intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Già quá sớm, khôn quá muộn

Chia sẻ: Nguyễn Thanh Hải | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:81

239
lượt xem
143
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

uLà một nhà tâm thần học đã ba mươi năm lắng nghe những bí mật và rắc rối sâu kín nhất của nhiều người, tác giả đã viết một cuốn sách thấu hiểu, sắc sảo và đầy tính thuyết phục về những điều mà tất cả chúng ta đều có thể chia xẻ – đó chính là những điều mà mỗi người chúng ta đều gắng bám giữ khi chúng ta cố sống hết mình trong phần đời đã qua.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Già quá sớm, khôn quá muộn

  1. GIÀ QUÁ SỚM, KHÔN QUÁ MUỘN Gordon Livingston, Tiến sĩ y khoa Đỗ Thu Hà dịch Tên sách: Già quá sớm, khôn quá muộn Tác giả: Gordon Livingston Người dịch: Đỗ Thu Hà Thể loại: Tâm lý Giáo dục Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin Năm xuất bản: 5-2005 Khổ: 13x19 cm --------------------- Đánh máy (TVE): binhnx2000, dqskiu, lyenson, quocdung Sửa chính tả (TVE): rfidquyen Chuyển sang ebook: tovanhung (TVE) Ngày hoàn thành: 8/8/2006 http://www.thuvien- ebook.com Lời nói đầu Của Elizabeth Edwards Chương 1 Nếu bản đồ không hợp với địa hình có nghĩa là bản đồ sai. Chương 2 Chúng ta là những điều mà chúng ta thực hiện Chương 3 Thật khó để xoá bỏ một điều bằng lô gích khi nó ra đời t ừ s ự phi lý Chương 4 Những rắc rối thời thơ ấu có thể khiến người ta vượt ra khỏi giới hạn thông th ường Chương 5 Người ít lo lắng nhất là người kiểm soát được mối quan hệ Chương 6 Cảm xúc theo sau hành vi Chương 7 Hãy can đảm và có thể sức mạnh sẽ đến với bạn Chương 8 Sự hoàn hảo là kẻ thù của những gì tốt đẹp Chương 9 Hai câu hỏi quan trọng nhất của cuộc sống là «t ại sao có?» và «t ại sao không?». V ấn đ ề là ph ải đ ặt ra câu h ỏi nào. Chương 10 Điểm mạnh nhất của chúng ta cũng chính là điểm yếu nhất Chương 11 Nhà tù an toàn nhất chính là nhà tù do chúng ta t ự xây nên. Chương 12 Vấn đề của những người lớn tuổi thường nghiêm trọng nhưng ít khi thú vị Chương 13 Hạnh phúc là sự liều lĩnh thượng hạng. Chương 14 Tình yêu chân chính là quả táo trên vườn địa đàng. Chương 15 Chỉ những điều tồi tệ mới xảy ra nhanh chóng. Chương 16 Không phải tất cả những ai lang thang đều lạc đường Chương 17 Tình yêu đơn phương thì đau đớn và không lãng mạn Chương 18 Không có gì vô ích và thông thường hơn là làm những đi ều t ương t ự mà l ại mong đ ợi có k ết qu ả khác nhau Chương 19 Chạy trốn sự thật là vô ích Chương 20 Nói dối chính mình là đáng thương Chương 21 Tất cả chúng ta đều hướng tới huyền thoại về một người xa lạ hoàn hảo Chương 22 Tình yêu không bao giờ mất đi, ngay cả trong cái chết Chương 23. Không ai thích bị người khác sai bảo. Chương 24 Ưu điểm lớn của sự ốm đau là nó giúp người ta lẩn tránh bổn phận. Chương 25 Các bậc phụ huynh có một khả năng hạn chế trong việc t ạo nên tính cách con cái, nếu không ph ải là làm cho nó t ồi t ệ h ơn. Chương 26
  2. Chúng ta thường sợ những điều sai trái Chương 27 Thiên đàng thực sự là thiên đàng mà chúng ta đã mất Chương 28 Trong số các hình thức của sự can đảm, khả năng hài hước là khả năng cơ b ản nh ất. Chương 29 Sự khoẻ mạnh về tinh thần đòi hỏi quyền tự do lựa chọn Chương 30 Sự tha thứ là một hình thức bỏ qua nhưng chúng không giống nhau hoàn toàn
  3. Lời nói đầu
  4. Của Elizabeth Edwards Tám năm qua, Gordon Livingston là một trong những người quan trọng nh ất đ ời tôi, th ế mà tôi m ới ch ỉ gặp ông có m ột l ần. C ả hai chúng tôi đều không còn trẻ nhưng chúng tôi là những người được hưởng lợi từ kiểu giao ti ếp c ủa nh ững ng ười tr ẻ tu ổi: Chúng tôi g ặp nhau trên Internet, qua một cộng đồng trên mạng giành cho những bậc cha mẹ bất hạnh. Ông và m ột số người khác chính là nh ững ng ười mà tôi c ần khi con tôi m ất, những người thực sự hiểu khoảng trống mà tất cả chúng ta đang rơi vào, và đang c ố g ắng – đôi khi n ửa v ời đ ể bám gi ữ. Không lời nào kể hết sự hùng biện của Gordon có ý nghĩa như th ế nào trong những tháng ngày đó. Chính Gordon đã r ơi vào tình hu ống khó khăn không bút nào tả xiết tương tự hai lần. Tôi đã được Chúa Trời ban phước khi may m ắn được Gordon Livingston giúp đ ỡ v ới s ự ch ỉ d ẫn đúng đắn và sự thông cảm ấm áp. Mặc dù những lời của ông có vẻ khẳng định nhưng Gordon không thuy ết giáo hay đánh giá: Ông soi sáng n ơi tôi đang đứng để tôi có thể thấy mình và thế giới xung quanh rõ h ơn và rồi ông th ắp sáng và giúp tôi th ấy đ ược nh ững b ước đi trong cu ộc s ống mà tôi cần để có được cuộc sống có ích hơn. Cài mà tháng năm dạy tôi về Gordon Livingston là dù tình hình có t ồi tệ đến đâu cũng không thành v ấn đ ề, nh ững đi ều mà chúng tôi chia x ẻ giống như là cô bé Alice ở xứ sở kỳ diệu. «Tôi quá nhỏ hoặc tôi quá lớn, không có gì gi ống nh ư l ẽ ra nó ph ải nh ư v ậy» - Gi ọng nói th ực t ế c ủa Gordon Livingston thể hiện m ột trí tuệ vĩ đại hơn cả chính cuộc đ ời phi thường c ủa ông đã th ể hi ện. Bài vi ết trong cu ốn sách này đem l ại cho đ ộc giả một điểm nhìn mà tôi là người may mắn được hưởng trong vòng tám năm qua. Đây chính là cu ốn sách mà t ất c ả chúng ta đ ều có th ể ti ếp c ận khi chúng ta cần một giọng nói quan tâm – như tôi th ường lần gi ở tập thư đi ện t ử và th ư qua b ưu đi ện – khi tôi c ần m ột gi ọng nói ch ắc ch ắn và đáng tin cậy, đầy hy vọng nhưng không phải lúc nào cũng sẵn lòng đưa ra sự b ảo đ ảm. Ông đã từng vi ết cho tôi r ằng: «T ất c ả nh ững đi ều mà tôi biết là cái mà tôi cảm thấy và hy vọng». Đó chính là những l ời mà Gordon Livingston th ường nói. D ường nh ư ông bi ết t ất c ả nh ững đi ều mà tôi và bạn cảm nhận và hy vọng, điều gì là chân thực và điều gì có thể đạt được. Gordon Livingston cũng tiếp t ục là m ột phi công: «Tôi hy v ọng r ằng khi máy đo tốc không khí tới sáu m ươi, tôi vẫn có thể kéo cần lái và mọi sự sẽ ổn thỏa. Tôi có những nhà v ật lý đ ể gi ải thích cho tôi hàng trăm l ần v ề điều đó. Bernoulli là người hoàn toàn đúng. Nhưng nó dường như là m ột phép lạ». Và nh ững l ời nói đó là đúng đ ắn b ởi vì dù nh ững tr ải nghi ệm của ông rất đau đớn, Gordon Livingston vẫn giữ được niềm tin vào nh ững ai ngây th ơ trong trắng. Như tôi đã nói với các bạn, những bài viết của Gordon Livingston khiến tôi nhớ tới một phim truy ền hình: «B ạn c ủa b ạn s ẽ không nói v ới b ạn… Nhưng chúng ta không như vậy và chúng ta sẽ nói». Phải, có thể đó chính là nh ững đi ều mà ng ười bạn thật sự sẽ làm: Nói nh ững đi ều h ơi khó nghe mà chúng ta cần biết để trở nên m ạnh mẽ hơn, tốt hơn, hào hi ệp hơn, can đ ảm h ơn, t ử tế h ơn. Có th ể là không d ễ ch ịu khi nghe nh ững l ời mà Gordon Livingston phải nói. Ông sẽ kéo bạn ra khỏi chi ếc ghế thoải mái mà bạn mong đợi được ngồi và xem TV cho đ ến khi ánh sáng v ụt t ắt – t ất nhiên là vì sự tốt đẹp của chính bạn rồi. Đồng thời, ông cảnh báo chúng ta rằng chúng ta có th ể ki ểm soát đ ược r ất ít, ông nh ắc chúng ta nh ớ r ằng chúng ta không bao giờ có th ể tránh khỏi h ậu qu ả của sự l ựa ch ọn c ủa chính mình. Giống nh ư m ột b ậc ph ụ huynh thông thái, ông ch ỉ cho chúng ta hướng đi đúng…Với một chiếc găng tay bằng nhung. Gordon Livingston và tôi tới từ những th ế gi ới khác nhau và chúng tôi có nh ững tri ển v ọng v ề cu ộc s ống khác nhau. Th ậm chí ngay c ả khi chúng tôi đang làm một vấn đề chung, chúng tôi v ẫn bất đồng – về một vài v ấn đ ề trong các bài vi ết này ch ẳng h ạn. Tôi đánh giá cao vi ệc ông đã bày t ỏ những tranh luận của mình một cách rất lịch thi ệp, không có s ự áp đ ặt và b ất l ịch s ự nh ư th ường x ảy ra trong nh ững cu ộc tranh lu ận đ ương đ ại. Tuy nhiên, trước sự cương quyết của tôi mỗi khi chúng tôi bất đồng, ông vẫn cố g ắng hết m ức để bảo vệ ý ki ến c ủa mình. Tôi rất hài lòng khi có cơ hội để viết lời nói đầu này, để giới thiệu về Gordon Livingston v ới những ai còn ch ưa bi ết đ ược tài năng đ ặc bi ệt c ủa ông. Và trên hết, tôi rất biết ơn khi một lần nữa có d ịp nh ắc l ại nh ững l ời c ủa con trai Gordon Livingston nói v ới cha mình khi c ậu bé sáu tu ổi đang hấp hối nơi giường bệnh (những phép lạ của y học đã không xảy ra mặc dù cha con c ậu xứng đáng đ ược h ưởng): «Cha ơi, con r ất yêu gi ọng nói của cha». Là một người yêu thương nồng nhiệt con trẻ, một luật sư bào chữa đầy tài năng. ELIZABETH EDWARDS rất năng động trong nhiều hoạt động cộng đồng và từ thiện, bao gồm cuộc diễu hành quyên góp March of Dimes, University of North Carolia, Board of Visitors, Sách cho trẻ em, Quĩ Wade Edwards Foundation. Bà là v ợ của John Edwards và là m ẹ c ủa b ốn đ ứa con: Wade đã m ất năm 1996, Cate, Emma Claire và Jack.
