâm xã qua đèo gió đến trung tâm huyện trên địa bàn xã còn có các tuyến đường liên xã với xã Nà Chì. Đó là điều kiện lợi thế để nhân dân xã Quảng Nguyên mở rộng, giao lưu, hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa với nhân dân các địa phương khác. Ngoài các tuyến đường kể trên, hệ 5
  6. thống giao thông liên thôn, bản cũng đang được đầu tư xây dựng và tu sửa hàng năm, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và đời sống của nhân dân. 2.Điều kiện xã hội Dưới thời pháp thuộc, Quảng Nguyên là một vùng thuộc xã Khuôn Lùng nằm trong tổng Yên Bình2 của Châu Bắc Quang thuộc tỉnh Hà Giang. Đến ngày 15/12/1962, thực hiện quyết định số 221-CP của Hội đồng Chính phủ, xã Quảng Nguyên được thành lập trên cơ sở chia tách xã Khuôn Lùng thành 4 xã mới, gồm: xã Khuôn Lùng, Nà Chì, Quảng Nguyên và Bản Rịa. Hiện nay, Quảng Nguyên có 15 thôn bản với 20 chi bộ đảng sinh hoạt trực thuộc Đảng bộ, với 265 đảng viên (tính đến ngày 25-5-2016), Đảng bộ xã có 17 đồng chí ủy viên Ban Chấp hành, 5 đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy. Các chi bộ trong Đảng bộ là nòng cốt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; quyết tâm, phấn đấu xây dựng, phát triển xã Quảng Nguyên ngày giàu đẹp, văn minh. Xã Quảng Nguyên có 8 dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn gồm dân tộc Kinh chiếm 0,86%, dân tộc Tày chiếm 10,4%, dân tộc Nùng chiếm 31,3%, dân tộc Dao chiếm 46,6%, dân tộc Mông chiếm 10%, dân tộc Hoa chiếm 0,2%, dân tộc La Chí chiếm 0,6%, dân tộc Ngạn chiếm 0,1%, tổng số hộ là: 1040 hộ = 5357 khẩu, trong đó: Nam = 2700 người, nữ = 2657 người. Từ bao đời nay, đồng bào các dân tộc trong xã luôn giữ vững truyền thống đoàn kết, gắn bó với những đức tính cần cù, chịu khó, dũng cảm đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tích cực khai phá, cải tạo đất đai, tạo ra những thửa ruộng, những nương rẫy tốt tươi, đã biến những gò sườn đồi thành những nương, ruộng, góp phần nâng cao đời sống. 2 Sau cách mạng Tháng Tám 1945 là Tiểu khu Yên Bình. 6
  7. Trong quá trình phát triển ấy, không chỉ tạo thêm những nét bản sắc văn hóa của các dân tộc trong xã mà còn khẳng định thêm, vững chắc hơn tinh thần đoàn kết, gắn bó, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng như trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, làng bản. Tinh thần này càng được thể hiện một cách mạnh mẽ hơn từ khi có Đảng dẫn đường, chỉ lối. Đặc biệt, kể từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Đảng luôn quan tâm xây dựng và củng cố tổ chức Đảng vững mạnh, gây dựng phong trào cách mạng ở các địa phương. Chi bộ Đảng và sau này là Đảng bộ xã Quảng Nguyên được thành lập đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc Quảng Nguyên đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, phát huy tinh thần đoàn kết cộng đồng của quần chúng, lấy ý chí cộng đồng chống lại bom, đạn của kẻ thù. Ngày nay, Đảng bộ xã Quảng Nguyên đang tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết nhân dân các dân tộc trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Người dân Quảng Nguyên luôn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình thể hiện vào những dịp lễ, tết, hội làng,v.v.. tục thờ cúng tổ tiên nhân ngày giỗ, tết để tưởng nhớ về công đức của tổ tiên và các vị tiền bối có công giữ làng, giữ nước, có công với cách mạng được duy trì và phát triển. Bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy, các lễ hộitruyền thống được diễn ra hàng năm, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc; các làn điệu dân ca, dân vũ của các dân tộc, như điệu múa bát của dân tộc Tày… vẫn được lưu truyền trong đời sống, sinh hoạt văn hóa của nhân dân. Với nền nông nghiệp lúa nước, từ bao đời nay người dân Quảng Nguyên luôn cần cù, chịu khó, sáng tạo trong lao động sản xuất nhằm xây dựng đời sống ngày càng ấm no. Cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, phương thức sản xuất 7
