intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thu Tà (1963-2015)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:209

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thu Tà (1963-2015)" ghi lại chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Thu Tà qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1962 - 1975), trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc (1975 - 1985) và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 2015).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thu Tà (1963-2015)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN XÍN MẦN BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ THU TÀ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ THU TÀ 1963 - 2015 Xuất bản, năm 2020
  2. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Thu Tà là xã nằm ở phía Đông của huyện Xín Mần, có vị trí quan trọng về quân sự, kinh tế - xã hội của huyện. Theo dòng chảy của lịch sử, các thế hệ người dân Thu Tà chung sức khai phá, cải tạo đất đai, dựng nên thôn, bản, tạo lập truyền thống lịch sử - văn hóa phong phú, đặc sắc, hun đúc nên truyền thống cách mạng, dũng cảm, kiên cường, giàu lòng yêu nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc xã Thu Tà nỗ lực vượt lên những khó khăn, thi đua lao động sản xuất, làm thay đổi sâu sắc diện mạo địa phương. Thực hiện Kế hoạch số 168-KH/HU, ngày 24/8/2018 của Ban Thường vụ Huyện ủy Xín Mần về “thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng”. Nhằm đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân xã Thu Tà, Ban Thường vụ Đảng uỷ xã chỉ đạo nghiên cứu, biên soạn cuốn “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thu Tà 1963 - 2015”. Nội dung cuốn sách ghi lại chặng đường cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Thu Tà qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1962 - 1975), trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc (1975 - 1985) và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (1986 - 2015). 3
  4. Cuốn sách là một tài liệu quý để giáo dục truyền thống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong xã, tích cực thi đua lao động, sản xuất, đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời thể hiện sự tri ân, tôn vinh những thế hệ đã hết lòng vì sự nghiệp cách mạng qua các thời kỳ. Qua đó, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, củng cố niềm tin cho thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, tích cực nêu cao tinh thần quyết tâm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Trong quá trình nghiên cứu, biên soạn, chỉnh lý, bổ sung để hoàn thành cuốn sách, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao Ban Tuyên giáo Huyện ủy, những ý kiến quý báu của các đồng chí cán bộ lão thành cách mạng, các nhân chứng lịch sử, các tổ chức, cá nhân và nhân dân các dân tộc trong xã. Ban Chấp hành Đảng bộ xã xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và đóng góp ý kiến quý báu đó. Mặc dù bộ phận nghiên cứu, biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng trong công tác sưu tầm tư liệu thành văn còn gặp nhiều khó khăn, do nhiều nguyên nhân nên bị thất lạc nhiều và phần lớn các nhân chứng lịch sử hoặc đã qua đời, hoặc còn sống nhưng đã quá già yếu, trí nhớ có phần suy giảm... Vì vậy, nội dung cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Ban Thường vụ Đảng ủy xã rất mong nhận được sự đóng góp của đông đảo cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trên địa bàn xã để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản. 4
  5. Trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thu Tà 1963 – 2015” TM. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BÍ THƯ Chẩn Văn Thanh 5