  5. Chương 1
  6. Nếu bản đồ không hợp với địa hình có nghĩa là bản đồ sai. Đã lâu lắm rồi, khi tôi còn là m ột thi ếu úy trẻ trong phi đoàn số 82. Lúc ấy tôi đang c ố g ắng đ ịnh h ướng t ại vùng Fort Bragg, North Carolina. Khi tôi đang nghiên cứu bản đồ, thượng sĩ của trung đội tôi, một cựu chiến binh trong số các hạ sĩ quan ti ến lại g ần: «Thi ếu úy đã tìm ra n ơi chúng ta đang đứng chưa?», anh ấy hỏi. Tôi trả lời: «Theo bản đồ thì chỗ này lẽ ra ph ải có m ột ng ọn đ ồi ở đây nh ững tôi không trông th ấy nó, th ưa ngài». Anh ấy nói: «Nếu bản đồ không hợp với địa hình thì có nghĩa là bản đồ sai». Ngay lúc ấy tôi cũng bi ết là mình v ừa m ới nghe th ấy m ột chân lý c ơ bản. Nhiều năm nay tôi thường lắng nghe câu chuyện của những người khác, đặc biệt là khi có chuyện gì rắc rồi, tôi đã học đ ược r ằng con đ ường mà chúng ta đi trong cuộc đời bao gồm những n ỗ lực khiến cho những chi ếc b ản đồ mà chúng ta t ự vẽ ra trong đ ầu mình phù h ợp v ới đ ịa hình mà chúng ta đang đi. Về lý thuyết, đi ều này xảy ra khi chúng ta khôn l ớn. Cha mẹ chúng ta d ạy chúng ta, ch ủ y ếu là qua nh ững ví d ụ, nh ững đi ều mà h ọ biết. Không may mắn thay, hiếm khi chúng ta có thể chấp nhận hoàn toàn nh ững bài h ọc này. Thường th ường, qua cu ộc sống c ủa cha m ẹ chúng ta, chúng ta biết thật vô ích đ ể làm một cuộc đi ều tra hay b ắt chước vì phần l ớn nh ững đi ều chúng ta bi ết đ ều t ới qua m ột ti ến trình th ử nghi ệm và l ầm lạc đau đớn của chính chúng ta. Hãy lấy ví dụ về một nhiệm vụ quan trọng trong cuộc sống mà hầu hết chúng ta đều có th ể sử dụng nh ững l ời ch ỉ d ẫn là l ựa ch ọn và s ống cùng bạn đời. Sự thật chỉ ra rằng hơn một nửa các cuộc hôn nhân đã chấm dứt trong ly hôn và nói chung, chúng ta không đ ược gi ỏi giang l ắm khi th ực hiện bổn phận này. Khi chúng ta xem xét mối quan hệ của cha m ẹ chúng ta, chúng ta cũng th ấy khó mà ch ắc ch ắn v ề đi ều đó. Tôi th ấy r ất ít ng ười thỏa mãn với những điều họ thấy trong gia đình họ, thậm chí ngay cả khi những cu ộc hôn nhân c ủa cha m ẹ h ọ có kéo dài hàng th ập k ỷ đi n ữa. Thông thường, những người có cha mẹ vẫn đang sống cùng nhau mô tả mối quan hệ của h ọ nh ư là một cái gì đó đáng chán, nh ững sự c ộng sinh đầy mâu thuẫn có mùi vị kinh tế mà thiếu sự vui sướng và thỏa mãn về tình c ảm. Có thể là việc dự đoán một người sẽ như thế nào và chúng ta sẽ thích họ đến mức nào sau năm năm (ít h ơn nhi ều so v ới năm m ươi năm – khoảng thời gian ta định sống với họ sau khi cưới) là không thể được và chúng ta buộc phải chấp nhận m ột sự thực rằng xã h ội đang bi ến chuy ển theo hướng hôn nhân chỉ có một vợ một chồng nối tiếp nhau. Chúng ta cũng nh ận thức ra r ằng m ọi ng ười luôn thay đ ổi và th ật là ngây th ơ đ ể mong đợi tình yêu thời tuổi trẻ kéo dài mãi. Vấn đề là ki ểu hôn nhân một v ợ một chồng liên ti ếp thì không ph ải là mô hình th ật t ốt cho vi ệc nuôi d ạy con cái bởi vì nó không cung cấp sự chắc chắn và an toàn mà đứa trẻ cần phải có để nó b ắt đầu xây dựng nh ững t ấm b ản đồ riêng c ủa mình v ề vi ệc cu ộc sống hoạt động như thế nào. Chúng ta đã quen nghĩ về tính cách theo m ột h ướng. «Anh ta là ng ười có cá tính» ch ẳng h ạn – là m ột l ời tuyên b ố v ề vi ệc m ột ng ười có v ẻ thân thiện và vui vẻ. Trong thực tế sự định nghĩa thật sự về cá tính phải bao gồm c ả thói quen suy nghĩ, c ảm xúc l ẫn m ối quan h ệ v ới ng ười khác. H ầu hết mọi người trong chúng ta biết là mọi người khác nhau về những đặc đi ểm nhất định: Sôi n ổi, thích các chi ti ết, khoan dung cho s ự bu ồn chán, sẵn lòng giúp đỡ người khác, lòng quyết tâm và vô số những tính cách khác nữa… Cái mà h ầu hết m ọi ng ười không nh ận th ức ra, tuy nhiên, chính là phẩm chất mà chúng ta đánh giá cao: Sự tử tế, lòng khoan dung, kh ả năng cam k ết v ới ng ười khác – thì l ại là s ự phân b ố không ph ải là ng ẫu nhiên. Chúng có xu hướng tồn tại như những nét tính cách mà ch ỉ có th ời gian và s ự duy lý m ới có th ể nh ận th ức ra đ ược. Nói một cách khác, những đặc tính ít đáng mong đợi hơn như: Sự bốc đồng, coi mình là trung tâm, d ễ n ổi gi ận thì l ại th ường t ạo thành nhóm mà ta có thể nhận ra được. Chúng ta thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát tri ển và giữ vững những m ối quan h ệ cá nhân là so s ự thi ếu hi ểu biết về bản thân và cả những người khác, chính những cá tính đó đã khi ến ng ười ta tr ở thành m ột ứng viên t ồi cho nh ững m ối quan h ệ g ắn bó m ật thiết. Nghề bác sĩ tâm thần là phân loại những rối loạn về nhân cách. Tôi thường nghĩ r ằng ph ần này của cu ốn sách c ủa chúng ta đ ặt tên là «nh ững người cần tránh». Rất nhiều nhãn hiệu mà người ta gán cho những người như vậy: Nào là lập dị, ích k ỷ, tự ái, ph ụ thuộc và vân vân t ạo nên m ột danh sách về những ng ười gây khó chịu nh ư đa nghi, ích kỷ, đ ộc đoán, bóc l ột ng ười khác…Đây là nh ững ng ười mà m ẹ b ạn th ường c ảnh báo bạn (đôi khi không may mẹ bạn lại chính là người như vậy). Họ hiếm khi tồn tại dưới dạng mà ng ười ta có th ể dễ dàng nh ận bi ết theo th ống kê nhưng khổ nỗi, biết làm thế nào để nhận ra họ sẽ giúp cho bạn khỏi bị đau lòng nhi ều phen. Tôi nghĩ rằng cũng rất có ích nếu chúng ta có thể lập ra một cuốn sổ tay về nh ững tính cách quí báu mô t ả nh ững ph ẩm ch ất đáng đ ược nuôi dưỡng trong chính con người chúng ta và để tìm ra bạn bè và ng ười chúng ta yêu. Trên h ết phải là lòng t ốt, s ự tình nguy ện hi ến dâng vì ng ười khác. Phẩm chất đáng mơ ước này vượt lên trên các tính cách khác, bao g ồm cả kh ả năng th ương người và bi ết yêu. Nh ững đ ịnh h ướng sai l ầm nh ất trên tấm bản đồ cuộc đời của chúng ta chính là cảm giác buồn rầu, sự giận dữ, sự phản bội, s ự nhạc nhiên và s ự m ất ph ương h ướng. Khi nh ững cảm xúc này hiện lên trên bề mặt là lúc chúng ta cần nghĩ về khả năng định hướng lại của trí tu ệ c ủa chúng ta và làm th ế nào đ ể s ửa ch ữa nó. C ầu mong chúng ta không lặp l ại mô hình c ủa những ng ười đã lãng phí th ời gian để nh ận ra r ằng chúng ta ch ỉ có s ự an ủi duy nh ất khi chúng ta th ất b ại là những kinh nghiệm đau đớn.
