intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tùng Bá (1945-2020): Phần 1

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:77

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tùng Bá (1945-2020): Phần 1 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và con người xã Tùng Bá; nhân dân các dân tộc xã Tùng Bá trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 - 1975). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tùng Bá (1945-2020): Phần 1

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN VỊ XUYÊN BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ TÙNG BÁ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ TÙNG BÁ (1945 - 2020) XUẤT BẢN NĂM 2021 1
  2. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. “Lịch sử Đảng là một pho sử bằng vàng”, để góp phần làm nên những trang lịch sử Đảng nói chung, không thể không kể đến lịch sử của những chi bộ, đảng bộ cơ sở. Thông qua đó, góp phần quan trọng vào công tác tuyên truyền, giáo dục lịch sử, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, truyền thống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về lòng tự hào, tự tôn dân tộc; từ đó, kế thừa và phát huy tinh thần cách mạng của các thế hệ cha anh, tinh thần đoàn kết nhất trí, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách để thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng; thực hiện Kế hoạch số 342-KH/TU, ngày 02/8/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang về thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, 3
  4. ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng; Kế hoạch số 61-KH/HU, ngày 11/3/2016 của Ban Thường vụ Huyện ủy Vị Xuyên về nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ xã, thị trấn; Ban Chấp hành Đảng bộ xã Tùng Bá (khoá XXIII), nhiệm kỳ 2015 - 2020 ra Nghị quyết về lãnh đạo tổ chức nghiên cứu, biên soạn cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tùng Bá (1945 - 2020)”. Nội dung cuốn sách đã tập trung làm sáng tỏ điều kiện lịch sử, quá trình ra đời của Chi bộ; quá trình trưởng thành, phát triển và quá trình hoạt động lãnh đạo của Chi bộ, Đảng bộ xã qua các thời kỳ. Trải qua 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 70 năm kể từ khi Chi bộ xã được thành lập (năm 1948), gần 60 năm Đảng bộ xã thành lập (năm 1963) nhân dân trong xã Tùng Bá đã phát huy truyền thống đoàn kết, tích cực thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, góp phần tích cực chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trong quá trình tổ chức thực hiện công tác sưu tầm, khai thác tư liệu, nghiên cứu và biên soạn, Ban biên soạn cuốn sách đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Vị Xuyên; sự 4
  5. phối hợp, giúp đỡ về chuyên môn của phòng Lý luận chính trị và Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; sự đóng góp ý kiến quý báu của cán bộ, đảng viên qua các thời kỳ trên địa bàn xã. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Tùng Bá xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Mặc dù Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng, với tinh thần trách nhiệm cao, nhưng do nguồn tài liệu thành văn bị thất lạc nhiều, các nhân chứng tuổi cao, sức yếu, trí nhớ có phần suy giảm. Vì vậy, nội dung cuốn sách không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự tham gia góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Tùng Bá trân trọng giới thiệu tới toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân xã Tùng Bá và bạn đọc cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Tùng Bá (1945 - 2020)”. T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ BÍ THƯ Hoàng Trung Tá 5
