TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
Summary<br />
THE VALUE OF TUMOR MARKER HE4 AND ROMA TEST IN<br />
DIAGNOSIS OVARIAN CANCER<br />
Objective of the study was to evaluate the sensitivity and specificity of tumor marker HE4 and<br />
ROMA test in diagnosis ovarian cancer. Correlation tumor marker HE4 and ROMA test with type<br />
and stage of malignancy. The results showed that the sensitivity of HE4 were 82.5%, the spescificity of HE4 were 90%. The sensitivity of ROMA test is 95%, the spescificity of ROMA test is<br />
44,3%. HE4 is highest in serous tumors, endometrioid tumors. In conclusions, HE4 is having high<br />
value in diagnosis ovarian cancer. ROMA test is having high sensitivity.<br />
Keywords: ovarian cancer, tumor marker HE4, ROMA test<br />
<br />
GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CỦA ĐỘ CHÊNH ALBUMIN MÁU<br />
VÀ DỊCH MÀNG BỤNG TRONG CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT<br />
CỔ TRƯỚNG DO XƠ GAN VỚI CÁC NGUYÊN NHÂN KHÁC<br />
Vũ Bích Thảo1, Trần Ngọc Ánh2<br />
1<br />
<br />
Bệnh viện Bạch Mai, 2Trường Đại học Y Hà Nội<br />
<br />
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu giá trị độ chênh albumin máu - dịch màng bụng (SAAG) chẩn đoán nguyên<br />
nhân cổ trướng và mối liên quan giữa SAAG với hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Kết quả nghiên cứu<br />
cho thấy nồng độ trung bình SAAG ở BN xơ gan là 23,25 ± 7,69g/L; cổ trướng do lao hay ung thư là 7,11 ±<br />
7,95g/L. Ngưỡng cắt của SAAG để phân biệt dịch thấm hay dịch tiết là 15,2g/L (AUROC = 0,812). Ngưỡng<br />
cắt của SAAG dự báo có giãn tĩnh mạch thực quản là 18,6g/L(AUROC = 0,82), dự báo xuất huyết tiêu hóa<br />
19,7g/L(AUROC = 0,516). SAAG là xét nghiệm có giá trị phân biệt cổ trướng do tăng áp lực tĩnh mạch cửa<br />
và các nguyên nhân khác. Ở bệnh nhân xơ gan, SAAG có thể dự báo xuất hiện giãn tĩnh mạch thực quản,<br />
nhưng chưa đủ độ tin cậy dự báo xuất huyết tiêu hóa do vỡ tĩnh mạch thực quản.<br />
Từ khóa: độ chênh albumin máu dịch màng bụng, tăng áp lực tĩnh mạch cửa, xuất huyết tiêu hóa<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Tăng áp lực tĩnh mạch cửa - một trong 2<br />
hội chứng chủ yếu của xơ gan với các biểu<br />
hiện: Xuất huyết tiêu hóa, tuần hoàn bàng hệ,<br />
cổ trướng, lách to…. Xuất huyết tiêu hóa là<br />
Địa chỉ liên hệ: Trần Ngọc Ánh, Bộ môn Nội tổng hợp,<br />
trường Đại học Y Hà Nội.<br />
Email: anhtn69@yahoo.com<br />
Ngày nhận: 02/11/2013<br />
Ngày được chấp thuận: 26/4/2013<br />
<br />
44<br />
<br />
một trong những biến chứng nặng của hội<br />
chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa với tỷ lệ tử<br />
vong hàng đầu ở bệnh nhân xơ gan (25 30%) [1]. Trên lâm sàng có nhiều xét nghiệm<br />
để đánh giá hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch<br />
cửa: siêu âm, nội soi, đo áp lực tĩnh mạch<br />
cửa, tĩnh mạch trên gan, đo áp lực tại búi giãn<br />
tĩnh mạch. Song song với những thăm dò này,<br />
các tác giả còn sử dụng các chỉ số khác nhau<br />
để đánh giá tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong<br />
đó chỉ số SAAG- độ chênh albumin máu và<br />
TCNCYH 82 (2) - 2013<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
dịch màng bụng (DMB) được đề cập nhiều<br />
nhất. SAAG được công bố lần đầu tiên năm<br />
1983 bởi Runyon và cộng sự nghiên cứu trên<br />
901 bệnh nhân cổ trướng: SAAG có giá trị<br />
chẩn đoán phân biệt dịch thấm và dịch tiết với<br />
độ nhạy 96% và độ đặc hiệu 46% [2]. Runyon<br />
Donald, Hillebrand cho rằng SAAG có giá trị<br />
phát hiện tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong<br />
96.7% các trường hợp [2]. Nghiên cứu khác<br />
của Bjelakovic trên 130 bệnh nhân xơ gan và<br />
41 bệnh nhân ung thư màng bụng, tác giả<br />
nhận thấy SAAG có giá trị phân biệt dịch thấm<br />
và dịch tiết với độ nhạy cao 97.56% [3]. Trên<br />
thế giới, SAAG được áp dụng trong thực hành<br />
lâm sàng như một xét nghiệm thường quy để<br />
chẩn đoán cổ trướng do tăng áp lực tĩnh mạch<br />
cửa và các nguyên nhân khác, cũng như để<br />
đánh giá hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch<br />
cửa. Ở Việt Nam, ngay tại các bệnh viện trung<br />
ương hàng đầu như bệnh viện Bạch mai vẫn<br />
chưa áp dụng chỉ số SAAG trong thực hành<br />
và cũng có rất ít nghiên cứu đánh giá vai trò<br />
của SAAG trong chẩn đoán hội chứng tăng áp<br />
lực tĩnh mạch cửa. Vì vậy, nghiên cứu nàỳ<br />
được tiến hành nhằm mục tiêu: Tìm hiểu giá<br />
trị của SAAG trong chẩn đoán nguyên nhân cổ<br />
trướng và mối liên quan giữa SAAG với một<br />
số triệu chứng của hội chứng tăng áp lực tĩnh<br />
mạch cửa.<br />
<br />
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
1. Đối tượng<br />
178 bệnh nhân cổ trướng tại khoa Tiêu<br />
hóa bệnh viện Bạch Mai bao gồm: nhóm bệnh<br />
107 bệnh nhân cổ trướng do xơ gan và nhóm<br />
chứng; 71 bệnh nhân cổ trướng dịch tiết do<br />
lao và ung thư màng bụng, thời gian từ tháng<br />
11/2007 đến tháng 4/2012<br />
1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân<br />
Nhóm cổ trướng do xơ gan: bệnh nhân<br />
<br />
TCNCYH 82 (2) - 2013<br />
<br />
được chẩn đoán xơ gan khi có đủ hội chứng<br />
suy tế bào gan và hội chứng tăng áp lực tĩnh<br />
mạch cửa. Giai đoạn bệnh được đánh giá<br />
theo phân loại Child Pugh (1991). Mức độ<br />
giãn tĩnh mạch thực quản được đánh giá theo<br />
phân loại của hiệp hội nội soi Nhật bản. Tĩnh<br />
mạch chủ giãn khi đường kính tĩnh mạch chủ<br />
> 13 mm, tăng dòng chảy tĩnh mạch chủ khi<br />
tốc độ > 20 cm/s [2, 4, 5, 6, 7, 8]<br />
Nhóm cổ trướng dịch tiết - Lao màng bụng<br />
và ung thư màng bụng (theo tiêu chuẩn của<br />
hiệp hội cổ trướng quốc tế) bệnh nhân được<br />
chẩn đoán lao màng bụng khi có một trong<br />
các dấu hiệu sau: tìm thấy vi khuẩn lao trong<br />
dịch màng bụng, nuôi cấy vi khuẩn lao trong<br />
dịch màng bụng (+), PCR dịch màng bụng với<br />
lao trong dịch màng bụng (+), mô bệnh học<br />
xác định tổn thương lao màng bụng. Bệnh<br />
nhân được chẩn đoán ung thư màng bụng khi<br />
có một trong các dấu hiệu sau: có tế bào ác<br />
tính trong dịch màng bụng, mô bệnh học xác<br />
định tổn thương ung thư màng bụng.<br />