  7. Chương 2
  8. Chúng ta là những điều mà chúng ta thực hiện Mọi người thường tới chổ chúng tôi xin thuốc. Họ đã quá mệt mỏi về tâm trạng bu ồn rầu, mệt mỏi và mất h ết s ự quan tâm đến nh ững đi ều trước đó đã từng đem lại cho họ niềm vui sống. Hoặc là họ không ngủ được hoặc là họ ngủ suốt ngày; họ bi ếng ăn hay ăn quá đ ộ. H ọ luôn phi ền lòng và hay đãng trí, thường thì họ ước chết quách cho rảnh nợ. Họ khó nh ớ ra nổi đi ều gì có th ể làm cho h ọ h ạnh phúc. Tôi đã lắng nghe những câu chuyện của họ. Tất nhiên là những câu chuy ện đó khác nhau nh ưng th ường cùng m ột ch ủ đ ề. Nh ững ng ười khác trong gia đình sống những cuộc sống chẳng có gì là đáng sống. Mối quan hệ của h ọ th ường là đ ầy xung đ ộng ho ặc thi ếu sự say mê và thân thi ết. Ngày trôi qua đối với họ thật tẻ nhạt: vi ệc làm không tho ả mãn, ít b ạn bè, nhi ều sự bu ồn chán. H ọ c ảm th ấy mình tách r ời kh ỏi nh ững ni ềm vui mà người khác đang được hưởng. Đây chính là điều tôi đã nói với họ: Đi ều tốt lành là chúng ta có những cách đi ều trị có hi ệu quả cho nh ững tri ệu ch ứng tuy ệt v ọng, tin t ức t ồi t ệ là thuốc men vẫn không khiến cho bạn hạnh phúc được. Hạnh phúc không đơn gi ản ch ỉ là sự v ắng thi ếu n ỗi tuy ệt v ọng. Nó chính là m ột tr ạng thái tích cực trong đó cuộc đời của chúng ta giàu ý nghĩa và ni ềm vui. Cho nên chỉ thuốc men không thì khó mà đủ được. Mọi người cần phải nhìn nhận cách sống của mình b ằng con m ắt khác. Chúng ta luôn luôn nói về những gì chúng ta muốn và dự định làm. Đó chỉ là những mơ ước và sự khát khao và chúng có rất ít giá tr ị trong vi ệc thay đ ổi tâm tr ạng c ủa chúng ta. Chúng ta không phải là đi ều mà chúng ta nghĩ, nói hay c ảm th ấy. Chúng ta là đi ều mà chúng ta th ực hi ện. Nói th ẳng ra, khi đánh giá ng ười khác, chúng ta không nên chú ý đến điều họ hứa mà nên chú ý đến điều họ c ư x ử. Luật đơn giản này có thể ngăn ch ặn r ất nhi ều nổi đau đ ớn và s ự hiểu lầm; ảnh hưởng đến mối quan hệ của con người, «Khi tất cả điều nói ra đều được làm thì s ẽ có nhiều đi ều đáng nói h ơn là nh ững đi ều đã được làm đó». Chúng ta đang chết chìm trong lời nói, rất nhi ều l ời nói đã hoá thành nh ững l ời nói d ối đ ối v ới chính mình và ng ười khác. Đã bao nhiêu lần chúng ta cảm thấy bị phản bội và ngạc nhiên khi tìm ra khoảng trống gi ữa l ời nói c ủa mọi ng ười và hành đ ộng c ủa chính h ọ tr ước khi ta học được cách chú ý nhiều hơn đến việc làm hơn là lời nói? Hầu hết nh ững sự đau lòng ch ứa đ ựng trong cuộc s ống của chúng ta chính là k ết qu ả của việc thờ ơ với sự thật, rằng: lối cư xử trong quá khứ của một người là yếu tố dự đoán đáng tin cậy nh ất v ề l ối c ư x ử trong t ương lai. Woody Allen đã từng nói một câu nổi tiếng r ằng: «Ta có thể nhìn th ấy trước tám m ươi ph ần trăm cu ộc đời c ủa m ột ng ười». Chúng ta th ường t ỏ ra can đảm trong vô số cách để đáp ứng bổn phận của mình hoặc th ử nghiệm nh ững đi ều m ới mẻ có th ể cải thi ện cu ộc s ống c ủa mình. Nhi ều người trong chúng ta sợ liều lĩnh và thích sự rõ ràng, sự việc có thể dự đoán đ ược và sự l ặp đi l ặp l ại. Đi ều này gi ải thích c ảm giác bu ồn chán quá mức được coi là đặc tính của thời đại chúng ta. Những nỗ lực tuyệt vọng để vượt qua nó chính là hi ện t ượng khao khát được gi ải trí và khi đ ược tích luỹ lại, chúng trở thành vô nghĩa. Chính câu trả lời cho câu hỏi «Vì sao?» đang đè nặng lên h ầu h ết chúng ta. T ại sao chúng ta l ại ở đây? T ại sao chúng ta lựa chọn cuộc sống như thế này? Tại sao lại phải quan tâm? Câu trả l ời tuy ệt v ọng đ ược ch ứa đ ựng trong m ột cái phanh hãm r ất ph ổ biến là «Gì cũng được». Nói chung, cái chúng ta đạt được, không ph ải là cái chúng ta x ứng đáng mà là cái chúng ta mong đ ợi. Hãy h ỏi m ột c ầu th ủ thành công v ề môn bóng chày khi anh ta bước tới ch ổ cái đĩa và bạn sẽ nghe th ấy nh ững đi ều nh ư: «Tôi đang mang cái này xu ống ph ố đây!» N ếu b ạn ch ỉ ra r ằng những người đánh bóng giỏi nhất trong trò chơi thường ăn điểm được hai trong ba cú đánh thì bất cứ c ầu th ủ nào ch ơi t ốt cũng đ ều tr ả l ời r ằng: «Phải, nhưng đây là lượt chơi của tôi». Ba yếu tố của hạnh phúc là có điều gì đó để làm, người nào đó để yêu và điều gì đó đ ể mong đ ợi. N ếu chúng ta có nh ững công vi ệc có ích, những mối quan hệ dễ chịu và sự hứa hẹn về sự hài lòng thì khó mà không hạnh phúc! Tôi sử dụng chữ «công vi ệc» đ ể tương ứng v ới b ất kỳ m ột hoạt động nào, được trả lương hay không nhưng đem lại cho chúng ta một cảm giác về tầm quan trọng cá nhân c ủa chính mình. N ếu chúng ta có một công việc mang tính chuyên nghiệp có thể đem lại một ý nghĩa cho cu ộc s ống c ủa chúng ta, đó chính là công vi ệc c ủa đ ời ta. Nh ờ s ự đóng góp vào sự đa dạng của cuộc sống con người mà ta có thể tìm thấy sự hài lòng và ý nghĩa trong vi ệc n ỗ l ực ở m ột sân gôn hay t ại bàn ch ơi bài bridge. Hãy nghĩ đến những vấn đề về giao thông nếu tất cả chúng ta đều thích vi ệc đó, có sao đâu! Việc xác định thế nào là «tình yêu» là m ột vấn đề khó khăn. B ởi vì c ơ s ở c ủa c ảm giác đó r ất huy ền bí ( T ại sao tôi l ại yêu ng ười này mà không phải là người kia?), người ta rút ra kết luận rằng lời nói không thể nào so sánh được với ý nghĩa của chúng trong tình yêu c ủa m ột ng ười nào đó. Bạn nghĩ thế nào về định nghĩa này của tôi. «Chúng ta yêu người nào đó khi tầm quan tr ọng v ề nhu c ầu và khao khát c ủa anh ta hay cô ta ngang bằng với mức độ của những nhu cầu và khao khát đó của chính chúng ta ». Trong nh ững tr ường h ợp t ốt nh ất, t ất nhiên, m ối quan tâm c ủa chúng ta đối với lợi ích của một người nào khác vượt quá hay trở nên không thể tách rời nh ững đi ều mà chúng ta mu ốn cho chính mình. M ột câu h ỏi mà tôi thường dùng để giúp cho mọi người trở nên cương quyết nếu họ yêu một người nào đó th ực s ự là «bạn có th ể đ ỡ đ ạn cho ng ười này không?» Điều này có vẻ như vượt quá tiêu chuẩn thông thường bởi vì chỉ một số ít người trong chúng ta buộc phải đương đ ầu với m ột sự hy sinh lớn đến như vậy và sẽ không ai trong chúng ta có thể chắc chắn liệu mình sẻ làm gì nếu khao khát t ự vệ của chúng ta bu ộc ph ải va ch ạm v ới tình yêu dành cho người khác của mình. Nhưng việc tưởng tượng ra tình huống đó có thể làm rõ đ ược b ản chất c ủa s ự g ắn bó gi ữa chúng ta v ới m ột ng ười nào đó. Số người mà chúng ta sẽ xem xét việc hy sinh bản thân mình để cứu thật ra rất h ạn ch ế: con chúng ta, ch ắc r ồi, ch ồng ho ặc v ợ c ủa chúng ta, hay một người được chúng ta yêu, có thể. Nhưng nếu chúng ta không thể tặng món quà đó, làm sao chúng ta có th ể gi ả v ờ yêu h ọ đ ược? Thông thường, cảm xúc về tình yêu hay sự thiếu vắng nó th ật đáng chú ý trong cách mà chúng ta bày t ỏ r ằng m ột ng ười nào đó quan tr ọng đ ối v ới chúng ta, đặc biệt là qua số lượng và chất lượng thời gian mà chúng ta s ẵn sàng dành cho h ọ. Vấn đề là tình yêu được bày tỏ qua hành vi. Thêm một lần nữa, chúng ta ph ải xác định mình là ai, chúng ta quan tâm đ ến ai và cái gì, không ph ải qua cái chúng ta hứa mà là điều chúng ta làm. Tôi th ường phải hướng mọi người chú ý đến vấn đề này. Chúng ta là lo ại động v ật có ngôn t ừ, vi ệc dùng ngôn từ để giải thích và cả lừa đảo nữa rất thông dụng. S ự lừa g ạt tồi t ệ nh ất, t ất nhiên, là l ừa g ạt chính mình. Chúng ta tin vào cái gì có quan hệ gần gũi với nhu cầu mà chúng ta cảm thấy trong sâu kín lòng mình - ch ẳng hạn nh ư gi ấc m ơ mà t ất c ả chúng ta th ường mang theo v ề m ột tình yêu hoàn hảo, sự chấp nhận không hoàn hảo về điều gì chỉ có sẵn từ một ng ười mẹ tốt. Sự khao khát này làm chúng ta r ất d ễ b ị t ổn th ương, nh ững dạng thức tồi tệ nhất là sự tự lừa gạt mình và ảo tưởng, một hy vọng cho rằng cu ối cùng chúng ta đã tìm th ấy con ng ười s ẽ yêu chúng ta mãi mãi, chính xác như chúng ta yêu họ. Do đó khi một người nào đó giả vờ làm và nói những điều mà chúng ta mong đ ợi từ lâu, ch ẳng có gì đáng ng ạc nhiên khi chúng ta b ỏ qua những thái độ cư xử không thích hợp khác. Khi tôi nghe th ấy một người nào đó nói: «Anh ấy làm những đi ều không hay nh ưng tôi bi ết anh ấy yêu tôi», tôi luôn luôn hỏi lại rằng điều đó có phải là hành động cố tình làm tổn th ương ng ười nào đó mà ta yêu không. Chúng ta có làm đi ều sai đó v ới chính mình không? Liệu chúng ta có thể yêu một chiếc xe tải chẹt phải chúng ta không? Một vấn đề khác là tình yêu thật sự đòi hỏi chúng ta lòng can đảm vì ph ải trở nên hoàn toàn d ễ b ị t ổn th ương tr ước ng ười khác. S ự li ều lĩnh đó
  9. quá hiển nhiên. Ai mà không từng bị tan vỡ trái tim do nhầm lẫn khi trao ni ềm tin cho ng ười khác? Nh ững v ết th ương lòng nh ư v ậy đã khi ến cho nhiều người trong chúng ta có thái độ cay đắng về tình yêu, nó phá ho ại nh ững m ối quan h ệ của chúng ta và s ản sinh ra nh ững trò c ạnh tranh khi ến chúng ta cạn kiệt lòng tin vào nhau. Thường thì mọi người hay lựa chọn giữa sự cô đơn hoàn toàn và s ự tự l ừa dối. Gi ữa hai tình tr ạng này, ở đâu đó, h ạnh phúc c ủa chúng ta đang ngủ yên. Rốt cuộc, chúng ta đã được chuẩn bị để nhận cái mà chúng ta đã trao. Đó là t ại sao có m ột chút s ự th ật trong quan ni ệm r ằng t ất c ả chúng ta đều lấy người chúng ta xứng đáng hay đáng đời để nhận và đó là lý do t ại sao h ầu h ết nh ững s ự không hài lòng tho ả mãn v ới ng ười khác thường phản ánh những giới hạn trong bản thân chúng ta.