  6. Chương I KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI XÃ TÙNG BÁ Xã Tùng Bá nằm ở phía Bắc huyện Vị Xuyên, cách trung tâm huyện 38km. Phía Bắc giáp xã Thái An (huyện Quản Bạ); phía Đông giáp xã Đường Thượng, xã Du Già (huyện Yên Minh) và xã Minh Sơn (huyện Bắc Mê); phía Nam giáp xã Yên Định (huyện Bắc Mê); phía Tây giáp xã Ngọc Đường (thành phố Hà Giang) và xã Thuận Hòa (huyện Vị Xuyên). Tổng diện tích đất tự nhiên trên địa bàn xã 12.049,38 ha. Trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 967.23ha; đất trồng cây hàng năm 917.37 ha; đất lâm nghiệp 9.901,20 ha; còn lại là các loại đất khác 264ha. Là xã có địa hình chủ yếu là đồi núi trung bình và đồi núi cao, phân thành 3 dạng chính đặc trưng là: Địa hình đồi trung bình - cao, chiếm khoảng 89% tổng diện tích tự nhiên toàn xã, gồm các thôn: Hồng Minh, Khuôn Phà, Nà Lòa, Khuôn Làng, Bảo Mào, Nà Vàn, Nặm Rịa có độ dốc 10 - 250 chủ yếu là đất rừng sản xuất và phòng hộ. Địa hình đồi núi thấp, tương đối bằng phẳng, chiếm khoảng 11% diện tích, có độ dốc từ 0 - 100 được phân bố đều ở 8 thôn: Tát Kà, Nà Thé, Nà Giáo, Phúc Hạ, Hồng Tiến, Bản Đén, Nà Phày, Hồng Minh. 6
  7. Địa hình thung lũng khá bằng phẳng, xung quanh là đồi núi cao. Đây là khu vực tập trung dân cư và canh tác nông nghiệp. Tài nguyên rừng của xã khá phong phú, chủ yếu là rừng nguyên sinh, có nhiều chủng loại động, thực vật đa dạng và phong phú. Có nhiều loại lâm, thổ sản quý có giá trị kinh tế cao như: Gỗ đinh, trai, nghiến, lát, mật ong rừng, mộc nhĩ... Trên địa bàn xã cũng có nhiều động vật quý hiếm như: Hổ, gấu, voọc mũi hếch, khỉ, sơn dương, gà rừng. Đặc biệt hiện nay, rừng trên địa bàn xã có loài thực vật như: Đinh, nghiến, dổi, sến, pơ mu… thuộc nhóm nguy cấp trong danh sách của Sách đỏ. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân xã Tùng Bá đã ra sức bảo vệ vốn rừng còn lại và tích cực trồng phủ xanh những đồi núi trọc nhằm tăng tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn. Đất rừng của xã được nhân dân tích cực trồng với nhiều loại cây, phục vụ cho việc phát triển kinh tế lâm nghiệp như: Xoan, keo, dổi, mỡ…Đến năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng của xã đạt trên 60%. Tùng Bá là vùng đất giàu tài nguyên khoáng sản mà không phải địa phương nào cũng có, như: Sắt, chì, kẽm và bạc…. Hiện nay đã có một số cơ sở khai thác trên địa bàn xã. Tuy nhiên đây là nguồn tài nguyên có hạn, do đó, cần đặt ra các giải pháp để khai thác có hiệu quả, bền vững nguồn tài nguyên này. 7
  8. Hệ thống sông, suối của xã Tùng Bá phân bổ tương đối đồng đều. Hầu như thôn nào trên địa bàn xã cũng có suối chảy qua. Trên địa bàn xã có lớn nhất là dòng sông Ma (Ta Làng) với chiều dài khoảng 19km. Dòng sông chảy qua giữa trung tâm xã và xuôi về xã Yên Định (huyện Bắc Mê), dòng sông này được khởi nguồn từ đỉnh núi Ba Tiên (nơi giao nhau giữa 3 huyện Vị Xuyên - Yên Minh - Quản Bạ). Ngoài ra, trên địa bàn xã còn có suối Khuôn Phà (chảy qua các thôn Khuôn Phà, Hồng Minh, Nà Lòa; được bắt nguồn từ xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê); suối Tát Kà chảy qua thôn Tát Kà và Khuôn Làng; suối Bản Mào, suối Bản Kiếng, suối Nặm Rịa…Tất cả các con suối Khuôn Phà, Bản Mào, Bản Kiếng, Nặm Rịa đều hợp lưu vào dòng sông Ma. Nguồn nước từ sông và các con suối trên địa bàn xã có vai trò quan trọng, phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp cũng như phát triển các công trình thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn xã. Vào mùa mưa, do lượng nước từ thượng nguồn cao, độ dốc lớn nên thường xuyên xảy ra lũ ống, lũ quét, gây sạt lở đất và hoa màu, khó khăn cho việc đi lại và sinh hoạt của người dân. Khí hậu xã Tùng Bá ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, được chia thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vào mùa mưa thường gây sạt lở đất đá, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Nhiệt độ 8