  6. Chương I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI XÃ THU TÀ 1. Điều kiện tự nhiên Xã Thu Tà là xã miền núi nằm ở phía Đông huyện Xín Mần cách trung tâm huyện 23km. Phía Nam giáp xã Quảng Nguyên và xã Chế Là, phía Tây giáp xã Cốc Rế, phía Đông giáp xã Hồ Thầu huyện Hoàng Su Phì và phía Bắc giáp xã Ngán Chiên. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 2.776,38ha. Trong đó diện tích đất nông nghiệp 585,54ha; đất lâm nghiệp là 1.961,86ha; đất phi nông nghiệp 81,30ha; đất chưa sử dụng 121,08ha. Là xã nằm ở độ cao trung bình trên 1.000m so với mực nước biển, địa hình phức tạp, chia cắt mạnh và thấp dần từ hướng Đông xuống phía Nam. Địa hình xã Thu Tà được chia thành 2 dạng chính là địa hình núi cao và địa hình núi thấp có độ cao trung bình từ trên 400m đến 900m độ dốc lớn, trung bình trên 300, phần lớn là núi đất và rừng tự nhiên, là khu vực đầu nguồn của các con suối. Xen giữa là các thung lũng nhỏ và là nơi tập trung các khu dân cư, phần lớn diện tích đất trên dạng địa hình này là nơi canh tác, sản xuất nông nghiệp của nhân dân trong xã. Do điều kiện địa hình đồi núi dốc mạnh, lượng mưa lớn và tập trung nên tạo cho Thu Tà có hệ thống khe, 6
  7. suối khá dày đặc, trong có 2 con suối lớn là suối Tà Nậm Lù và suối Ta Đản Đăm chảy qua với lưu lượng nước khá lớn, ngoài ra còn có các suối nhỏ chảy ra từ các khe núi là nguồn cung cấp nước chính cho sản xuất và sinh hoạt của người dân trong xã. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều. Khí hậu được chia thành 2 mùa rõ rệt, chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa; nhiệt độ trung bình năm là 22 - 250C, nhiệt độ thấp nhất là 2,80C; lượng mưa trung bình trong năm là 1.560mm; độ ẩm bình quân trong năm là 82%. Nhìn chung, Thu Tà có điều kiện khí hậu, thời tiết tương đối thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp. Tuy nhiên, hằng năm hiện tượng sương muối kéo dài vào mùa khô gây ảnh hưởng đối với sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của xã. Do xã có địa hình đồi núi với độ dốc lớn, nhiều chia cắt, do các khe suối chảy qua gây hạn chế trong giao thông, đi lại, sinh hoạt. Hiện nay hệ thống đường giao thông của xã Thu Tà đã được quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ bản. Ngoài tuyến đường chính từ trung tâm xã qua xã Cốc Rế, xã Tả Nhìu đến trung tâm huyện lỵ dài 23km. Trên địa bàn xã còn có các tuyến đường liên xã với xã Ngán Chiên dài 4,3km. Đó là điều kiện lợi thế để nhân dân xã Thu Tà mở rộng, giao lưu, hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa với nhân dân các địa phương khác. Ngoài các tuyến đường kể trên, hệ thống giao thông liên thôn, bản cũng đang được đầu tư xây dựng và tu sửa hàng năm, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và đời sống của nhân dân. 7
  8. 2. Điều kiện kinh tế, xã hội Tên gọi “Thu Tà”1 đã có từ thời xưa. Trong chặng đường dài lịch sử của thời dựng nước, vùng đất này là một phần nhỏ của châu Vị Xuyên thuộc trấn Tuyên Quang của Nhà nước Đại Việt, do thổ tù họ Ma nối đời quản trị. Dưới thời pháp thuộc, toàn bộ phủ Tương Yên, trong đó có Vị Xuyên thuộc khu quân sự số 2, tỉnh Tuyên Quang. Ngày 20 tháng 8 năm 1891, tỉnh Hà Giang được thành lập trên cơ sở phủ Tương Yên và huyện Vĩnh Tuy, thuộc đạo quan binh ba. Cuối năm 1929, đạo quan binh ba có 4 đơn vị hành chính là: châu Vị Xuyên, châu Bắc Quang, châu Hoàng Su Phì và châu Đồng Văn. Thời kỳ này, Thu Tà là một vùng thuộc xã Trung Thịnh và là một trong 4 xã thuộc tổng Tụ Nhân, châu Hoàng Su Phì. Ngày 15/12/1962, Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 211-CP,về việc tách xã Trung Thịnh thành 6 xã gồm: Trung Thịnh, Nàng Đôn, Việt Thái, Ngán Chiên, Pờ Ly Ngài và xã Thu Tà. Xã Thu Tà được thành lập gồm có 04 thôn gồm: Sán Sỉ Chải Mèo, Sán Sỉ Chải Nùng, Tỷ Phàng, Sì Ngài Chò và Hồ Thầu; Tiếp đó đến ngày 01/04/1965 huyện Hoàng Su Phì được chia thành hai huyện: Hoàng Su Phì và Xín Mần2. Đến năm 2015, xã Thu Tà có 14 thôn, gồm: thôn Pạc Tháy, Hồ Thầu, Lủng Cháng, Pạc Phai, Ngài Trò, Cốc Pú, Pạc Tiến, Đông Nhẩu, Sán Chải, Cạp Tà, Nàng Cút, Ngài Thầu, Nàng Vạc, Tỷ Phàng, 1 Do địa giới của xã nằm ở đầu nguồn nước, theo tiếng nùng gọi là “Cốc Nắm”. 