  10. Chương 3
  11. Thật khó để xoá bỏ một điều bằng lô gích khi nó ra đời từ sự phi lý Theo kinh nghiệm của tôi, các bác sĩ vật lý tr ị liệu đã lãng phí quá nhiều th ời gian đ ể c ố thuy ết ph ục m ọi ng ười không c ư x ử m ột cách phi lý, bệnh hoạn hay có vẻ khó hiểu. Chẳng hạn như một người vừa đi làm vi ệc về và câu đ ầu tiên anh ta bu ột ra là: «Tr ời ơi, ch ỗ này b ừa b ộn quá!». Con cái anh ta bỏ đi còn bà vợ, cũng vừa đi làm về lại còn phải đi đón con, phát khùng lên. Bu ổi t ối hôm đó là m ột s ự kh ởi đ ầu t ồi t ệ. Khi nghe câu chuyện này, ông bác sĩ bèn phê phán rằng thật sai lầm khi bạn phê bình m ột ng ười v ợ đang m ệt m ỏi sau m ột ngày làm vi ệc dài lê thê. Ai cũng đ ồng ý rằng điều quan sát của ông bác sĩ là đúng nh ưng anh chồng không thay đ ổi đ ược thói quen đó c ủa mình, đ ơn gi ản là anh ta ch ỉ thay đ ổi v ấn đ ề s ẽ bị đưa ra phê phán mà thôi. Hai con người đó cứ tiếp t ục chung sống trong s ự b ất h ạnh và s ự xung đ ột c ủa h ọ v ẫn ti ếp t ục. Chuyện gì đang xảy ra ở đây? Tại sao người ta không ch ịu hiểu rằng phê phán ch ỉ tạo ra s ự b ất h ạnh và nh ững h ậu qu ả x ấu? T ất nhiên là không thể có câu trả lời duy nhất cho vấn đề này, bởi vì khi ta phải đương đầu với những thói quen hay thái đ ộ cư x ử đã lâu, lô gích ít khi có hi ệu quả. Những điều chúng ta làm, những định kiến là chúng ta đã có sẵn, nh ững xung đ ột l ặp đi l ặp lại và ảnh h ưởng đ ến cu ộc s ống c ủa chúng ta hiếm khi là sản phẩm của những suy nghĩ có lô gích. Trong thực tế, chúng ta thực hiện các hoạt động trên đời này h ầu nh ư trong s ự tác đ ộng vô thức, hôm nay ta thường làm những đi ều đã được làm mà không hề có hiệu quả của hôm qua. Người ta thường nghĩ r ằng ti ến trình h ọc t ập hay trưởng thành dần dần sẽ khiến chúng ta thay đổi lối cư xử của mình để đối phó với những h ậu qu ả không mong đ ợi. B ất kỳ ai theo dõi m ột ng ười chơi gôn bình thường lúc anh ta đang chơi sẽ bi ết rằng đi ều này là không đúng. Trong thực tế, đôi khi chúng ta có vẻ như bị kẹt trong lối sống không có hi ệu qu ả mà không ch ịu nh ớ t ới câu cách ngôn mà ng ười ta th ường dạy ở trong quân đội: Nếu một điều không có hiệu quả, bạn hãy nghi ng ờ nó. Những mục đích và các thói quen nằm ẩn phía sau hầu hết những cư xử của chúng ta hiếm khi đi theo lô gích; chúng ta thường b ị điều khiển theo c ảm hứng, các định kiến và những c ảm xúc mà chúng ta ch ỉ l ờ m ờ nhận biết. Trong thí dụ đã nói ở trên, người đàn ông về nhà nhưng thâm tâm đã không hài lòng v ới công vi ệc c ủa mình hay m ệt m ỏi vì đi l ại. Anh ta mong mỏi có thể kiểm soát phần nào đó cuộc sống vốn cứ rối tung điên khùng của mình. Bước vào nhà, anh ta hy v ọng có th ể có ch ốn yên thân thì l ại phải đương đầu với những sự lộn xộn và trách nhiệm nhiều hơn. Đó không phải là cuộc sống mà anh ta thường m ơ ước. Nhưng li ệu ai là ng ười phải chịu trách nhiệm? Nếu hầu hết cư xử của chúng ta bị cảm xúc chi phối dù chúng có thể mơ hồ đến mức nào, thì khi chúng ta mu ốn thay đ ổi b ản thân, chúng ta ph ải có khả năng xác định những nhu cầu cảm xúc của mình và tìm cách để tho ả mãn chúng mà không xúc ph ạm đ ến nh ững ng ười mà h ạnh phúc c ủa họ phụ thuộc vào chúng ta. Nếu chúng ta mong muốn được đối xử tốt và khoan dung (vì h ầu h ết m ọi ng ười chúng ta đ ều mu ốn v ậy), thì chúng ta c ần phải chăm lo cho sự hình thành những đức tính như thế trong chính bản thân mình. M ỗi khi tôi nói chuy ện v ới nh ững c ặp v ợ ch ồng đang xung đ ột, tôi nhận ra rằng những khát khao của họ thật quá giống nhau: được kính trọng, được lắng nghe, đ ược c ảm th ấy là trung tâm cu ộc s ống c ủa bạn đ ời. Liệu chúng ta còn muốn gì hơn thế trong mối quan hệ? Đó chính là cái mà m ọi ng ười đ ịnh nói t ới khi h ọ nghĩ v ề tình yêu. Người ta thường nói rằng câu «Muốn nhận thì hãy cho», «Gieo cái gì g ặt cái đó» ch ỉ là nh ững l ời nói c ửa mi ệng sáo r ỗng. Th ế thì cái gì có th ể đúng hơn thế? Tại sao điều đó lại khó làm đến thế? Giống như hầu hết nh ững l ời giải thích v ề vi ệc t ại sao chúng ta l ại hành đ ộng nh ư chúng ta đã làm, câu trả lời nằm trong những trải nghiệm của chúng ta trong quá kh ứ. Khi còn là trẻ con, chúng ta t ự cho mình cái quyền ti ếp nhận tình yêu vô đi ều ki ện c ủa cha m ẹ. Nh ưng r ất ít ng ười mà tôi đã ti ếp xúc c ảm th ấy h ọ đã nhận được tình yêu như vậy. Trái lại, hầu hết ký ức trẻ thơ thường chất đầy cảm giác về m ột trách nhi ệm bắt buộc đ ể «làm cho b ố m ẹ tôi hài lòng» - bằng những thành công ở trường, tránh xa nh ững rắc rối, kết hôn v ới ng ười thích h ợp và sinh ra các cháu cho ông bà. Th ực ra thì nhi ều điều trong số đó chính là do các bậc phụ huynh cảm thấy mình phải có trách nhiệm với con cái mình. B ằng cách ch ấp nh ận cu ộc s ống và s ự chăm sóc, trong thực tế, một đứa trẻ cảm th ấy mình mắc nợ bố mẹ đến mức chỉ khi chúng đáp ứng lòng mong m ỏi c ủa h ọ, chúng m ới có th ể tr ả đ ược món nợ sinh thành này. Rất nhiều điều đã tạo nên gánh nặng cho việc làm cha mẹ. Bắt đầu bằng việc mang nặng đ ẻ đau, s ự m ất ng ủ vì nuôi con th ơ, trách nhi ệm dường như vô hạn để tổ chức cuộc sống, sự căng thẳng trong tuổi vị thành niên c ủa con, lao đ ộng khó nh ọc đ ể chu c ấp cho h ọc phí vào các trường cao đẳng và đại học… Mỗi giai đoạn của cuộc sống là ngọn ngu ồn c ủa những gì cha m ẹ th ường phàn nàn, h ọ coi đó nh ư m ột s ự t ử vì đ ạo. Thế thì liệu có gì đáng ngạc nhiên không khi người ta có thể có cảm giác nào đó v ề b ổn ph ận đáp l ại v ề phía con cái? Câu hỏi: «Tôi nợ bố mẹ tôi những gì?» thường giày vò cuộc sống của con ng ười và đôi khi suốt cả khi tr ưởng thành. Trong thực tế, con cái chúng ta chẳng nợ chúng ta cái gì hết . Chính chúng ta đã quyết định sinh chúng ra đời. Nếu chúng ta yêu chúng và chu c ấp cho nh ững yêu c ầu c ủa chúng thì đó là vì nghĩa vụ làm cha làm mẹ của chúng ta ch ứ không ph ải là một hành đ ộng quên mình nào đó. Ngay t ừ đ ầu, chúng ta đã bi ết r ằng chúng ta nuôi chúng để rồi chúng sẽ rời b ỏ chúng ta và nghĩa vụ c ủa chúng ta là giúp chúng làm đi ều này mà không c ảm th ấy nó là gánh n ặng do cảm giác về lòng biết ơn vô hạn và món nợ không sao trả nổi. Những gia đình làm đúng chức năng thường rất khéo cư xử khi cho con ra ở riêng. Nh ững gia đình th ực hi ện ch ức năng t ồi th ường có xu hướng giữ con lại với mình. Khi tôi đến những gia đình có con cái tiếp tục chung sống với bố m ẹ, th ường là trong s ự b ất h ạnh, mãi không tr ưởng thành lên, tôi có cảm giác rằng những xung đột và sự lo lắng phải chia lìa cứ b ị bàn đi bàn l ại mà không sao gi ải quy ết n ổi, ảo ảnh th ường đ ược người ta chia sẻ có vẻ như là: «Chúng ta cứ tạm giữ tình trạng như thế này cho đến khi chúng ta tìm ra gi ải pháp». Đôi khi, đi ều đó không bao gi ờ xảy ra. Tôi biết có những gia đình mà con cái đã hai mươi hay ba m ươi tu ổi mà cha m ẹ v ẫn không sao ng