  8. truyền thống đã dần có sự thay đổi với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả, nhất là mô hình VACR,v.v.. đã đem lại nguồn lợi lớn làm thay đổi bộ mặt nông thôn Quảng Nguyên. Kể từ khi được thành lập, Đảng bộ xã Quảng Nguyên đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn trong từng giai đoạn cách mạng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng thế mạnh về đất đai để phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp. Với sự đầu tư của Nhà nước, sự phấn đấu, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn, bộ mặt Quảng Nguyên đã có nhiều đổi thay, Trung tâm xã được quy hoạch, xây dựng cơ sở vật chất, phát triển kinh tế - xã hội ; kinh tế phát triển theo hướng tích cực, trang thiết bị phục vụ sản xuất, thông tin liên lạc, phương tiện giao thông, hệ thống giáo dục và đào tạo, dịch vụ y tế,v.v.. được trang bị ngày càng hiện đại, đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân phát triển sản xuất, góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân. Đến nay, sau hơn hai mươi lăm năm đổi mới, bộ mặt trung tâm xã Quảng Nguyên đã mang một dáng vẻ mới, đời sống nhân dân được cải thiện về mọi mặt, nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân được đáp ứng. Trong những năm qua, kinh tế của xã Quảng Nguyên không ngừng phát triển, năm 2015, tổng sản phẩm lương thực địa phương đạt 2.887,2 tấn, vượt mục tiêu nghị quyết (nghị quyết đến năm 2015 là 2.580 tấn); bình quân thu nhập đầu người là 13,5 triệu đồng, tăng 4 triệu đồng/năm, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực: kinh tế nông - lâm nghiệp được chuyển đổi sang chuyên canh theo hướng hàng hóa, bước đầu có sự đầu tư, chú trọng phát triển thương mại và dịch vụ. Trong những năm tiếp theo, Quảng Nguyên vẫn khẳng định tiềm năng về sản xuất nông - lâm nghiệp chuyên canh 8
  9. theo hướng hàng hóa là thế mạnh của xã Quảng Nguyên, bên cạnh đó xã cũng ưu tiên thu hút đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp, như: công nghiệp thủy điện, khai khoáng, chế biến và vật liệu xây dựng. Đồng thời, không ngừng khai thác các tiềm năng về vị trí địa lý, tài nguyên sẵn có để phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ của địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế trên địa bàn, phấn đấu là xã động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện Xín Mần. Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng bộ xã Quảng Nguyên đang nỗ lực hết mình, thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, vận dụng sáng tạo quan điểm, đường lối của Đảng để đưa ra định hướng đúng đắn lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo của nhân dân để xây dựng mảnh đất Quảng Nguyên ngày càng giàu và đẹp. 3. Nhân dân các dân tộc xã Quảng Nguyên trước năm 1962 Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã chấm dứt hai phần ba thế kỷ bế tắc và khủng hoảng về đường lối cách mạng kể từ khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam đã có một Đảng chuyên chính lãnh đạo, Đảng đã vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, tạo nên các phong trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp trên phạm vi cả nước mà đỉnh cao là các phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh (1930- 1931), phong trào vận động dân chủ (1936-1939) và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi Tháng Tám năm 1945. Ở tỉnh Hà Giang, trong những năm 1932 đến 1939, đã có nhiều cán bộ của Đảng đến tuyên truyền, vận động, gây dựng cơ sở cách mạng, trong đó huyện Bắc Quang là một trong những địa phương của tỉnh có phong trào cách mạng phát triển 9