2 Kể từ đây, Thu Tà là 1 trong các xã của huyện Xín Mần. 8
  9. Xã Thu Tà có 5 dân tộc cùng sinh sống, trong đó dân tộc Nùng có 454 hộ; dân tộc Mông: 106 hộ; dân tộc Tày: 04 hộ; dân tộc Kinh 05: hộ; dân tộc Dao: 01 hộ. Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê huyện Xín Mần, tính đến năm 2015, xã Thu Tà có 570 hộ với 2.600 khẩu. Là xã nằm cạnh dãy Chiêu Lầu Thi3, trải qua những thăng trầm của lịch sử. Từ bao đời nay, đồng bào các dân tộc trong xã luôn giữ vững truyền thống đoàn kết, gắn bó với những đức tính cần cù, chịu khó, dũng cảm đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tích cực khai phá, cải tạo đất đai, tạo ra những thửa ruộng, những nương rẫy tốt tươi, đã biến những gò, sườn đồi thành những nương, ruộng, góp phần nâng cao đời sống. Trong quá trình phát triển ấy, không chỉ tạo thêm những nét văn hóa của các dân tộc trong xã mà còn khẳng định thêm tinh thần đoàn kết, gắn bó, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng như trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, làng bản. Tinh thần này càng được thể hiện một cách mạnh mẽ hơn từ khi có Đảng dẫn đường, chỉ lối. Đặc biệt, kể từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Đảng luôn quan tâm xây dựng và củng cố tổ chức Đảng vững mạnh, gây dựng phong trào cách mạng ở các địa phương. Chi bộ Đảng và sau này là Đảng bộ xã Thu Tà 3 Còn có tên Kiều Liêu Ty (Chín tầng mây), chạy suốt từ Tây Côn Lĩnh đến Bắc Hà (Lào Cai), có đỉnh cao 2.402 m, ngăn cách giữa Xín Mần và Bắc Quang. 9
  10. được thành lập đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong xã đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, phát huy tinh thần đoàn kết cộng đồng của quần chúng, lấy ý chí cộng đồng chống lại bom, đạn của kẻ thù. Ngày nay, Đảng bộ xã Thu Tà đang tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết nhân dân các dân tộc trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Người dân Thu Tà luôn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình thể hiện vào những dịp lễ, tết, hội làng... tục thờ cúng tổ tiên nhân ngày giỗ, tết để tưởng nhớ về công đức của tổ tiên và các vị tiền bối có công giữ làng, giữ nước, có công với cách mạng được duy trì và phát triển. Bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy, các lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc; các làn điệu dân ca, dân vũ của các dân tộc Nùng, Mông vẫn được lưu truyền trong đời sống, sinh hoạt văn hóa của nhân dân. Về cơ cấu kinh tế, sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng chính, nhân dân trong xã đã tập trung đầu tư vào những khu đất nằm cạnh những dòng suối, khe nước được bồi đắp phù sa quanh năm nên đất đai màu mỡ, cộng với kinh nghiệm của cha ông để lại, nhân dân đã làm nên những ruộng lúa nước bậc thang độc đáo, được xem là sự tiến bộ đáng kể với việc vận dụng các thượng lưu của những con suối, khe nước để xây dựng hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu trong việc trồng lúa nước. Tuy 10