1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân xơ<br />
gan có cổ trướng do nhiễm trùng dịch màng<br />
bụng hoặc cổ trướng do xơ gan ung thư hóa.<br />
Bệnh nhân không làm đủ các xét nghiệm.<br />
2. Phương pháp: mô tả, tiến cứu.<br />
Xét nghiệm huyết học, sinh hóa máu, nội<br />
soi dạ dày tá tràng, siêu âm bụng được thực<br />
hiện tại bệnh viện Bạch mai. Albumin dịch<br />
màng bụng được làm tại Labo trung tâm<br />
trường Đại học Y Hà Nội.<br />
Bệnh nhân có Globulin máu < 50g/L SAAG<br />
= Albumin máu-AlbuminDMB bệnh nhân có<br />
Globulin máu > 50g/L: SAAG=[AlbuminmáuAlbuminDMB] * 0,16 + (Globulin huyết thanh +<br />
2,5) [3].<br />
Đánh giá kết quả: SAAG >11g/L- SAAG<br />
cao, SAAG 11g/L<br />
<br />
102<br />
<br />
19<br />
<br />
SAAG < 11g/L<br />
<br />
5<br />
<br />
52<br />
<br />
SAAG có giá trị chẩn đoán dịch thấm và dịch tiết với Se - độ nhạy là 95,33%, Sp - độ đặc hiệu<br />
là 73,23%; PPV - giá trị dự báo dương tính 84.29%, NPV - giá trị dự báo âm tính 91,23%<br />
Bảng 2. Mối liên quan giữa SAAG và hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa<br />
Nồng độ SAAG g/L<br />
<br />
( X ± SD)<br />
<br />
SAAG < 11 - n<br />
<br />
SAAG > 11- n<br />
<br />
A( n = 2)<br />
<br />
23,41± 6,52<br />
<br />
0<br />
<br />
2<br />
<br />
B (n = 38)<br />
<br />
25,20 ± 6,91<br />
<br />
0<br />
<br />
38<br />
<br />
C(n = 67)<br />
<br />
27,11 ± 7,22<br />
<br />
5<br />
<br />
62<br />
<br />
Giãn<br />
TMTQ<br />
<br />
Có (n = 93)<br />
<br />
25,17 ± 22,91<br />
<br />
2<br />
<br />
91<br />
<br />
Không (n = 14)<br />
<br />
20,13 ± 14,12<br />
<br />
3<br />
<br />
11<br />
<br />
ĐK<br />
TMC<br />
<br />
> 13 (n = 59)<br />
<br />
20,81 ± 7,51<br />
<br />
2<br />
<br />
57<br />
<br />
< 13 (n = 48)<br />
<br />
20,32 ± 7,62<br />
<br />
3<br />
<br />
45<br />
<br />
Tốc độ<br />
TMC<br />
<br />
> 20(n = 46)<br />
<br />
21,5 ± 5,2<br />
<br />
3<br />
<br />
43<br />
<br />
< 20 (n = 61)<br />
<br />
28,57 ± 5,1<br />
<br />
2<br />
<br />
59<br />
<br />
27,41 ± 12,11<br />
<br />
0<br />
<br />
40<br />
<br />
20,7 ± 7,21<br />
<br />
5<br />
<br />
61<br />
<br />
Child<br />
Pugh<br />
<br />
XHTH<br />
<br />
Có (n = 41)<br />
Không (n = 66)<br />
<br />
* TMTQ: tĩnh mạch thực quản: ĐKTMC: điều kiện tĩnh mạch chủ; TMC: tĩnh mạch chủ; XHTH:<br />
xuất huyết tiêu hóa.<br />
SAAG trung bình ở bệnh nhân có giãn tĩnh mạch thực quản, tốc độ tĩnh mạch chủ < 20cm/s,<br />
có xuất huyết tiêu hóa cao hơn nhóm không có giãn tĩnh mạch thực quản, tốc độ tĩnh mạch chủ<br />
> 20cm/s, không xuất huyết tiêu hóa. Tuy nhiên, sự khác nhau này không có ý nghĩa thống kê.<br />
46<br />
<br />
TCNCYH 82 (2) - 2013<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
SAAG trung bình không khác biệt ở nhóm có đường kính tĩnh mạch chủ > 13 và tĩnh mạch chủ<br />
< 13 mm. Giữa SAAG và mức độ giãn tĩnh mạch thực quản không có mối tương quan với<br />
r = -0,021. SAAG không có mối tương quan với đường kính tĩnh mạch chủ r = -0,026. SAAG có<br />
mối tương quan thuận với tốc độ tĩnh mạch chủ với r = 0,42.<br />
<br />