ủ đ ược cho đ ến khi «m ấy đ ứa nh ỏ» v ề đến nhà. Ở nơi đó, những cuộc tranh luận về những việc vặt trong nhà c ứ xảy ra và gi ờ ăn ph ản ánh sự mong ch ờ c ủa cha m ẹ quay tr ở l ại v ới quá khứ và một nỗi sợ của con cái về tương lai không còn phụ thuộc của mình. Có một loại cam k ết đ ể không thay đ ổi trong gia đình. Nh ững ng ười tr ẻ tuổi đánh đổi cơ may trở nên tự lập để đổi l ấy sự an toàn trong m ột môi tr ường quen thu ộc, nh ư tr ẻ con ch ỉ đ ể đ ảm b ảo v ới cha m ẹ r ằng h ọ không cần phải rũ bỏ trách nhiệm mà con cái họ đã quen lệ thuộc vào. Trong những gia đình như vậy, vai trò trở nên quen thuộc, được xác định rõ ràng và người ta có ấn tượng là đang xem một vở k ịch đ ược di ễn tập rất kỹ, trong đó mỗi diễn viên đã trở nên quá quen thuộc với vai di ễn đ ến n ối ý nghĩa v ề vi ệc h ạ màn và làm vi ệc khác đã khu ấy lên trong lòng h ọ một nỗi lo lắng quá độ. Cuối cùng, trong khi tranh đấu để vượt qua những lối cư xử bệnh hoạn bằng cách sử dụng lô gích, ng ười ta th ường ph ải đ ương đ ầu v ới th ực tế là sự thờ ơ vô hình. Con người có thể trở nên gắn bó với những quan đi ểm riêng của mình về vấn đề mọi vi ệc nên ho ạt đ ộng nh ư th ế này đ ến nỗi họ trở nên thờ ơ với sự đương nhiên rằng thay đổi là cần thiết.
  12. Chương 4
  13. Những rắc rối thời thơ ấu có thể khiến người ta vượt ra khỏi giới hạn thông thường Những câu chuyện về cuộc đời của chúng ta, khác xa với những chuyện được k ể lại m ột cách ổn đ ịnh, th ường đ ược ôn đi ôn l ại liên t ục. Nh ững sợi chỉ mỏng manh của mối quan hệ nhân quả đã được d ệt đi dệt lại và được kể lại khi chúng ta c ố g ắng gi ải thích cho chính mình và nh ững ng ười khác việc chúng ta đã trở thành con người hiện nay như thế này. Khi tôi lắng nghe những câu chuyện k ể v ề quá kh ứ, tôi th ực s ự ấn t ượng v ề cách mà mọi người nối tiếp những gì họ trải qua trong thời thơ ấu với con ng ười của họ hi ện nay. Vậy chúng ta nợ lý lịch cá nhân của mình điều gì? Chắc chắn là chúng ta được tạo nên bởi những chi ti ết đó và ph ải h ọc nh ững bài h ọc t ừ chúng nếu chúng ta muốn tránh lặp lại những sai lầm ngu ngốc thường làm chúng ta cảm thấy nh ư m ắc b ẫy trong v ở k ịch kéo dài mà chúng ta chính là tác giả. Mỗi người Mỹ trưởng thành bộc lộ một cách đầy đủ đối với môn tâm lý học nói chung rằng anh ta ho ặc cô ta có xu h ướng n ối m ối liên h ệ gi ữa những triệu chứng hiện tại với những khó khăn trong quá khứ. Bởi vì sự chịu trách nhi ệm đối v ới những vi ệc chúng ta đã làm và chúng ta c ảm th ấy thế nào đòi hỏi một sự tự nguyện, đương nhiên là người ta có khuynh hướng đổ l ỗi cho nh ững ng ười có quan h ệ v ới mình trong quá kh ứ, nh ất là cha mẹ vì đã không làm nhiệm vụ của mình tốt hơn. Nếu có những rắc rối nghiêm trọng về thể xác, tình d ục hay tâm lý, đi ều quan tr ọng là chúng ta ph ải nh ận th ức và khai tri ển chúng. Không có đ ứa trẻ nào có thể trốn chạy mà không bị thương tổn khỏi sự lạm dụng hay thờ ơ của cha m ẹ. Điều quan tr ọng là khi chúng ta đ ề c ập đ ến v ấn đ ề đó, ta nên thông cảm và nhấn mạnh rằng nên rút ra những bài học nh ưng chúng ta không tán thành vi ệc đ ưa ra k ết lu ận r ằng nh ững tr ải nghi ệm kinh khủng nhất sẽ tác động đến chúng ta vĩnh viễn. Đổi thay là điều quan trọng thiết yếu của cuộc sống. Nó là mục đích của tất cả những cuộc đối thoại tâm lý học đ ể chữa b ệnh. Đ ể ti ến trình đó thuận lợi, đơn giản là hãy tránh xa việc phàn nàn. Mọi ng ười th ường h ỏi tôi t ại sao tôi không chán ng ấy lên v ới vi ệc l ắng nghe nh ững l ời k ể l ể than vãn bất tận của bệnh nhân về cuộc sống của họ. Câu trả lời, tất nhiên, là vi ệc phàn nàn về vi ệc ng ười ta cảm th ấy như th ế này, v ề nh ững thái đ ộ c ư xử lặp đi lặp lại nảy sinh ra những kết quả bất hạnh quá nhàm chán, l ại chính là bước đầu của ti ến trình thay đ ổi. Câu h ỏi ưa thích c ủa tôi khi đi ều tr ị bệnh là «Thế điều gì xảy ra ti ếp theo?» (Tôi có một màn hình nh ỏ trên chi ếc máy vi tính đ ể bàn ghi dòng ch ữ này ở d ạng đang nh ấp nháy, h ướng v ề phía bệnh nhân). Câu trả lời nhấn mạnh sự tự nguyện thay đổi cũng như sức mạnh để làm đi ều đó. Nó v ượt qua s ự t ự th ương h ại v ốn bám vào nh ững r ắc r ối đã xảy ra trong quá khứ và nhận thức ra tầm quan trọng của việc tiếp nhận nh ững cu ộc đối tho ại có định h ướng, v ề n ội tâm, và một m ối quan h ệ lành mạnh trong việc thay đổi lối cư xử của bệnh nhân. Tôi không đưa ra nhiều lời khuyên trong khi điều trị b ệnh- không phải vì quá khiêm t ốn hay nh ư m ột m ẹo đ ể khi ến cho b ệnh nhân t ự đ ưa ra cách giải quyết đối với các vấn đề của họ. Tôi làm như vậy chính là vì hầu nh ư tôi ch ưa có ý tưởng rõ ràng về đi ều mọi ng ười c ần ph ải làm đ ể c ải thi ện cuộc đời. Tuy nhiên, tôi có thể ngồi cùng họ trong khi h ọ đi tìm gi ải pháp. Công việc c ủa tôi là gi ữ cho h ọ ti ếp t ục công vi ệc, ch ỉ ra nh ững m ối quan hệ mà tôi nghĩ là tôi thấy giữa quá khứ và hiện tại, băn khoăn về những động cơ ẩn d ưới nh ững mối quan h ệ đó và nh ấn m ạnh s ự t ự tin vào năng lực của chính họ để đưa ra những giải pháp thích hợp với cuộc đời họ. Đây là một kiểu đào tạo mới. Mọi người thường tới bác sĩ tâm lý với hy vọng rằng tôi s ẽ là ngu ồn đ ịnh h ướng thông thái v ề cái h ọ c ần ph ải làm. Tóm lại, chúng ta đi khám bệnh để họ kê đơn cho chúng ta. Chúng ta được hu ấn luyện để trông chờ những gi ải pháp t ức th ời. C ảm th ấy t ồi t ệ ư? Uống thuốc này. Ý tưởng cho rằng chúng ta phải ngồi và nói về các vấn đ ề mình đang ph ải đ ương đ ầu và nh ững đi ều chúng ta đã c ố làm và th ất bại đã áp đặt một tiến trình chậm chạp và vứt bỏ sự than vãn lên l ối sống của chúng ta. Ti ến trình đó có m ột c ốt lõi mà nhi ều ng ười không th ể ch ấp nhận nổi: Chúng ta phải chịu trách nhiệm về hầu hết những đi ều xảy ra đ ối v ới chúng ta . Có một kẽ hở rất hẹp mà nhà tâm lý học trị liệu phải bước qua ở đây. Tất cả chúng ta ph ải chịu đ ựng các s ự kiện và m ất mát mà chúng ta không có quyền lựa chọn. Những điều đó bao gồm cả gia đình mà từ đó chúng ta đã sinh ra, cách mà chúng ta b ị c ư x ử khi còn nh ỏ, cái ch ết và s ự chia lìa của những người gần gũi đối với chúng ta… Không khó để đ ưa ra một tr ường h ợp mà chúng ta b ị ảnh h ưởng b ởi các s ự ki ện và nh ững người ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Những nỗ lực tái định hướng của nhà tâm lý học trong cu ộc trò chuyện đối v ới nh ững l ựa ch ọn trong t ương lai có th ể b ị b ệnh nhân coi là không công bằng và có định kiến. Đây là nơi tầm quan trọng của sự hợp tác với bác sĩ tâm lý lớn nhất. Bệnh nhân c ần đ ược thuy ết ph ục r ằng ng ười bác sĩ đó đang đứng về phía mình. Tâm lý học trị liệu, nếu được làm một cách hoàn hảo là sự kết h ợp của cả sự tự thú, làm cha m ẹ và c ả t ư v ấn qua nh ững tr ải nghi ệm. Không có một bác sĩ tâm lý nào là hoàn hảo cho mọi người. Mỗi người có những nhu cầu