  11. diện tích lúa nước còn nhỏ lẻ nhưng đã một phần giải quyết vấn đề lương thực trong đời sống. Bên cạnh việc trồng lúa, nhân dân Thu Tà còn trồng các loại cây hoa màu, ngũ cốc trên ruộng bậc thang để cải thiện thêm nguồn lương thực phục vụ cho đời sống. Đặc biệt, ở đây kỹ thuật xen canh gối vụ rất được chú trọng, họ không chỉ trồng các thứ hoa màu với nhau, mà còn trồng xen các loại ngô, đậu tương, sắn, bầu, bí... trong các ruộng bậc thang. Đất được khai thác sử dụng triệt để trong một năm. Vì thế mà từ rất sớm người dân trong xã đã hình thành cho mình kinh nghiệm sản xuất theo chu kỳ thiên nhiên và truyền lại cho con cháu về sau. Về chăn nuôi, nhân dân trong xã chủ yếu sống trên vùng núi rừng trùng điệp, quanh năm cây cỏ xanh tươi, nên hầu hết gia súc đều được chăn nuôi theo kiểu thả rông, chuồng trại chủ yếu được làm trong rừng, thường được làm thành một chuồng lớn để nhốt trâu, bò cho cả thôn, gia súc nuôi ít được chăm sóc. Những năm gần đây, việc chăn nuôi có những tiến bộ hơn trước, nhân dân đã biết làm chuồng, trại gần nhà, có sự quan tâm đến vật nuôi như chống rét, chống dịch... Trâu, bò được chăn nuôi không chỉ để làm sức kéo, mà còn được sử dụng để lấy thịt và trao đổi, buôn bán. Bên cạnh đó, lợn, gà cũng được nuôi để làm thực phẩm và phục vụ trong các lễ hội. Giống lợn bản địa của nhân dân trong xã còn mang nhiều nét của loại lợn rừng nhưng đã được thuần chủng... Ngày nay, nhân dân xã Thu Tà đã nhập nhiều giống gia súc khác nhau, hiệu quả và năng suất cao hơn. Hướng chăn nuôi không còn bó hẹp trong khuôn khổ 11
  12. của kinh tế tự cung, tự cấp, mà còn phát triển theo hướng hàng hóa. Sản phẩm chăn nuôi được mua bán, trao đổi để lấy những vật dụng cần thiết khác phục vụ đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Hoạt động sản xuất thủ công nghiệp mặc dù còn lạc hậu, song cũng được chú trọng. Với địa hình phức tạp, nằm ở khu vực miền núi cao, bị chia cắt bởi núi rừng với các khu vực lân cận nên việc giao lưu, trao đổi diễn ra rất hạn chế. Từ những nhu cầu thiết yếu phục vụ cho đời sống hàng ngày buộc người dân phải tự mình tìm tòi để tự sản xuất ra những công cụ, vật dụng trong sinh hoạt. Do vậy, các nghề thủ công đã dần được hình thành, nhất là các nghề dệt, nghề rèn…, nhân dân trong xã đã biết dệt ra những tấm đồ mang những nét văn hoá đặc trưng như trang phục của người Nùng... Những công cụ sản xuất được chính tay họ cần mẫn làm ra như rìu, cuốc, dao, liềm… phục vụ đắc lực cho việc khai hoang mở rộng diện tích trồng trọt, tăng năng suất lao động; đồng thời cũng là vũ khí chiến đấu trong các cuộc đấu tranh chống lại thú dữ, sự đàn áp, bóc lột của kẻ thù, bảo vệ thôn, bản. Trong những năm gần đây, trên địa bàn xã đã hình thành thêm một số nghề mới như: sản xuất gạch nung, sản xuất cây giống, hàng nông sản, làm đồ mộc đóng giường, tủ, bàn nghế góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. Kể từ khi được thành lập, Chi bộ và sau này là Đảng bộ xã Thu Tà đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn trong từng giai đoạn cách mạng, thực hiện nhiệm 12
  13. vụ phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng thế mạnh về đất đai để phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp. Với sự đầu tư của Nhà nước, sự phấn đấu, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn, bộ mặt Thu Tà đã có nhiều đổi thay, Trung tâm xã được quy hoạch, xây dựng cơ sở vật chất, phát triển kinh tế - xã hội; kinh tế phát triển theo hướng tích cực, trang thiết bị phục vụ sản xuất, thông tin liên lạc, phương tiện giao thông, hệ thống giáo dục và đào tạo, dịch vụ y tế... được trang bị ngày càng hiện đại, đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân. Đến nay, sau gần 30 năm đổi mới, bộ mặt trung tâm xã Thu Tà đã mang một dáng vẻ mới, đời sống nhân dân được cải thiện về mọi