  10. sớm và sôi nổi nhất,v.v... Song, do đặc điểm của một vùng thuộc tỉnh miền núi, đất rộng người thưa, là vùng có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, giao thông liên lạc khó khăn, lại bị đặt dưới sự kiểm soát gắt gao của chánh tổng, lý trưởng - tay chân của thực dân Pháp, trong khi đó cán bộ Đảng là người địa phương hầu như chưa có, lực lượng đến gây dựng cách mạng còn mỏng, dễ bị bọn mật thám phát hiện, việc gây dựng phong trào cách mạng rất khó khăn, sau khi cán bộ cách mạng rút khỏi địa phương, quần chúng bị đàn áp nên phong trào cách mạng lại tạm lắng. Đến giai đoạn 1939-1945, phong trào cách mạng của cả tỉnh mới tiếp tục phát triển và được mở rộng ở các vùng phong trào còn yếu và các vùng dân tộc thiểu số. Thời kỳ này, Quảng Nguyên là một vùng rộng lớn thuộc địa giới hành chính của xã Khuôn Lùng - tiểu khu Yên Bình của huyện Bắc Quang, bị thực dân Pháp chiếm đóng từ rất sớm. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, đời sống của nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên vô cùng cực khổ, nhân dân phải chịu sưu cao, thuế nặng, các thứ thuế vô lý như thuế thân, thuế muối,v.v.. thanh niên bị bắt ép đi phu, đi lính phục vụ cho việc cai trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trước sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp, một số quần chúng có phản kháng nhưng với hình thức đơn giản, bột phát liền bị chúng đánh đập, bóc lột đã bỏ nhà đến địa phương khác hoặc trốn vào rừng ở. Đầu năm 1942, quân Nhật đến Hà Giang mở rộng chiếm đóng toàn tỉnh. Bước vào năm 1945, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến, quân đội Nhật liên tiếp bị thất bại trên các mặt trận Thái Bình Dương, Đông Bắc Á, Đông Nam Á, trong khi đó mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt ở Đông Dương. Đêm mùng 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng đã nhận định: Sau cuộc đảo chính này, phát xít Nhật sẽ là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và phát động cao trào kháng Nhật trong phạm vi cả nước làm tiền đề chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi 10
  11. nghĩa giành chính quyền khi đủ điều kiện. Lúc này, trên địa bàn xã Khuôn Lùng, trong đó có vùng Quảng Nguyên, ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp ở Bắc Quang, Yên Bình chống đỡ yếu ớt, bị quân Nhật dồn về trú ẩn tại đồn bốt của chúng ở Khuôn Lùng và các đồn bốt lân cận, như: đồn Xỉn Khâu (thuộc xã Chế Là), đồn Nậm Yên (thuộc xã Nấm Dẩn ngày nay) từ đây chúng luồn rừng lên vùng Xín Mần và chạy sang Trung Quốc3, để lại bọn Khố xanh, Khố đỏ tiếp tục nắm giữ đồn bốt trên địa bàn xã. Tháng 7/1945, Ban Việt Minh họp và bàn kế hoạch xây dựng lực lượng cách mạng. Thời điểm này, Khuôn Lùng nói chung, vùng Quảng Nguyên nói riêng, do tổ của đồng chí Nam Hải chỉ huy từ đường Hoàng Su Phì, Hồ Thầu xuống Bản Quảng, Nà Ràng; đến xã, đến vùng các đồng chí đã gặp những người dân ưu tú đã được giác ngộ cách mạng và nhanh chóng tập hợp lực lượng quần chúng, tuyên truyền, giải thích chương trình, điều lệ của mặt trận Việt Minh. Đồng thời bầu ra UBHC, ban Việt Minh xã Khuôn Lùng và xây dựng đội tự vệ, tổ chức các đoàn thể cứu quốc xã. Ông Hoàng Văn Tản (thôn Nà Ràng) được chỉ định làm Chủ tịch UBHC4 lâm thời xã Khuôn Lùng. Ngay sau đó, UBHC của xã đã tổ chức thành lập được 01 trung đội dân quân du kích, với biên chế 03 tiểu đội, 01 tiểu đội gác tại Nậm Cháng, 01 tiểu đội gác chặn tại Nặm Bó. Tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự toàn thắng của phe Đồng minh. Tình hình ấy là điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Ở trong nước, nhằm vào lúc phát xít Nhật và bọn tay sai đang hoang mang cực độ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, bằng chí căm thù sôi sục và tinh thần quyết thắng đã nổi dậy Tổng khởi nghĩa và đã giành được 3 Xem Lịch sử Đảng bộ xã Khuôn Lùng, Tr 13, xuất bản năm 2015. 4 Theo hồi ký của các lão thành cách mạng: UBHC xã Khuôn Lùng được thành lập vào tháng 2 năm 1946, với tổng số 13 thôn bản. Phó Chủ tịch UBHC kháng chiến lâm thời là ông Hoàng Văn Thiệu (thôn Nà Chì). 11