cá nhân khi ến cho họ thích h ợp với m ột bác sĩ nào đó. Thêm vào đó, người bác sĩ mang kinh nghiệm của bản thân anh ta hay cô ta đ ến cùng v ới sự đánh giá và lý thuy ết v ề s ự thay đ ổi đ ối v ới quá trình ch ữa b ệnh. Thường thì những cố gắng giao tiếp đó có kết quả nhưng đôi khi làm hại cho bệnh nhân. Cũng giống như trong m ọi m ối quan h ệ gi ữa con ng ười và con người, khó có thể xác định và dự đoán cái gì sẽ thật sự có hiệu quả. Phẩm chất của một bác sĩ phản ánh phẩm chất của m ột b ậc phụ huynh t ốt: kiên nh ẫn, thông c ảm, có kh ả năng yêu th ương và m ột kh ả năng l ắng nghe không có định kiến. Cũng gi ống nh ư các bậc cha mẹ phản ứng khác nhau v ới nh ững đ ứa con khác nhau, các bác sĩ cũng hành ngh ề c ủa mình tốt hơn với những bệnh nhân nhất định. Cái mà hầu hết chúng ta đều ng ần ng ại th ừa nh ận là chúng ta có xu h ướng s ẵn lòng giúp đ ỡ h ơn đ ối với những người họ yêu quí chúng ta. Định kiến hiếm khi được nhận thức này đã tạo nên những cảm giác mang tính lô gích. Chúng ta ít hi ệu qu ả trong quan hệ đối với các bác sĩ nếu chúng ta bị bỏ vào một đất nước xa l ạ, thậm chí ngay c ả khi chúng ta bi ết ngôn ng ữ c ủa h ọ. S ự k ết h ợp tinh t ế giữa văn hoá sẽ nhiều hơn và sự mong đợi sẽ trốn tránh chúng ta. Cũng nh ư v ậy, trong xã h ội của chính chúng ta, m ọi ng ười s ống nh ững cu ộc đ ời rất khác nhau phục thuộc vào, chẳng hạn, dòng giống và nền tảng xã hội c ủa h ọ. Thật là kiêu ng ạo đ ể mà rút ra k ết lu ận r ằng b ất c ứ ai trong s ố chúng ta cũng có thể làm việc tốt với tất cả mọi người. Khi một người nào đó tới nhờ tôi giúp đỡ, một trong nh ững điều tôi th ường t ự h ỏi khi b ắt đ ầu bi ết anh ta hay cô ta là li ệu r ằng tôi có thích hay dần trở nên yêu thích con người đó hay không. Nếu tôi th ấy mình chán và b ị xúc ph ạm b ởi câu chuy ện c ủa m ột b ệnh nhân, tôi bi ết là đã đ ến lúc đ ể nhẹ nhàng gợi ý rằng anh ta hay cô ta sẽ có tiến triển tốt hơn khi làm việc v ới người khác. Chẳng hạn nh ư tôi th ấy c ảm giác b ất l ực và nó c ứ gi ữ nguyên như vậy thì khó mà làm việc với người đó. Nếu tôi thấy mình đã hết sinh lực và lòng l ạc quan hay n ếu tôi th ấy mất hy v ọng đ ể làm ng ười đó thay đổi thì đó chính là lúc nên dừng lại. Nếu người tôi đang cùng làm vi ệc khi ến tôi nh ớ đ ến b ố mẹ tôi hay m ột ng ười mà tôi có mâu thu ẫn, ho ặc một cô gái đã từng từ chối tôi khi tôi còn trẻ, tôi biết là mình đang ở vào m ột ch ỗ nguy hi ểm. Cuối cùng, nếu người tôi đang nói chuyện có vẻ như đã quá gắn bó v ới quá khứ và không s ẵn lòng đ ể t ạo m ột t ương lai t ốt đ ẹp h ơn thì tôi s ẽ
  14. nhanh chóng trở nên thiếu kiên nh ẫn. Đó là n ơi mà lòng tốt b ị đặt nh ầm ch ỗ ngay cả khi đ ược ng ười ta đánh giá đúng vì nó ch ỉ đem l ại cho ng ười ta sự thông cảm. Tôi chỉ có niềm hy vọng khi tôi đang gắng rao bán tri thức của mình. Sau m ột lo ạt n ỗ l ực mà tôi v ẫn không th ể thuy ết ph ục đ ược người ta mua hàng thì tôi đang lãng phí thời gian của cả hai ng ười chúng tôi.
  15. Chương 5
  16. Người ít lo lắng nhất là người kiểm soát được mối quan hệ Tôi chú ý đến hôn nhân vì nó là sự ủng h ộ quan trọng trong cu ộc sống c ủa chúng ta. Đề tài bàn tán chung c ủa m ọi ng ười là hôn nhân đang tr ở nên sự tranh giành quyền lực; trong thực tế, có vẻ nh ư hôn nhân đã là nh ư v ậy ngay t ừ khi kh ởi đ ầu. V ấn đ ề mà cu ộc tranh giành đ ặt ra th ường r ất quen thuộc - tiền bạc, con cái, tình dục-nhưng những nguyên nhân ngầm ẩn phía sau th ường là lòng t ự tr ọng b ị xúc ph ạm hay nh ững mong đ ợi được thoả mãn. Cố gắng tìm ra một người bạn đời là quan trọng hơn so v ới khái ni ệm tình yêu lãng m ạn, m ột thiên đ ường trên trái đ ất (hay là m ột ảo m ộng b ị tiêu tan). Đây là cơ sở của hầu hết những câu chuyện mà chúng tôi đã đ ược nghe v ề vi ệc cái gì là ph ương ti ện đ ể đ ạt đ ến h ạnh phúc. Cái cách mà mọi người đến với nhau và lựa chọn lẫn nhau đã khiến người ta coi sự kết h ợp giữa lôi cu ốn v ề m ặt tình d ục và m ột lo ạt l ợi ích t ự thân là quan trọng; nó giúp người ta đi đến đánh giá người khác qua một loạt những phẩm chất và thành tựu: giáo d ục, kh ả năng ki ếm ti ền, nh ững l ợi ích có th ể chia xẻ cùng nhau, sự đáng tin cậy và cách nhìn cu ộc sống. Cách ti ếp c ận c ủa m ỗi ng ười đ ối v ới ng ười đ ược cho là có tri ển v ọng tr ở thành b ạn đời của họ đã tạo ra một loạt những sự mong đợi khác nhau và họ sử dụng những tiêu chuẩn này đ ể tìm ki ếm. S ự tan rã c ủa các m ối quan h ệ thường do sự thất vọng khi không đạt được những mong đợi này gây ra. Nếu công thức này có vẻ như bị phân tích quá mức độ và bị coi là thờ ơ với tiến trình huyền bí của việc «phải lòng nhau» thì đó là b ởi vì theo kinh nghiệm của tôi, cái «chất hoá học» đã khiến cho chúng ta chọn người nào đó trong tất c ả nh ững ng ười có ti ềm năng khác có th ể đ ược nhìn thấy khi chúng ta hồi tưởng lại. Nó là sự kết hợp giữa sự sẵn lòng, d ục vọng và hy v ọng h ơn là m ột s ự k ết h ợp m ạnh m ẽ gi ữa hai tâm h ồn. Tôi v ẫn ước giá mà có thể tin vào điều sau nếu có chứng cớ t ồn t ại chắc chắn hơn về nó. Trong số những điềm gở và sự ti ết lộ bí mật, sự phát triển trong hôn nhân hi ện đ ại đã gia tăng s ự ph ổ bi ến c ủa nh ững b ản tho ả thu ận hôn nhân. Một khi liên quan đến những người rất giàu có, bản hợp đồng này đã trở nên thông d ụng trong s ố nh ững ng ười mu ốn b ước vào hôn nhân sau khi họ đã vất vả tích luỹ mọi thứ và họ ngần ngại khi phải chia sẻ chúng với người b ạn đ ời c ủa mình. Tho ạt nhìn, lý do cho vi ệc b ảo v ệ nh ững gì mà b ạn mang tới khi kết hôn nghe có vẻ hoàn toàn hợp lý. Thường thì mỗi bên có con v ới ng ười h ọ mu ốn đ ể l ại quy ền th ừa k ế c ủa c ải. H ầu h ết nh ững người đã từng trải qua một kinh nghiệm ly hôn, rất đắt đỏ về mặt tài chính và tình cảm, thì đ ều nh ận th ức rõ v ề nh ững con s ố th ống kê ch ỉ ra r ằng cuộc hôn nhân lần thứ hai hay thứ ba thậm chí còn có t ỉ lệ th ất b ại cao h ơn l ần th ứ nh ất. Tuy nhiên, không có gì hay ho khi thấy m ột đôi vợ ch ồng s ắp về s ống cùng nhau mà hành động nh ư th ể là đi mua m ột chi ếc ô tô cũ. Chúng ta thường đòi hỏi làm hợp đồng với những ai mà chúng ta không tin tưởng; nh ững hợp đ ồng đó giúp chúng ta ch ống l ại nh ững ng ười mà ta s ợ s ẽ l ợi dụng mình. Việc đòi có một bản thoả thuận như vậy từ người chúng ta mong đ ợi là sẽ yêu th ương h ọ và h ọ yêu th ương ta th ực ra đã ph ản ánh m ột quan điểm rất đáng phê phán về mối quan hệ đó, dự đoán sự thất bại, và giống nh ư hầu hết nh ững mong đ ợi, đi ều đó th ường tr ở thành hi ện th ực. Luật pháp đã dần dần phát triển dựa trên quan điểm này đ ể «nh ững s ự khác bi ệt không th ể che gi ấu» và «nh ững cu ộc ly hôn không sai sót» s ẽ thay thế nền tảng có tính chất truyền thống hơn khi cha ông chúng ta mu ốn ch ấm d ứt m ột cu ộc hôn nhân. Tuy nhiên, nhu c ầu đ ể tìm ra lý do cho s ự chia lìa