Biểu đồ 1. Mối liên quan SAAG với hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa<br />
ở nhóm bệnh nhân xơ gan<br />
Tỷ lệ bệnh nhân có giãn tĩnh mạch thực quản ở nhóm SAAG >11g/L cao hơn có ý nghĩa thống<br />
kê so với nhóm không có giãn tĩnh mạch thực quản.<br />
Tỷ lệ bệnh nhân có xuất huyết tiêu hóa ở nhóm SAAG >11g/L cao hơn không có ý nghĩa<br />
thống kê so với nhóm không có xuất huyết tiêu hóa Nhưng chúng tôi nhận thấy rằng ở bệnh nhân<br />
có độ chênh albumin > 18g/L tỷ lệ bệnh nhân bị xuất huyết tiêu hóa cao hơn có ý nghĩa thống kê<br />
so với bệnh nhân có độ chênh albumin < 18g/L.<br />
Bảng 3. Giá trị ngưỡng chẩn đoán dịch thấm, dịch tiết, dự báo giãn tĩnh mạch thực quản<br />
và xuất huyết tiêu hóa<br />
Chẩn đoán<br />
<br />
Cut-off<br />
<br />
Se%<br />
<br />
Sp%<br />
<br />
PPV%<br />
<br />
NPV%<br />
<br />
AUROC<br />
<br />
Dịch thấm, dịch tiết<br />
<br />
15,2<br />
<br />
76<br />
<br />
88<br />
<br />
96<br />
<br />
80<br />
<br />
0,812<br />
<br />
Giãn tĩnh mạch thực quản<br />
<br />
18,6<br />
<br />
51<br />
<br />
98<br />
<br />
90<br />
<br />
85<br />
<br />
0,82<br />
<br />
Xuất huyết tiêu hóa<br />
<br />
19,7<br />
<br />
52<br />
<br />
52<br />
<br />
64<br />
<br />
48<br />
<br />
0,516<br />
<br />
Cut-off của SAAG có giá trị chẩn đoán dịch thấm dịch tiết tối ưu trong nghiên cứu chúng tôi là<br />
15,2g/L với AUROC = 0,812. Cut-off dự báo giãn tĩnh mạch thực quản ở bệnh nhân xơ gan là<br />
18,6g/L với AUROC = 0,82. Cut-off của SAAG dự báo xuất huyết tiêu hóa ở bệnh nhân xơ gan là<br />
21,7 với AUROC = 0,516.<br />
<br />
IV. BÀN LUẬN<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi nồng độ<br />
SAAG trung bình ở nhóm bệnh nhân xơ gan<br />
là 23,25 ± 7,69g/L, nhóm bệnh nhân lao, ung<br />
thư màng bụng là 7,11 ± 7,95g/L. Sự khác biệt<br />
<br />
TCNCYH 82 (2) - 2013<br />
<br />
này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Kết<br />
quả của chúng tôi phù hợp với Bjelakovic:<br />
SAAG ở nhóm xơ gan là 21,89 ± 8,3, nhóm<br />
chứng là 11,17 ± 7,13 [3]. Khi tính toán SAAG<br />
ở bệnh nhân xơ gan chúng tôi thu được<br />
47<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
93/107 có SAAG cao, và 14/107 bệnh nhân có<br />
SAAG thấp. Nhưng khi tính SAAG hiệu chỉnh,<br />
chúng tôi thu được kết quả cao hơn 102 bệnh<br />
nhân có SAAG cao và 5 bệnh nhân có SAAG<br />
thấp. Cả 5 bệnh nhân này khi tiến hành nội soi<br />
đều có giãn tĩnh mạch thực quản ở các mức<br />
độ khác nhau và có 2 bệnh nhân đang bị xuất<br />
huyết tiêu hóa. Điều này có thể giải thích do:<br />
cả 5 bệnh nhân đều có albumin huyết thanh<br />
thấp < 20g/L, và đều có lượng huyết sắc tố<br />
< 90g/L làm cho huyết áp động mạch giảm<br />
dẫn tới áp lực tĩnh mạch cửa giảm. Trong 71<br />
bệnh nhân nhóm chứng có 19 bệnh nhân có<br />
độ chênh cao và 52 bệnh nhân có độ chênh<br />
thấp. Chúng tôi nhận thấy phần lớn những<br />
bệnh nhân có độ chênh cao đều có một phần<br />
nguyên nhân tăng áp lực tĩnh mạch cửa như<br />
suy tim, tắc tĩnh mạch trên gan, huyết khối<br />
tĩnh mạch cửa, gan nhiễm mỡ hoặc ung thư di<br />