  12. thắng lợi. Ngày 2/9/1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và toàn thế giới. Những sự kiện trọng đại ấy đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Hà Giang tiến nhanh vào giai đoạn đấu tranh giành chính quyền toàn tỉnh. Quần chúng nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang càng thêm phấn khởi, tin tưởng và kiên quyết đưa cuộc đấu tranh đến toàn thắng. Ngày 29/8/1945, quân Nhật rút khỏi Hà Giang thì ngay chiều ngày 30/8/1945, quân đội Tưởng kéo vào Bản Máy, Xín Mần, Khuôn Lùng, trong đó có vùng Quảng Nguyên,v.v.. Đi đến đâu, chúng đều cướp lương thực, thực phẩm, bắt nhiều người đi phục dịch gây nên lòng căm thù cao độ trong nhân dân các dân tộc trong xã, trong vùng5. Ngày 4/11/1945, huyện lỵ Bắc Quang được giải phóng. Sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần binh sĩ địch, tạo điều kiện thuận lợi cho Khuôn Lùng, trong đó có nhân dân vùng Quảng Nguyên đứng lên tước vũ khí, giải tán quân địch đóng tại đồn bốt Khuôn Lùng, góp phần giải phóng hoàn toàn huyện Bắc Quang. Ngay sau ngày giải phóng, UBHC lâm thời huyện Bắc Quang được thành lập và ra mắt đồng bào; tại thời điểm này, UBHC xã Khuôn Lùng cũng được kiện toàn, Ông Hoàng Văn Thức được chỉ định làm Chủ tịch UBHC xã6 Khuôn Lùng. Tiếp đó, ngày 8/12/1945, thị xã Hà Giang được giải phóng, ngày 25/12/1945, nhân dân các dân tộc Thị xã Hà Giang và Đại biểu các địa phương vui mừng, phấn khởi mít tinh chào mừng Ủy ban hành chính lâm thời của tỉnh do đồng chí Thanh Phong làm chủ tịch. Song song với việc thành lập UBHC lâm thời của Tỉnh, cùng ngày xứ ủy Bắc Kỳ ký quyết định thành lập Đảng bộ Tỉnh Hà Giang, đồng chí Hồng Quân được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời. Có thể nói, đây là 5 Thời kỳ này, tại Khuôn Lùng, trong đó có vùng Quảng Nguyên, bọn Quốc dân Đảng, do tên Quản Lộc cầm đầu, chúng đã tổ chức bắt người trong xã, trong vùng đi phu, đi lính cho chúng; đồng thời tổ chức xây dựng lại đồn Pú Rom để trú ngụ và chặn gác, theo dõi (có đào giao thông hào xung quanh). 6 Xem Lịch sử Đảng bộ xã Khuôn Lùng; Tr 16, xuất bản năm 2015. 12
  13. sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu mốc kết thúc giai đoạn đấu tranh giành chính quyền trong phạm vi toàn tỉnh. Ngày 6/01/1946, thi hành chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên, vui mừng phấn khởi tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với cuộc bầu cử này, nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên đã thực sự được hưởng quyền dân chủ, tự mình góp phần xây dựng chính quyền nhân dân. Thể hiện ý thức giác ngộ chính trị, ý chí cách mạng và lòng tin tưởng tuyệt đối của nhân dân các dân tộc trong xã, trong vùng vào Đảng, vào cách mạng là một đòn giáng mạnh vào bọn tàn quân Tưởng, làm uy tín của chính quyền ta được nâng cao. Thắng lợi đó có tác dụng tăng cường hiệu lực của bộ máy chính quyền nhân dân trong xã ngày càng thêm vững mạnh. Sau hiệp ước Hoa - Pháp (được ký kết vào ngày 28/02/1946), tháng 3/1946, Pháp đưa quân ra Bắc, để tranh thủ thời gian hoà hoãn xây dựng lực lượng. Trung ương Đảng và Chính phủ ta đã ký hiệp định sơ bộ vào ngày 06/03/1946 và bản tạm ước vào ngày 14/09/1946. Nhưng với bản chất phản động, hiếu chiến, thực dân Pháp ngang nhiên vi phạm Hiệp định và Tạm ước, chúng tiếp tục mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, ngày 20/11/1946, chúng nổ súng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn,v.v.. Trước những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, cả nước ta đã bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tuy lúc này thực dân Pháp chưa đánh chiếm đến vùng Quảng Nguyên, nhưng theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương của Trung ương Đảng, với tinh thần quyết tâm cùng cả nước đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, dưới sự chỉ đạo của UBHC xã Khuôn Lùng, nhân dân các dân tộc Quảng Nguyên đã tích cực thi đua phát triển sản xuất, tích trữ lương thực để chuẩn bị cho kháng chiến. Đồng thời tích cực hưởng 13
  14. ứng phong trào bình dân học vụ nhằm giải quyết cơ bản vấn đề “giặc dốt” trong nhân dân. Củng cố đội dân quân du kích để sẵn sàng chiến đấu chống giặc xâm lược, bảo vệ nhân dân, vận động đông đảo nhân dân tham gia Mặt trận Việt Minh, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số. Ngày 20/02/1947, xét thấy đủ điều kiện, Tỉnh ủy Hà Giang quyết định thành lập chi bộ cơ quan huyện Bắc Quang, do đồng chí Phương Lâm làm Bí thư. Ngày 15/05/1947, Huyện ủy Bắc Quang chính thức được thành lập, đồng chí Phạm Gia Tuân được Tỉnh ủy chỉ định làm Bí thư Huyện ủy. Sau khi củng cố tổ chức và cán bộ, tháng 7/1947 Huyện ủy Bắc Quang đã cử đồng chí Nguyễn Văn Chinh đến Tiểu khu Yên Bình để gây dựng cơ sở cách mạng. Trong thời gian hoạt động, đồng chí đã tuyên truyền giác ngộ về vai trò lãnh đạo, chủ trương và hoạt động của Đảng cho các đồng chí cán bộ nòng cốt của các xã, các vùng trong Tiểu khu Yên Bình; đồng thời giới thiệu một số quần chúng tích cực để tổ chức Đảng xem xét, kết nạp, trong đó bốn quần chúng ưu tú đầu tiên của xã Khuôn Lùng được kết nạp vào Đảng, gồm: Hoàng Văn Khuyên, Hoàng Văn Vỉ, Lèng Xuân Thu và Hoàng Thu. Đây là những quần chúng sớm được cách mạng giác ngộ, luôn đi tiên phong trong các phong trào cách mạng và tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối cách mạng của Đảng, vận động xây dựng lực lượng vũ trang, chủ yếu là lực lượng du kích tại chỗ. Cuối năm 1947, Pháp mở cuộc tiến công lên Việt Bắc, đồng thời chúng thực hiện âm mưu bao vây biên giới, dùng thổ phỉ để thực hiện chính sách chia rẽ các dân tộc. Tháng 9/1947, lợi dụng sự lạc hậu của đồng bào Dao, tên Trảo Sành Phú ở thôn Lùng Chún trên địa bàn xã Khuôn Lùng7, một tay 7 Từ tháng 2 đến tháng 10/1947, Phỉ cờ trắng đã đốt 261 nóc nhà, giết hại một cách dã man 69 người kể cả trẻ em và phụ nữ có thai. Lúc này, trên địa bàn xã Khuôn Lùng, chúng đã khống chế toàn bộ các thôn khu vực phía Đông (thuộc xã Quảng Nguyên ngày nay), giết 2 người, cướp bóc nhiều trâu, bò và các tài sản khác của nhân dân. Loạn cờ trắng đã gây tổn hại nghiêm trọng đến tình đoàn kết giữa các dân tộc trong xã, trong vùng, đến việc thực hiện chính sách dân tộc, củng cố chính quyền cách mạng vừa mới giành được. Sai lầm của chính quyền xã 14
  15. sai của Nhật trước đây, đã tự bắn súng xưng vua, dựng cờ trắng, tập hợp lực lượng đi cướp phá, chém giết rất dã man đồng bào các dân tộc trong vùng, trong xã và một số xã lân cận thuộc huyện Bắc Quang và lan rộng ra các xã thuộc huyện Hoàng Su Phì. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và tỉnh ủy Hà Giang, UBHC xã Khuôn Lùng đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan dùng biện pháp bao vây khoanh vùng, xác định đối tượng, lấy thuyết phục chính trị là chính, quân sự áp lực. Do phần lớn những người theo “cờ trắng” là đồng bào bị dụ dỗ, ép buộc, không phải là giặc nên tránh nổ súng vào hộ mà phải tổ chức các hội nghị đoàn kết dân tộc, giải thích rõ nguyên nhân, tác hại của vụ việc, tuyên truyền chính sách đoàn kết dân tộc của Chính phủ. Do có chủ trương biện pháp đúng, ta kiên trì thuyết phục, lại được nhân dân ủng hộ, lực lượng “cờ trắng” suy