thường có kết quả là người ta đổ lỗi cho nhau - điều đó càng trở nên đặc bi ệt bất hạnh trong nh ững cu ộc ly hôn có liên quan đ ến tr ẻ em. Khi các cuộc hôn nhân trượt dài sang sự xa lạ thù địch, hiếm khi chúng trở thành một ti ến trình hài hoà. Th ường thì m ột bên t ỏ ra ít b ộc l ộ tình cảm và sự kính trọng hơn bên kia. Điều này có vẻ như là một cách để nắm quyền kiểm soát m ối quan h ệ. N ỗ lực này có thành công hay không có thể thấy khi một bên có sự đầu tư lớn hơn vào trong mối quan hệ và thất vọng nhi ều hơn v ới vi ễn c ảnh khi vi ệc hôn nhân ch ấm d ứt. Tôi th ường giúp mọi người thấy rõ rằng hầu hết những sự đau đớn thất vọng của họ không hề được người b ạn đ ời chia s ẻ và đó chính là lý do tại sao h ọ không kiểm soát được tình hình, họ thường nhanh chóng nhận ra sai l ầm c ủa mình. Trong khi muốn lập nên một mối quan hệ phải cần hai người thì chỉ cần một người là có thể chấm dứt mối quan hệ đó. Khi tôi đọc những thông báo về hôn nhân và xem những b ức hình về các cặp v ợ ch ồng m ới c ưới đang m ỉm c ười, tôi hi ểu r ằng không ai nói v ới họ rằng: «Bạn có biết cơ hội của cuộc hôn nhân này không nhiều hơn 50:50 không? Đi ều gì khi ến b ạn nghĩ r ằng b ạn s ẽ giành đ ược m ặt th ắng c ủa đồng xu?». Những câu hỏi như vậy không ai có thể nghĩ ra trong khi mắt h ọ đang l ấp lánh với ngôi sao c ủa tình yêu, cho nên là ng ười ta không h ỏi. Nền tảng của sự thất vọng và bội phản đã sẵn sàng. Một hành động l ạc quan tếu, can đ ảm hay ngu ng ốc, ph ụ thu ộc vào quan đi ểm c ủa b ạn, là khuyến khích người ta theo đuổi niềm hy vọng và những bóng ma kh ủng khi ếp c ủa t ương lai bu ộc ph ải câm l ặng.
  17. Chương 6
  18. Cảm xúc theo sau hành vi Khi mọi người tới xin các bác sĩ giúp đỡ họ, họ đang tìm kiếm cách thay đổi l ối suy nghĩ c ủa mình. Li ệu r ằng h ọ có ph ải đ ấu tranh v ới nh ững n ỗi buồn đang xâm chiếm của sự tuyệt vọng, sự căng thẳng và lo l ắng, hay h ọ ch ỉ mu ốn đ ỡ căng th ẳng và quay tr ở l ại v ới cu ộc s ống bình th ường. Những cảm xúc không mong muốn đang can thiệp vào những lĩnh v ực quan trọng trong cuộc sống c ủa h ọ. Th ường thì kh ả năng c ủa h ọ có th ể đáp ứng với trách nhiệm. Đôi khi, họ cũng phải chịu đựng sự thiếu khả năng tìm kiếm sự hài lòng: cuộc sống của họ toàn nh ững s ự nghiêm túc, h ọ đã đánh mất khả năng mỉm cười. Hầu hết mọi người đều biết cái gì là tốt cho họ, họ biết cái gì làm họ cảm th ấy tốt h ơn: s ự t ập luy ện. những thú vui gi ải trí, th ời gian v ới nh ững ai mà họ quan tâm. Họ không tránh những điều này vì thờ ơ với những giá tr ị của chúng mà b ởi vì chúng không còn h ợp v ới m ục đích c ủa h ọ n ữa. H ọ chờ đợi cho tới khi cảm thấy tốt hơn. Thường thì đây sẽ là một sự ch ờ đợi kéo dài. Dù chúng ta cố gắng nhi ều đ ến mức nào thì chúng ta vẫn không th ể ki ểm soát đ ược vi ệc chúng ta c ảm th ấy nh ư th ế nào hay chúng ta nghĩ cái gì. Những nỗ lực để làm điều đó sẽ khiến chúng ta tức phát điên khi cố gắng chống lại nh ững suy nghĩ và c ảm xúc không mong mu ốn theo những cách mà chỉ càng làm cho chúng trở nên trầm trọng. May mắn thay, cuộc sống đã dạy chúng ta rằng nh ững hành vi cư x ử nh ất đ ịnh có th ể mang lại cho chúng ta những sự hài lòng và thỏa mãn theo d ự đoán. Với ki ến thức này, ng ười ta đã cho chúng ta c ơ h ội đ ể phá v ỡ tình tr ạng do ăn không ngồi rồi gây ra và những cảm xúc về sự vô nghĩa và tuyệt vọng có liên quan đến nó. Khi m ọi người b ảo tôi r ằng h ọ c ảm th ấy tuy ệt v ọng vô mục đích, tôi vạch rõ rằng họ có thể bước ra khỏi giường, mặc quần áo và lái xe đến gặp tôi. Nếu h ọ có thể làm được đi ều đó, nh ững ho ạt đ ộng khác sẽ làm cho họ cảm thấy khoẻ mạnh hơn và điều đó hiển nhiên là có tính khả thi. Nếu họ nói rằng làm những điều mà họ không thích là khó khăn, tôi th ừa nhận đi ều này là đúng và h ỏi l ại r ằng li ệu khó cũng đ ồng nghĩa v ới «không thể» không. Rất nhanh sau đó, chúng tôi nói về những điều như lòng can đ ảm và sự quy ết tâm. M ọi ng ười hi ếm khi liên t ưởng đ ến nh ững phẩm chất này khi họ đề cập đến trị liệu về tâm lý. Trong thực tế, những phẩm chất này là s ự đòi hỏi nh ững thay đổi b ổ sung đ ối v ới cách chúng ta đang sống. Yêu cầu mọi người phải can đảm tức là mong đợi họ nghĩ về cuộc sống c ủa chính mình theo m ột cách m ới. Nhưng bất cứ sự thay đổi nào cũng đòi hỏi chúng ta phải thử nghi ệm những đi ều m ới, luôn luôn phải li ều lĩnh v ới kh ả năng chúng ta có th ể th ất bại. Một câu hỏi khác mà tôi thường hỏi bệnh nhân cửa mình là «Anh đang c ứu chính mình vì cái gì?» Trong n ỗ l ực c ủa chúng ta nh ằm đ ền bù và giúp đỡ những người đang phải chịu đựng sự lo lắng và tuyệt vọng và cải thiện những điều ki ện này, chúng ta đã coi nh ững tâm tr ạng này ngang bằng với sự ốm yếu về thể xác vốn đòi hỏi phải chữa trị bằng thuốc. Đúng là những loại thu ốc ch ống tr ầm c ảm hiện nay đã ch ứng t ỏ hi ệu qu ả n ổi bật của chúng. Mặt khác của việc tiếp cận vấn đề theo y học là chúng ta đã tìm ra th ực ch ất c ủa th ứ b ệnh đó chính là s ự tr ốn tránh trách nhi ệm. Bệnh này thường được gọi là sự ngây thơ hoá của bệnh nhân. đôi khi nằm li ệt gi ường liệt chi ếu, phó m ặc m ọi s ự và đ ể cho thu ốc men t ự đi ều chỉnh cơ thể. Cách làm này chỉ có tính tạm thời và người bệnh không th ấy lỗi c ủa chính mình trong vi ệc không ki ểm soát đ ược cu ộc s ống c ủa chính họ, trở nên thụ động và khước từ một cơ hội để hàn gắn những vết thương lòng với sự giúp đỡ c ủa y h ọc. Trong khi ti ến trình này ti ếp t ục ng ười ta có thể mong đợi rất ít từ phía người bệnh. Không may thay, theo kinh nghi ệm c ủa tôi, ti ến trình này th ường là ph ản tác d ụng. Rất dễ để xem xét làm thế nào mà chúng ta rơi vào tình trạng bị trói buộc như thế này. Trong thực tế, rõ ràng là cách gi ải quy ết đ ối v ới s ự r ối loạn về cảm xúc có cơ sở mang tính di truyền. Chứng nghiện rượu chẳng hạn, di truy ền trong gia đình và s ản sinh ra nh ững thay đ ổi có tính th ảm hoạ trong cơ thể của chúng ta. Những thay đổi đó có thể giết chết chúng ta n ếu chúng ta ti ếp t ục u ống r ượu. Do v ậy, li ệu nó có gi ống nh ư m ột chứng bệnh như viêm phổi hay tiểu đường không? Nếu đúng như vậy, liệu có công b ằng không khi mong đ ợi nh ững ng ười u ống r ượu không ki ểm soát nổi bản thân để có thể làm bất cứ một điều gì mà họ luôn ở tình trạng tuy ệt v ọng khi phải đ ối m ặt với tình tr ạng c ủa chính h ọ? Sự chữa trị thành công chứng nghiện rượu và những chứng nghiện khác đã chỉ ra rằng nh ững ng ười mắc b ệnh buộc phải làm m ột đi ều gì đó, ví dụ như từ chối uống rượu hay dùng những chất gây nghiện để kiểm soát tình tr ạng c ủa h ọ. Ph ương pháp có hi ệu qu ả nh ất đ ể ch ấm d ứt đi ều này là thông qua sự giúp đỡ của nhóm do các tổ chức như Những người nghiện rượu vô danh hay Những người nghiện ma tuý vô danh với niềm tin cơ bản là mỗi người nghiện có trách nhiệm