căn gan. Điều này có ý nghĩa cho các bác sĩ<br />
trong lâm sàng khi chẩn đoán điều trị những<br />
bệnh nhân cổ trướng dịch tiết có SAAG cao,<br />
cần phải tìm thêm biến chứng huyết khối tĩnh<br />
mạch cửa.<br />
SAAG có vai trò như thế nào trong chẩn<br />
đoán dịch màng bụng do tăng áp lực tĩnh<br />
mạch cửa và dịch tiết. Trong nghiên cứu của<br />
chúng tôi có 102 bệnh nhân xơ gan SAAG<br />
> 11g/L và 5 bệnh nhân có SAAG < 11g/L.<br />
Như vậy, SAAG với ngưỡng 11g/L dùng để<br />
phân biệt dịch thấm và dịch tiết, xét nghiệm<br />
này có Se 95,33%, Sp 73,22%; PPV 84,29%;<br />
NPV 91,23%. Độ nhạy và độ đặc hiệu của<br />
chúng tôi đều thấp hơn so với Bjelakovic và<br />
Beg (Se: 97,56%; 94,73%, p < 0,001 Sp:<br />
86,34% , 96%, (p < 0,001) [2; 3]. Adriviadis cho<br />
kết quả cao hơn chúng tôi với Se 98% và tác<br />
giả cho rằng SAAG là xét nghiệm đáng tin cậy<br />
để phân biệt cổ trướng do tăng áp lực tĩnh<br />
mạch cửa và cổ trướng do nguyên nhân khác.<br />
Chen, Albillos có nhận xét ngược lại SAAG là<br />
<br />
48<br />
<br />
một xét nghiệm có độ đặc hiệu tốt-98.9% để<br />
phân biệt dịch thấm và dịch tiết nhưng độ<br />
nhạy chưa đủ cao 62,1% [6]. Chúng tôi đạt<br />
được cut-off SAAG chẩn đoán cổ trướng dịch<br />
tiết và dịch thấm trong nghiên cứu này là<br />
15,2g/L với AUROC = 0,812 tương tự với<br />
ngưỡng dự báo chẩn đoán dịch thấm và dịch<br />
tiết của Bjelakovic là 15,86g/L [3].<br />
Nghiên cứu trên 107 bệnh nhân xơ gan<br />
chúng tôi nhận thấy SAAG chỉ có liên quan với<br />
một số triệu chứng của hội chứng tăng áp lực<br />
tĩnh mạch cửa: giãn tĩnh mạch thực quản, tốc<br />
độ tĩnh mạch cửa, xuất huyết tiêu hóa. SAAG<br />
không liên quan đến triệu chứng lách to, tuần<br />
hoàn bàng hệ, đường kính tĩnh mạch cửa<br />
(p > 0,05). Các nghiên cứu trên thế giới cho<br />
thấy SAAG có khả năng xác định sự có mặt<br />
của hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa<br />
trong 96,7% các trường hợp [2]. Giá trị trung<br />
bình SAAG ở bệnh nhân có giãn tĩnh mạch<br />
thực quản, xuất huyết tiêu hóa cao hơn nhóm<br />
bệnh nhân không có giãn tĩnh mạch thực quản<br />
và không xuất huyết tiêu hóa, tuy nhiên sự<br />
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p ><br />
0,05). Giữa độ chênh albumin và búi giãn tĩnh<br />
mạch thực quản không có mối tương quan với<br />
r = -0,021. Chúng tôi đưa ra ngưỡng cut-off tối<br />
ưu của SAAG để dự báo giãn tĩnh mạch thực<br />
quản > 18,6g/L với AUROC = 0,82. cut-off<br />
SAAG trong nghiên cứu của chúng tôi cao<br />
hơn so với các tác giả khác. Entesar nghiên<br />
cứu trên 45 bệnh nhân xơ gan công bố cut-off<br />
dự báo giãn tĩnh mạch thực quản > 15,5 [5].<br />
Nghiên cứu của Torres và cộng sự có nhận<br />
xét tương tự chúng tôi giữa SAAG và búi giãn<br />
tĩnh mạch thực quản không có mối liên quan<br />
(p = 0,788). Tuy nhiên tác giả nhận xét búi<br />
giãn xuất hiện ở 68% bệnh nhân có độ chênh<br />
cao > 11 và không xuất hiện ở bệnh nhân có<br />
độ chênh thấp < 11 (p = 0,028). Ở các bệnh<br />
nhân có độ chênh cao thì búi giãn xuất hiện ở<br />
<br />
TCNCYH 82 (2) - 2013<br />
<br />