mặt, nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân được đáp ứng. Trong những năm qua, kinh tế của xã Thu Tà không ngừng phát triển, năm 2015, tổng sản phẩm lương thực địa phương đạt 2.665,9 tấn, bình quân thu nhập đầu người là 12 triệu đồng, tăng 3,8 triệu đồng/năm, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực: kinh tế nông - lâm nghiệp được chuyển đổi sang chuyên canh theo hướng hàng hóa, bước đầu có sự đầu tư, chú trọng phát triển thương mại và dịch vụ. Trong những năm tiếp theo, Thu Tà vẫn khẳng định tiềm năng về sản xuất nông - lâm nghiệp chuyên canh theo hướng hàng hóa là thế mạnh của xã, bên cạnh đó xã cũng ưu tiên thu hút đầu tư phát triển một số 13
  14. ngành thủ công nghiệp như: sản xuất các mặt hàng phục vụ công tác sản xuất, chế biến nguyên liệu và vật liệu xây dựng. Đồng thời, không ngừng khai thác các tiềm năng về vị trí địa lý, tài nguyên sẵn có để phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ của địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế trên địa bàn, phấn đấu là xã động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện Xín Mần. Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng bộ xã Thu Tà đang nỗ lực, thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, vận dụng sáng tạo quan điểm, đường lối của Đảng để đưa ra định hướng đúng đắn lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng mảnh đất Thu Tà ngày càng giàu và đẹp. 3. Nhân dân các dân tộc xã Thu Tà thời kỳ trước năm 1963 Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã chấm dứt hai phần ba thế kỷ bế tắc và khủng hoảng về đường lối cách mạng kể từ khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam đã có một Đảng chuyên chính lãnh đạo, Đảng đã vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, tạo nên các phong trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp trên phạm vi cả nước mà đỉnh cao là các phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh (1930-1931), phong trào vận động dân chủ (1936-1939) và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945. 14
  15. Ở tỉnh Hà Giang, trong những năm 1932 đến 1939, đã có nhiều cán bộ của Đảng đến tuyên truyền, vận động, gây dựng cơ sở cách mạng, trong đó huyện Bắc Quang là một trong những địa phương của tỉnh có phong trào cách mạng phát triển sớm và sôi nổi nhất... Song, do đặc điểm của một vùng thuộc tỉnh miền núi, đất rộng người thưa, là vùng có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, giao thông liên lạc khó khăn, lại bị đặt dưới sự kiểm soát gắt gao của chánh tổng, lý trưởng - tay chân của thực dân Pháp, trong khi đó cán bộ Đảng là người địa phương hầu như chưa có, lực lượng đến gây dựng cách mạng còn mỏng, dễ bị bọn mật thám phát hiện, việc gây dựng phong trào cách mạng rất khó khăn, sau khi cán bộ cách mạng rút khỏi địa phương, quần chúng bị đàn áp nên phong trào cách mạng lại tạm lắng. Đến giai đoạn 1939- 1945, phong trào cách mạng của cả tỉnh mới tiếp tục phát triển và được mở rộng ở các vùng phong trào còn yếu và các vùng dân tộc thiểu số. Thời kỳ này, Thu Tà là một vùng thuộc địa giới hành chính của xã Trung Thịnh thuộc tổng Tụ Nhân, châu Hoàng Su Phì, bị thực dân Pháp chiếm đóng từ rất sớm. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, đời sống của nhân dân các dân tộc vùng Thu Tà vô cùng cực khổ, nhân dân phải chịu sưu cao, thuế nặng, các thứ thuế vô lý như thuế thân, thuế muối... thanh niên bị bắt ép đi phu, đi lính phục vụ cho việc cai trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trước sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp, một số quần chúng có phản kháng nhưng với hình thức đơn giản, bột phát liền bị chúng 15