ngừng dùng các chất kích thích vì ng ười ta không thể vi ện lý do, đ ổ l ỗi cho ng ười khác đ ược. Ai đã sống với những kẻ nghi ện rượu có nghĩa là thường xuyên phải ở trong tình trạng ch ịu đ ựng m ột ch ứng b ệnh nào đó c ủa anh ta. N ếu người yêu phải chịu một chứng bệnh, liệu có công bằng không khi ta cứ năn nỉ về chuyện kiêng rượu? Điều tương tự cũng liên quan đ ến nh ững chứng rối loạn tình cảm khác. Chẳng hạn rõ ràng là người hay thay đổi v ề tâm tính chịu ch ứng lưỡng c ực trong tính cách thì cũng th ường ph ải ch ịu đựng một căn bệnh nào đó trong một bộ phận cơ th ể. Cũng là hợp lý đ ể chúng ta thúc gi ục r ằng h ọ nên s ử d ụng nh ững viên thu ốc ổn đ ịnh th ần kinh vốn là cách điều trị cho chứng bệnh này. Hay chúng ta cần ph ải ch ấp nhận rằng đây là nh ững giai đo ạn không tránh kh ỏi, m ột trong nh ững tri ệu chứng thông thường của bệnh này? Điều gì khiến cho những người mắc chứng rối loạn nhân cách có những mô hình thâm căn cố đế về lối ứng xử t ự phát, s ự thi ếu trung th ực và sự thay đổi về tính cách mang tính lưỡng cực? Liệu tình trạng bệnh tật này có đáng để người ta c ố gắng tho ả mãn m ọi cái b ệnh nhân mong mu ốn chỉ vì họ không thể tự giúp mình hay không? Vô số những vấn đề khác nhau về hành vi có gốc rễ từ việc chối bỏ trách nhi ệm đã gây ra thành nh ững ch ứng b ệnh th ật s ự. Ng ười ta th ường gọi chúng bằng những tên tắt như MPD, BPD, ADD và vân vân. Đi ều kiện cổ điển trong nh ững chứng b ệnh này đ ược ng ười ta bi ết đ ến nh ư là chứng rối loạn đa nhân cách, giờ đây trong thề giới đầy rẫy những chẩn đoán vê tâm thần học c ủa chúng ta. Ng ười ta g ọi nó là DDI - Ch ứng thái nhân cách hay còn gọi là bệnh quỉ ám. Những b ệnh này trở nên rất nổi tiếng thông qua những b ộ phim kinh d ị nh ư ba bộ mặt của Eve hay Carrie, đã mô tả hai hay ba nhân cách thay nhau chiếm quyền ki ểm soát thái đ ộ ứng x ử c ủa m ột con ng ười. MPD, th ật may m ắn là gi ờ đây đã ít m ơ h ồ hơn trong cách nhìn nhận so với vài năm trước đây, tiếp tục có những ng ười ủng h ộ mặc dù s ự thật r ằng g ần nh ư ch ắc ch ắn đây là m ột tình tr ạng bệnh hoạn trong những nhóm người có nguy cơ cao. Đây là cách đ ể ng ười ta tr ốn tránh trách nhi ệm và nó đã đ ược lu ật pháp tuyên b ố là m ột chứng cớ hợp pháp và nói chung là sau một thời gian ngắn bị kiểm soát, nh ững ng ười ph ạm tội sẽ đ ược b ồi th ẩm đoàn tha b ổng sau khi h ọ đ ược những «chuyên gia» nặng ký ủng hộ. Một ví dụ khá thông dụng gần đây là một bệnh mà người ta gọi là «dở hơi» trong ng ười l ớn là ADD- Ch ứng r ối lo ạn v ề thi ểu năng trí nh ớ. S ự vô tổ chức, những người mơ mộng giữa ban ngày giờ đây cũng đã có sự gi ải thích mang tính y học về s ự thi ếu t ập trung t ư t ưởng c ủa h ọ - AND và đưa ra một cách chữa trị có hiệu quả: những viên thu ốc kích thích trí nh ớ. Nh ững ng ười u ống thu ốc báo cáo r ằng tinh th ần c ủa h ọ ph ấn ch ấn h ơn và họ làm được nhiều việc hơn khi họ uống amphetamine. Đối với vấn đề này, tôi ch ỉ có thể tr ả l ời là «A, tôi cũng làm th ế đ ấy». Vấn đề là khi chúng ta nỗ lực đi trên những nguyên nhân thực sự cho ch ứng b ệnh c ủa mình (tuy ệt v ọng, r ối lo ạn l ưỡng c ực, tâm th ần phân li ệt), chúng ta đã tạo ra những sự mô tả quá chi tiết về những mô hình ứng x ử. Nhiều hành vi trong s ố này có v ẻ nh ư đáp ứng t ốt v ới m ột vài lo ại thu ốc nào đó khiến cho chúng ta càng tin vào và khẳng đ ịnh đó là những ch ứng bệnh. Chẳng h ạn nh ư t ừ lâu ng ười ta đã coi nh ững ng ười ph ụ n ữ b ị
  19. chồng lạm dụng là những người phụ thuộc - những người sẽ gặp rắc rối khi b ị tách r ời với kẻ đã l ạm d ụng họ. Ng ười ta th ậm chí còn dán nhãn cho chứng này là «triệu chứng về người vợ phải nạp năng lượng», chúng ta mặc nhiên coi là họ không có kh ả năng đ ể thay đ ổi tình tr ạng c ủa mình và nên nâng những tiêu chuẩn về trách nhiệm với những người khác. Không khó để nhận ra sự khinh miệt nằm ẩn trong những kết luận như vậy. Điều này gi ống nh ư khi chúng ta áp d ụng sự tho ả mãn vô đi ều ki ện cho các con mình là những bệnh nhân bị tàn tật. Qu ả th ật là chúng ta đã tạo ra một hệ th ống mà qua đó, có nh ững ng ười đ ược chính ph ủ c ấp chứng chỉ là những kẻ bị tàn tật về cảm xúc và được ưu tiên về lợi ích như th ể là họ buộc phải dính ch ặt vào xe lăn v ậy. Đi ều này là đang đ ối v ới những ai bị bệnh tâm thần thật sự vì họ không có khả năng tiếp xúc với thực tế cuộc sống và bị nh ững sự xung động v ề tâm lý không th ể ki ểm soát nổi. Khi đem điều này ra để áp dụng với những người ăn quá nhiều, u ống r ượu và các lo ại ch ất kích thích khác ho ặc nh ững ng ười dùng thu ốc đ ể làm giảm bớt sự lo lắng thì cách suy nghĩ như vậy không chỉ giúp họ giũ bỏ trách nhi ệm v ới nh ững đi ều h ọ s ẽ làm trong t ương lai mà nó còn phá hoại lòng tự trọng của con người với tư cách là một con người tự do trên trái đ ất này: Có thể tự đ ấu tranh để v ượt qua nh ững phi ền não trong tâm trí và những nghịch cảnh của cuộc đời. Giống như những phúc lợi xã hội khác, nh ững ng ười được đền bù đó cảm th ấy mình vô d ụng và không th ể chấm dứt được những cảm xúc này, làm cho cảm xúc đó tồn tại dai dẳng. Tạo ra một tình tr ạng ph ụ thu ộc th ật s ự. H ọ s ẽ tr ở nên đ ầu hàng hoàn cảnh và chính mình, nhu nhược và hèn kém. Nói một cách khác, m ột h ệ thống nh ư v ậy đã đào b ật g ốc r ễ lòng t ự tr ọng c ủa nh ững ai đang đi trên s ự giúp đỡ vô điều kiện, khẳng định một tình trạng vô dụng, phụ thuộc và tuyệt vọng. Tất c ả cái b ạn cần để ch ơi trò ch ơi đ ặc bi ệt đó là m ột m ảnh gi ấy của bác sĩ và người «bệnh» chờ đợi để có được tấm chứng chỉ từ hệ thống quan liêu xác nhận anh ta hay chị ta là ng ười «tàn t ật». Kh ỏi ph ải nói, chính các luật sư đã làm tăng tốc hệ thống này! Chính lòng quyết tâm của chúng ta nh ằm vượt qua nỗi s ợ hãi và s ự nhút nhát đã xoá b ỏ huy ền tho ại v ề tình tr ạng vô ph ương c ứu ch ữa đ ối v ới những cảm xúc không mong muốn. Một vài người hiển nhiên là có tính cách vững vàng h ơn khi ch ịu đ ựng s ự khó khăn so v ới những ng ười khác. Trong khi y học cung cấp cho chúng ta những thuốc men quan trọng, đôi khi chúng gi ống nh ư phao c ứu sinh trong c ơn nguy c ấp, m ọi ng ười cũng phải có trách nhiệm và nghĩa vụ để thay đổi hành vi của họ theo cách cho phép họ nắm được quy ền ki ểm soát nhi ều hơn đối với cu ộc đ ời mình. Vai trò là nạn nhân nói chung là thường đi kèm với sự xấu hổ và t ự trách mình. Đi ều này là đúng đ ối v ới nh ững ai ph ải ch ịu nh ững th ảm ho ạ l ớn (như chế độ nô lệ, nạn diệt chủng) hay những thử thách lớn lao mang tính cá nhân (như tội ác và b ệnh tật). Đó là tại sao mà có ranh gi ới rõ ràng giữa tình đoàn kết và sự chia xẻ đối với những nạn nhân thực sự và sự nghiêm khắc đối v ới những người tự d ồn mình vào th ế ph ụ thu ộc b ị đ ộng.
  20. Chương 7
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2