  9. trung bình năm là 23 - 250c; mùa hè nền nhiệt trung bình 21,60c; mùa đông nhiệt độ trung bình 19,60c, thời tiết thường rét đậm, hanh khô, xuất hiện sương muối, hiện tượng sương mù nhiều. Nhìn chung, khí hậu của xã phù hợp để phát triển nhiều loại cây ăn quả, nhiều loại rau, hoa màu và cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tuy nhiên, do đặc điểm khí hậu của xã và địa hình có độ dốc lớn, do đó vào mùa mưa thường xảy tra tình trạng lũ quét, xói mòn, lở trôi đất đá. Mùa khô thiếu nước gây ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống, sản xuất của người dân. Hệ thống giao thông trên địa bàn xã trước đây chủ yếu là đường đất (đường mòn đi bộ cho người và ngựa thồ). Đến nay hệ thống giao thông đường bộ của xã được phát triển và mở rộng; các thôn bản cơ bản có đường bê tông nông thôn. Tùng Bá là vùng đất có lịch sử lâu đời. Qua nghiên cứu các tư liệu thành văn cho thấy, địa danh Tùng Bá xuất hiện khá sớm1. Thời kỳ phong kiến (thời nhà Nguyễn), đến đầu thế kỷ XIX, Tuyên Quang (gồm có địa bàn tỉnh Hà Giang ngày nay) là một trấn trực thuộc Bắc thành, có 1 phủ là phủ Yên Bình, gồm 5 châu: Yên Phúc, Lục Yên, Thu Vật, Vị Xuyên, Bảo Lạc. Các châu này được chia thành 38 1 Theo tư liệu cuốn Địa chí tỉnh Hà Giang. 9
  10. tổng, 256 xã, phố. Trong đó, xã Tùng Bá là 1 trong 6 xã thuộc tổng Phương Độ, châu Vị Xuyên, phủ Yên Bình. Đến năm 1831, Minh Mệnh cải cách hành chính, Tuyên Quang trở thành một tỉnh dưới quyền kiểm soát của Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), lập thêm phủ Yên Ninh trên cơ sở tách ra từ phủ Yên Bình. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) đổi gọi phủ Yên Ninh thành phủ Tương Yên. Nửa cuối thế kỷ XIX, tỉnh Tuyên Quang gồm 2 phủ: Phủ Yên Bình và phủ Tương Yên. Trong đó, phủ Tương Yên gồm 4 huyện: Để Định, Vĩnh Điện, Vị Xuyên, Chiêm Hóa. Trong đó, xã Tùng Bá lúc này thuộc tổng Yên Định, huyện Vị Xuyên, phủ Tương Yên. Thời kỳ Pháp thuộc, đến cuối năm 1929, Đạo quan binh 3 (tỉnh Hà Giang ngày nay) có 4 đơn vị hành chính là: Châu Vị Xuyên, châu Bắc Quang, châu Hoàng Su Phì và châu Đồng Văn. Châu Vị Xuyên có 4 tổng là: Phương Độ, Yên Định, Phú Linh, Yên Phú. Lúc này, xã Tùng Bá thuộc tổng Yên Định, châu Vị Xuyên; gồm các thôn bản là: Yên Thượng (Khuôn Làng, Lùng Cảnh, Khuôn Phà); Phúc Hạ (Nà Giáo, Nặm Rịa, Khôn Bẩu, Khâu Cọ). Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực hiện Quyết định số 433/QĐ-HCI, ngày 16/9/1949 của Ủy ban hành chính Liên khu 10 về thành lập các xã thuộc huyện Vị Xuyên. Huyện Vị Xuyên gồm 30 xã, trong đó có xã Tùng Bá. 10
  11. Qua nhiều lần thay đổi, đến năm 2020 xã Tùng Bá đã có 15 thôn gồm: Khuôn Làng, Khuôn Phà, Tát Kà, Nà Thé, Phúc Hạ, Nà Giáo, Hồng Minh, Bản Kiếng, Nà Lòa, Hồng Tiến, Bản Mào, Bản Đén, Nà Vàn, Nặm Rịa, Nà Phầy. Trước đây dân số trên địa bàn xã sinh sống thưa thớt, dân tộc Tày, Dao, Mông là những dân tộc sinh sống lâu đời trên địa bàn xã. Trải qua quá trình sinh sống, phát triển, là vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp, đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào, đồng bào dân tộc Kinh đã đến cư trú, sinh sống tại đây. Đến năm 2020, toàn xã có 4 dân tộc anh em chung sống với tổng số 