  16. đánh đập, bóc lột đã bỏ nhà đến địa phương khác hoặc trốn vào rừng ở. Đầu năm 1942, quân Nhật đến Hà Giang mở rộng chiếm đóng toàn tỉnh. Bước vào năm 1945, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến, quân đội Nhật liên tiếp bị thất bại trên các mặt trận Thái Bình Dương, Đông Bắc Á, Đông Nam Á, trong khi đó mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt ở Đông Dương. Đêm mùng 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng đã nhận định: Sau cuộc đảo chính này, phát xít Nhật sẽ là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và phát động cao trào kháng Nhật trong phạm vi cả nước làm tiền đề chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi đủ điều kiện. Tháng 4 và tháng 5 năm 1945, trước phong trào cách mạng lan rộng ở Hà Giang, quân Nhật co cụm lại. Cùng lúc đó, bọn Quốc dân đảng tràn vào địa phương, ra sức vơ vét cướp bóc của cải của nhân dân xã Trung Thịnh trong đó có vùng Thu Tà, khiến nhân dân trong vùng càng thêm điêu đứng, khổ cực. Tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự toàn thắng của phe Đồng minh. Tình hình ấy là điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Ở trong nước, nhằm vào lúc phát xít Nhật và bọn tay sai đang hoang mang cực độ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, bằng chí căm thù sôi sục và tinh thần quyết thắng đã nổi dậy Tổng khởi nghĩa và đã giành thắng lợi. Ngày 02/9/1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân 16
  17. chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và toàn thế giới. Những sự kiện trọng đại ấy đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Hà Giang tiến nhanh vào giai đoạn đấu tranh giành chính quyền toàn tỉnh. Quần chúng nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang trong đó có nhân dân vùng Thu Tà càng thêm phấn khởi, tin tưởng và kiên quyết đưa cuộc đấu tranh đến toàn thắng. Ngày 29/8/1945, quân Nhật rút khỏi Hà Giang thì ngay chiều ngày 30/8/1945, quân đội Tưởng kéo vào Bản Máy, Xín Mần, Khuôn Lùng, trong đó có vùng Thu Tà... Đi đến đâu, chúng đều cướp lương thực, thực phẩm, bắt nhiều người đi phục dịch gây nên lòng căm thù cao độ trong nhân dân các dân tộc trong xã, trong vùng. Ngày 5/11/1945, huyện lỵ Bắc Quang được giải phóng. Thắng lợi này đã tác động mạnh mẽ tới nhân dân các dân tộc trong vùng Thu Tà, đã tạo thêm niềm phấn khởi, với một ý chí giành độc lập, tự do; đồng thời làm cho mâu thuẫn giữa thổ ty, cường hào địa phương với tàn quân Quốc dân Đảng ngày càng thêm sâu sắc. Chớp được thời cơ, ta đưa 2 tiểu đội từ Bắc Quang tiến vào giải phóng Hoàng Su Phì. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, căng thẳng và không cân sức giữa một bên là quân ta với vũ khí thô sơ và không đầy đủ với một bên là bọn Quốc dân đảng có lực lượng đông với nhiều vũ khí lại dựa vào bọn phản động tay sai. Nhưng với lòng dũng cảm, kiên cường, quân ta đã đánh quyết liệt, đánh đến cùng, đồng thời ta vừa tiếp tục tổ chức bao vây địch, vừa động viên thuyết phục, tuyên truyền giác ngộ đồng bào 17
  18. theo cách mạng. Nhân dân phấn khởi ủng hộ bộ đội lương thực, thực phẩm, may cờ đỏ sao vàng… Địch bị cô lập cao độ, đêm 12/11/1945, chúng bỏ chạy sang Trung Quốc. Ngày 13/11/1945, ta làm chủ huyện lỵ Hoàng Su Phì. Ngày 15/11/1945, nhân dân Hoàng Su Phì họp mít tinh chào mừng quê hương được giải phóng. Nhân dân các dân tộc ở Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Thu Tà, bắt đầu làm chủ cuộc sống của mình. Tiếp đó, ngày 08/12/1945, thị xã Hà Giang được giải phóng, ngày 25/12/1945, nhân dân các dân tộc thị xã Hà Giang và Đại biểu các địa phương vui mừng, phấn khởi mít tinh chào mừng Ủy ban hành chính lâm thời của tỉnh do đồng chí Thanh Phong làm Chủ tịch. Song