intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải bài toán sản xuất-tiêu thụ-thương hiệu cho nông sản Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

139
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việt Nam có sản lượng xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Các nông sản xuất khẩu khác như: cà phê, hồ tiêu, hạt điều… luôn ở nhóm dẫn đầu thế giới. Chúng ta vẫn thiếu những vùng nông sản được quy hoạch chuyên nghiệp, thiếu cơ chế tiêu thụ hàng hóa và thiếu những thương hiệu nông sản trên thị trường quốc tế. Không thể để nông dân sản xuất tự phát Hàng năm, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cung cấp đến 90% sản lượng gạo, hơn 60% sản lượng thủy sản xuất khẩu và...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải bài toán sản xuất-tiêu thụ-thương hiệu cho nông sản Việt Nam

  1. Giải bài toán sản xuất-tiêu thụ-thương hiệu cho nông sản Việt Nam Việt Nam có sản lượng xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Các nông sản xuất khẩu khác như: cà phê, hồ tiêu, hạt điều… luôn ở nhóm dẫn đầu thế giới. Chúng ta vẫn thiếu những vùng nông sản được quy hoạch chuyên nghiệp, thiếu cơ chế tiêu thụ hàng hóa và thiếu những thương hiệu nông sản trên thị trường quốc tế. Không thể để nông dân sản xuất tự phát Hàng năm, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cung cấp đến 90% sản lượng gạo, hơn 60% sản lượng thủy sản xuất khẩu và 70% sản lượng trái cây cho thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu… Thế nhưng, với điệp khúc “được mùa, mất giá”, thu nhập của nông dân luôn bấp bênh và mãi “theo đuôi thị trường”. Thấy cây, con gì có giá đua nhau trồng, khi rớt giá lại đốn chặt… Điển hình như vào tháng 4/2009, khi 30%-50% nông dân nuôi cá tra ĐBSCL “treo hầm” vì giá cá tra rớt giá thê thảm trong khi vài năm trước người ta đua nhau nuôi. Diện tích mía năm rồi ở ĐBSCL chỉ khoảng 65.000ha. Khi giá mía v ượt ngưỡng 700đ/kg, nông dân trong vùng đang đua nhau quay lại trồng mía… Sản xuất nông sản là thế mạnh của ĐBSCL nhưng đầu ra vẫn còn trong cảnh: May nhờ, rủi chịu! Rồi đến diêm dân dọc biển miền Trung cũng sản xuất theo kiểu trông chừng, tức là giá cao thì dồn sức vào làm muối, nhưng đến khi muối rớt giá thì trắng tay. Ngược lên phía Bắc, quả mận Tam Hoa của tỉnh Lào Cai cũng chung số phận. Khi mận rớt giá có lúc chỉ chưa đầy 1000 đồng/kg, nông dân liền chặt phá để trồng cây khác. Đến khi mận có giá lại hồ hởi trồng lại. Theo thống kê có gần 300 ha mậnTam Hoa bị chặt bỏ. Một con số vô cùng đau xót, vì để trồng 1 gốc cây ăn quả thành phẩm phải mất nhiều năm đầu tư.
  2. Gần đây nhất là rau bị ế thừa sau lúc khan hiếm do lụt lội tại Hà Nội. Hàng ngàn tấn rau của nông dân chờ héo úa trên đồng ruộng là tình trạng điển hình của việc sản xuất ồ ạt, mạnh ai nấy làm, không theo quy hoạch... Thiết lập hệ thống tiêu thụ chuyên nghiệp cho nông sản Cần nhìn nhận khách quan rằng, trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ nông sản, mối liên kết giữa doanh nghiệp tiêu thụ và nông dân chưa bền vững. Quy hoạch vùng nguyên liệu của các nhà máy vẫn theo lối bán được sản phẩm thì mới thu mua nguyên liệu. Khi bán được thì mở vùng nguyên liệu ồ ạt. Khi không tiêu thụ được thì người nông dân lại chịu thiệt hại đầu tiên, dẫn đến việc sản xuất của nông dân bị thụ động trầm trọng. Bên cạnh đó, vẫn còn xảy ra tình trạng người dân phải "cầu cạnh" doanh nghiệp để được thu mua sản phẩm. Mặt khác, doanh nghiệp than phiền rằng khi giá nông sản cao, nông dân luôn “phá hợp đồng” bán cho thương lái, không bán cho doanh nghiệp như đã ký kết. Bài học về tiêu thụ nông sản đã được nhiều chuyên gia đề xuất. Thứ nhất, cần gắn vùng nguyên liệu với nhà máy có đủ năng lực bao tiêu sản phẩm, đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng. Thứ hai, gắn xúc tiến thương mại với tìm đầu ra. Cách làm này nhằm tăng cơ hội quảng bá nông sản cho các vùng miền khác nhau trên cả nước, qua đó kích cầu tiêu dùng, nhất là đối với thị trường nội địa.Vì không có nghĩa sản phẩm chúng ta làm ra là phải xuất khẩu. Tiềm năng tiêu dùng nội địa của Việt Nam là vô cùng lớn. Thứ ba là có cơ chế thu mua hàng hóa một cách chuyên nghiệp, ổn định trên cơ sở có lợi cho người nông dân. Muốn thu mua chuyên nghiệp thì tổ chức, cá nhân mua buộc lòng phải có dự báo thị trường thật chính xác và phải có thị trường tiêu thụ
  3. ổn định. Chỉ cần dự báo thì trường chính xác, ổn định đã giải quyết được phần lớn cách làm thụ động hiện nay, mà tiến xa hơn nữa bắt thị trường phục vụ lại nhu cầu sản xuất của nông dân. Xây dựng thương hiệu bền vững cho nông sản Việt Nam Việt Nam nổi tiếng với nhiều nông sản. Nhưng các sản phẩm này ít có thương hiệu đặc trưng mà chỉ tồn tại với tên gọi mang tính địa phương và theo thói quen của người tiêu dùng như: Thanh long Bình Thuận, gạo An Giang, cà phê Buôn Mê Thuột... Nông sản Việt Nam chưa thật sự có thương hiệu cho riêng mình. Điều này dẫn đến hệ quả tất yếu: Sản lượng xuất khẩu nhiều nhưng giá thành và lợi nhuận thu về không tương ứng. Điều quan trọng khác là khi cần thâm nhập vào những thị trường lớn, sản phẩm không có thương hiệu sẽ không có lợi thế cạnh tranh, do đó không kích hoạt đ ược sản xuất. Như vậy, cần có chính sách hỗ trợ xây dựng cho thương hiệu nông sản Việt Nam; xúc tiến thương mại mạnh mẽ vào thị trường lớn và khó tính như: Mỹ, châu Âu… để tạo điều kiện cho nông sản Việt có cơ hội thâm nhập. Đồng thời, thương hiệu nông sản cũng khuyến khích nông dân tiếp cận hệ thống phân phối hiện đại trong cả nước nhằm đưa hàng hóa tiêu dùng trong nước.
  4. Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc hoàn chỉnh quy định bảo hộ nhằm hạn chế hợp lý sự xâm nhập của các sản phẩm ngoại, tạo điều kiện để các th ương hiệu nông sản nội địa lớn mạnh. Một điều quan trọng khác là người sản xuất phải hiểu được rằng tên thương hiệu cần mang tính quốc gia hoặc quốc tế hóa và việc nâng cao chất lượng nông sản (nâng cao thương hiệu) chính là bí quyết giữ được thị trường bền vững.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2