1.562 hộ/7.369 khẩu, cụ thể: Dân tộc Tày 6.366 khẩu (chiếm chủ yếu 86%), dân tộc Dao 828 khẩu (11,2%), dân tộc Mông 129 khẩu (1,75%), dân tộc Kinh 46 khẩu (0,62%). Đời sống văn hóa của nhân dân các dân tộc xã Tùng Bá hết sức phong phú, vừa mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc, vừa có sự giao thoa. Hiện nay, đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã vẫn lưu giữ được những câu chuyện cổ tích, những bài cọi, hát then, bài cúng tổ tiên, bài cúng thần linh, bài cúng trong tiết thanh minh; những bài đối đáp có tính giáo dục sâu sắc, tế nhị trong lễ cưới, đặc biệt là bài cúng Lễ hội xuống đồng của đồng bào Tày; Lễ cấp sắc của đồng bào Dao… Nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã còn lưu giữ truyền thống văn hóa từ tháng 10 âm lịch đến tháng 11
  12. giêng năm sau là thời gian tổ chức các lễ, tục cưới xin, cầu thọ, giúp nhau làm nhà... Hàng năm, vào dịp đầu xuân năm mới, đồng bào thường tổ chức các hoạt động văn hóa dân gian như: Tung còn, đánh yến… Dưới bàn tay khéo léo của người dân nơi đây, văn hóa ẩm thực của đồng bào cũng có nhiều nét đặc sắc; nhiều món ăn đặc sản được chế biến như: Bánh bột nếp với nhân đậu xanh, đậu đen; bánh chuối; cơm lam bằng ống nứa; bánh trưng; bánh dày; xôi 7 màu… Về sinh hoạt, đối với đồng bào dân tộc Tày chủ yếu sinh sống ở khu vực đồi núi thấp, ven theo suối và sườn núi, sinh sống tập trung ở các thôn: Khuôn Phà, Nà Lòa, Bản Mào, Nặm Rịa, Tát Kà. Đồng bào Tày thường làm nhà sàn truyền thống có 4 mái lợp bằng tranh hay lá cọ, bưng ván gỗ, tre, nứa. Đồng bào dân tộc Dao trên địa bàn xã có hai nhóm: Dao đỏ và Dao quần đen; về cấu trúc nhà ở có ba loại nhà: Nhà sàn, nhà đất và nhà nửa sàn nửa đất; nhà ở bằng gỗ, tre, nứa rất chắc chắn, đơn giản. Về trang phục, dân tộc Dao thường sử dụng trang phục với chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng... Các dân tộc trong xã đều có tín ngưỡng chung là thờ cúng tổ tiên thể hiện tinh thần hướng về cội nguồn, được thực hiện trang nghiêm và lưu truyền từ đời này qua đời khác; con cháu khi đến tuổi trưởng thành đều được dựng vợ, gả chồng; gia đình có người mất được tổ chức làm đám ma, gia đình có điều kiện thì sau khi chôn cất vài 12
  13. năm sau tiếp tục làm ma (còn gọi là làm ma khô). Ngày nay, được sự quan tâm, đầu tư mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước cùng sự cố gắng của nhân dân làm cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc không ngừng được nâng cao, các lễ hội truyền thống của các dân tộc đã từng bước được khôi phục. Việc giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc được chú trọng; việc đưa văn hóa truyền thống vào trường học cho thế hệ trẻ được tích cực triển khai. Nhân dân các dân tộc xã Tùng Bá vốn có truyền thống lao động cần cù, chịu khó, cùng với đó do điều kiện tự nhiên, nguồn nước, đất đai, khí hậu có nhiều thuận lợi nên việc phát triển kinh tế nông nghiệp, trong đó nghề trồng lúa nước là nghề sản xuất lâu đời của người dân nơi đây. Ngoài ra, đồng bào còn trồng ngô, hoa màu, các loại cây ăn quả... Nhân dân xã cũng đã sớm chú trọng phát triển chăn nuôi với nhiều loại gia súc, gia cầm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Năm 1887, chúng căn bản hoàn thành việc chiếm đóng đến Hà Giang và áp đặt hệ thống cai trị hà khắc. Tại xã Tùng Bá, chúng sử dụng bộ máy tay sai làm công cụ. Do đó, đời sống của người dân xã Tùng Bá vốn đã cùng cực dưới chế độ phong kiến lạc hậu, hà khắc nay lại phải sống dưới chế độ thực dân phong kiến ngày càng trở nên khó khăn hơn. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2