song với việc thành lập UBHC lâm thời của tỉnh, cùng ngày xứ ủy Bắc Kỳ ký quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Giang, đồng chí Hồng Quân được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời. Có thể nói, đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu mốc kết thúc giai đoạn đấu tranh giành chính quyền trong phạm vi toàn tỉnh. Ngày 6/01/1946, thi hành chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc vùng Thu Tà vui mừng phấn khởi tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với cuộc bầu cử này, nhân dân các dân tộc vùng Thu Tà đã thực sự được hưởng quyền dân chủ, tự mình góp phần xây dựng chính quyền nhân dân. Thể hiện ý thức giác ngộ chính trị, ý chí cách mạng và lòng tin tưởng tuyệt đối 18
  19. của nhân dân các dân tộc trong vùng vào Đảng, vào cách mạng là một đòn giáng mạnh vào bọn tàn quân Tưởng, làm uy tín của chính quyền ta được nâng cao. Thắng lợi đó có tác dụng tăng cường hiệu lực của bộ máy chính quyền nhân dân trong vùng ngày càng thêm vững mạnh. Sau hiệp ước Hoa - Pháp (được ký kết vào ngày 28/02/1946), tháng 3/1946, Pháp đưa quân ra Bắc, để tranh thủ thời gian hoà hoãn xây dựng lực lượng. Trung ương Đảng và Chính phủ ta đã ký hiệp định sơ bộ vào ngày 06/03/1946 và bản tạm ước vào ngày 14/09/1946. Nhưng với bản chất phản động, hiếu chiến, thực dân Pháp ngang nhiên vi phạm Hiệp định và Tạm ước, chúng tiếp tục mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, ngày 20/11/1946, chúng nổ súng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn... Trước những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, cả nước ta đã bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thực hiện Chỉ thị của Đảng, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Ở Hà Giang, Đảng bộ tỉnh tập trung vào kiện toàn bộ máy lãnh đạo và một số cơ quan giúp việc cho cấp ủy và chính quyền. Đảng bộ tỉnh còn tích cực xúc tiến việc thành lập các tổ chức cơ sở đảng, tăng cường cán bộ, đảng viên nòng cốt cho các huyện của tỉnh, chú trọng tới công tác xây dựng và phát triển đảng trong quần chúng, chuẩn bị lực lượng để kháng chiến lâu dài. Đặc biệt, để kịp thời lãnh chỉ đạo 19
  20. thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa tiễu trừ bọn thổ phỉ đang hoạt động mạnh ở khu vực phía Tây của tỉnh, ngày 16/5/1947, Tỉnh ủy Hà Giang đã ra quyết định thành lập chi bộ cơ quan huyện Hoàng Su Phì và chỉ định đồng chí Lê Minh Cầm (tức Mai Anh) làm Bí thư Chi bộ. Đầu tháng 12/1947, với sự giúp đỡ của thực dân Pháp, bọn thổ phỉ lại tiếp tục quay lại chống phá vùng Xín Mần, trong đó có xã Trung Thịnh và vùng Thu Tà. Ngày 15/12/1947, Voòng Sán, Mùi Lao Tả được Pháp giúp sức với hỏa lực mạnh cùng với 400 quân đánh chiếm đồn Cốc Pài. Sau 36 giờ chống trả quyết liệt, song do lực lượng của ta quá mỏng, cả trung đội do đồng chí Nguyễn Thơ chỉ huy đã anh dũng hy sinh, bọn phỉ chiếm lại đồn Cốc Pài, từ đó chúng đánh chiếm tiếp đồn Xín Mần, Bản Máy. Lúc này, lực lượng của ta chuyển về đóng tại Bản Díu và Chiến Phố để chặn đường tiến của địch về Hoàng Su Phì. Tại đây, lợi dụng địa hình phức tạp, với tinh thần quyết tâm trong chiến đấu bằng nhiều trận đánh lớn nhỏ, nhân dân vùng Xín Mần, trong đó có nhân dân trong vùng Thu Tà cùng với xã Trung Thịnh đoàn kết, tổ chức đánh trả nhiều trận trên đất Cốc Pài, Chế Là, Tả Nhìu, Ngán Chiên, Bản Díu, Trung Thịnh... góp phần tiêu hao nhiều sinh lực địch, không cho Pháp thực hiện nhanh chóng kế hoạch “vết dầu loang” của chúng. Đầu năm 1948, sau khi Pháp thất bại trong Chiến dịch Sông Lô, buộc chúng phải rút khỏi Tuyên Quang, Việt Trì, mặt trận chính của Liên khu 10 chuyển sang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2