yếu dần. Đến tháng 11/1947, tướng “cờ trắng” Trảo Sành Phú cùng 12 tên đầu sỏ ra hàng cách mạng; được giáo dục giác ngộ, Phú và lực lượng “cờ trắng” đã tự nguyện tham gia đánh Pháp, lập công chuộc tội. Đến cuối năm 1948 do nhu cầu phát triển tất yếu của cách mạng, tổ đảng Khuôn Lùng8 được thành lập để tiện thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Giữa năm 1949, công tác xây dựng Đảng tiếp tục được chú trọng, chất lượng đảng viên của Tổ đảng ngày càng được nâng lên, với sự phát triển đó, ngày 23/7/1949, Huyện ủy Bắc Quang đã ra quyết định thành lập chi bộ xã Khuôn Lùng, tại thời điểm này chi bộ xã Khuôn Lùng có 5 đảng viên. Đồng chí Hoàng Văn Vỉ được chỉ định làm Bí thư chi bộ. Sự kiện thành lập chi bộ xã Khuôn Lùng là một bước ngoặt lịch sử quan trọng, đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào cách mạng ở xã dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngay sau khi được thành lập, chi bộ đã nhanh chóng tập trung chỉ đạo kiện toàn bộ máy chính quyền, các đoàn thể và Khuôn Lùng và các xã lân cận là đã không nắm bắt, báo cáo kịp thời tình hình đó để có biện pháp xử lý, chủ quan cho rằng chúng không dám nổi loạn. . 8 Tổ đảng gồm 5 đảng viên; Tổ trưởng là đồng chí Hoàng Văn Vỉ. 15
  16. lực lượng dân quân du kích, phân công từng đồng chí đảng viên xuống các thôn bản tuyên truyền, vận động nhân dân; tổ chức và giác ngộ quần chúng thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương. Do thực hiện tốt công tác tuyên truyền vận động, nên đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân các dân tộc Khuôn Lùng nói chung và nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên nói riêng, tích cực tham gia xây dựng cách mạng. Uy tín của Đảng ngày càng được nâng cao trong quần chúng và đã trở thành niềm tin của các dân tộc, thúc đẩy mọi người thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Bước vào năm 1950, cuộc kháng chiến của dân tộc ta ngày càng được đẩy mạnh, cùng với tình hình quốc tế ủng hộ cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta, tạo điều kiện để đưa cách mạng nước ta vững bước tiến lên thời kỳ mới. Tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, lợi dụng sự lúng túng của địch, chúng ta đang gấp rút chuẩn bị chuyển mạnh sang thế tổng phản công. Tiếp đó, ngày 12/8/1950, Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các cấp ủy nêu rõ Chiến dịch Biên giới là một chiến dịch rất quan trọng và nhắc nhở các địa phương trong toàn quốc phối hợp, kiềm chế, tiêu hao sinh lực địch, không cho chúng tiếp viện. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, cùng với nhân dân các dân tộc trong tỉnh và huyện, dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã Khuôn Lùng, nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên, đã nhận thức rõ vị trí và trách nhiệm của mình trong chiến dịch này; tích cực hăng hái sản xuất, tạo ra nhiều của cải vật chất ủng hộ cuộc kháng chiến; đồng thời tuyên truyền, vận động thanh niên lên đường nhập ngũ, huy động dân công phục vụ cho tiền tuyến,v.v.. Những việc làm trên đã được quần chúng nhân dân đồng tình hưởng ứng nên toàn xã đã huy động được hàng trăm ngày công, đóng góp hàng tấn lương thực, thực phẩm ủng hộ cho các chiến dịch của quân đội ta; đặc biệt là trong việc thực hiện chỉ thị số 91, ngày 26/10/1950, cùng với quân dân trong toàn 16
  17. huyện, quân và dân xã Khuôn Lùng, trong đó có vùng Quảng Nguyên đã tham gia tích cực trong chiến dịch giải phóng huyện lỵ Hoàng Su Phì vào ngày 06/01/1951. Tháng 5/1951, khi Giải phóng quân Trung Quốc đẩy mạnh việc tiễu phỉ Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch, tàn quân phản động các loại đã dạt về khu biên giới lẩn trốn và câu kết với nhau hoạt động. Lợi dụng tình hình đó, thực dân Pháp với sự can thiệp của Mỹ đã tung nhiều gián điệp, tay sai trở lại biên giới móc nối, tập hợp lực lượng, tiếp tục chống phá cách mạng. Chúng dự định sẽ gây dựng lại phỉ ở Hoàng Su Phì, thu hút thổ ty Vương Chí Sình để tập hợp bọn phản động ở Đồng Văn, nhằm thành lập ở mỗi huyện một trung đoàn hoặc một tiểu đoàn phỉ lấy tên là “Đông - Tây tập đoàn”, phối hợp với nội ứng ở Vị Xuyên và Bắc Quang, khi có thời cơ thì nổi lên đánh chiếm huyện Hoàng Su Phì, Đồng Văn và thị xã Hà Giang. Khi có bàn tay chỉ đạo của Pháp, bọn đầu sỏ phỉ (xếp Vần, xếp Sần) ở Hoàng Su Phì bắt đầu nhen nhóm hoạt động trở lại. Chúng tập hợp các lực lượng khoảng 500 tên, chia thành toán nhỏ tổ chức tuyên truyền, xuyên tạc công cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Từ cuối năm 1951 đến đầu năm 1952, cùng với việc câu kết với phỉ Hạng Sào Chúng kéo quân vào huyện Hoàng Su Phì9 đánh chiếm nhưng không thành, ngày 28/02/1952 chúng tiếp tục tập trung lực lượng khoảng 100 tên đánh chiếm Bản Qua, xã Tân Tiến cướp phá một buổi sáng, đến 10 giờ lực lượng của ta đánh mạnh, chúng rút chạy sang Tống Quán Lìn. Đầu tháng 3/1952, chúng lại tập trung 100 tên do Vương Văn Sương chỉ huy tiến vào Khuôn Lùng, trong đó có vùng Quảng Nguyên, hòng uy hiếp cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn. Song, được sự chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh ủy Hà Giang trong việc tổ chức động viên toàn quân, toàn dân trong tỉnh thực hiện chiến dịch tiễu 9 Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891-2001), NXB chính trị Quốc gia, HN 2001, Tr231-232. 17
  18. phỉ “Đông - Tây tập đoàn”, nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên đã tích cực tham gia, ủng hộ sức người, sức của, cùng với quân và dân trong xã, trong huyện đã tham gia tích cực trong chiến dịch tiễu phỉ ở biên giới, tại mặt trận Hoàng Su Phì. Đến tháng 10/1952, chiến dịch tiễu phỉ “Đông - Tây tập đoàn” đã kết thúc thắng lợi. Với thắng lợi này, nhân dân của huyện Bắc Quang nói chung, xã Khuôn Lùng nói riêng, trong đó có nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với nhiệm vụ tham gia chiến đấu, dẹp trừ thổ phỉ, biệt kích và bọn bạo loạn, nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên đã tích cực sản xuất phục vụ chiến đấu, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương đối với tiền tuyến; đặc biệt là việc thực hiện sắc lệnh thuế nông nghiệp được ban hành vào tháng 9/1951, thực hiện chỉ đạo chiến dịch thuế nông nghiệp của tỉnh và huyện do Nhà nước ban hành, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ xã Khuôn Lùng, nhân dân các dân tộc Quảng Nguyên đã thực hiện tốt chính sách thuế của Nhà nước, đóng góp được trên 700kg thóc cho Nhà nước. Bước vào năm 1952, để chuẩn bị cho vụ mùa, thực hiện chủ trương của Huyện ủy Bắc Quang, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ xã Khuôn Lùng, nhân dân các dân tộc Quảng Nguyên đã tích cực hưởng ứng tham gia phong trào thi đua cày sâu, bừa kỹ, tăng diện tích, làm cỏ, bón phân, lấy thành tích chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, như: Ngày quốc tế Lao động 1/5; ngày sinh nhật Bác Hồ 19/5; ngày Quốc khánh 2/9; phong trào thi đua học tập tấm gương anh hùng lao động trong nông nghiệp Hoàng Hanh và chiến sỹ thi đua Trịnh Xuân Bái,v.v.. các phong trào thi đua kể trên đã được nhân dân Quảng Nguyên đồng tình hưởng ứng, thu được kết quả cao trong sản xuất, diện tích đất ruộng không còn bị bỏ hoang, được cày bừa kỹ và bón phân trước khi cấy; khi cấy xong, được chăm sóc, làm cỏ, bón thúc, nên năng suất đạt 3kg đến 5kg/1 bó mạ; đồng thời thành lập được 01 tổ đổi công (tổ đổi công Quảng 18
  19. Nguyên) với mục đích đưa nông dân vào làm ăn tập thể, tạo sự nền nếp, làm ăn có kế hoạch, phát huy tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, vừa tăng năng suất cây trồng, vừa xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, công tác giáo dục, công tác bình dân học vụ, công tác văn hóa, văn nghệ tiếp tục được chi bộ xã Khuôn Lùng quan tâm lãnh đạo và có bước phát triển. Qua đó, nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên đã tổ chức nhiều phong trào văn hóa, văn nghệ; tổ chức các lớp bình dân học vụ và phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để toàn dân học tập và thực hiện đúng đường lối của Đảng và Nhà nước đã ban hành. Tháng 10/1953, thực hiện chủ trương của Huyện ủy Bắc Quang về mở lớp huấn luyện học tập chính sách phát động quần chúng, với các nội dung: sắc lệnh ruộng đất; thông tư về những việc phải làm ở những nơi chưa phát động quần chúng; học tập chính sách dân tộc của Đảng10. Ngay sau khi được quán triệt tại huyện, chi bộ xã Khuôn Lùng đã khẩn trương tổ chức quán triệt chung cho toàn thể cán bộ, đảng viên trong toàn xã, đồng thời phân công các đồng chí phổ biến, tuyên truyền đến toàn thể nhân dân các thôn bản trong xã. Qua đó, nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên càng thấm nhuần tư tưởng và thi hành đúng đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng, Chính phủ; tích cực hăng hái thi đua sản xuất, tăng cường đoàn kết, góp phần củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng dân quân du kích, củng cố các đoàn thể, xây dựng cuộc sống mới, tích cực đóng góp sức người, sức của cho công cuộc kháng chiến của dân tộc. Chiến dịch Đông - Xuân (1953-1954), dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với nhân dân cả nước, quân và dân xã Khuôn Lùng, trong đó có nhân dân các dân tộc vùng Quảng Nguyên 10 Lịch sử Đảng bộ huyện Bắc Quang, NXB chính trị Quốc gia, HN 1996, tập 1 Tr73. 19
  20. đã tích cực sôi nổi tham gia phục vụ chiến đấu với tinh thần hào hùng, khí phách; tích cực ủng hộ lương thực, thực phẩm cho quân đội; nhiều thanh niên đã tình nguyện lên đường ra mặt trận, tình nguyện tham gia dân công phục vụ chuyển lương thực, thực phẩm, làm đường, tải đạn,v.v.. phục vụ cho chiến dịch. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954 đã kết thúc chín năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh xâm lược Việc Nam và Đông Dương. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta tạm thời bị chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 (dọc sông Bến Hải) làm ranh giới quân sự tạm thời để hai bên chuyển quân tập kết. Ngay sau Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đế quốc Mỹ nhảy vào Miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, tổ chức bầu cử Quốc hội riêng, nhằm thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Nước ta tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Vì vậy, Đảng ta đã xác định: Chúng ta phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền. Đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Sau hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), phát huy những thành tích đã đạt được trong những năm kháng chiến chống Pháp. Cùng với đồng bào cả nước, đồng bào các dân tộc Quảng Nguyên bước vào thời kỳ cách mạng mới - thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, tích cực tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và góp phần cùng nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng. Trải qua chín năm kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc Khuôn Lùng, trong đó có các dân tộc Quảng Nguyên đã được rèn luyện, thử thách và trưởng thành. Niềm tin vào chế độ dân chủ nhân dân đã thật sự đem lại tự do, hạnh phúc cho người lao động, trở thành sự cổ vũ lớn lao, khơi dậy những tiềm năng trí tuệ và lao 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2