intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU - 5

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

65
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tuy nhiên, do chưa có quy hoạch phát triển ngành cụ thể, thiếu số liệu điều tra khảo sát và thiếu các dự án khả thi, nên nguồn vay từ ODA và FDI mới chỉ đạt khoảng 6,2% và 8%, mặc dù có không ít các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến tiềm năng thủy sản của Việt Nam. Cho đến nay, chỉ còn khoảng 42 dự án FDI với số vốn hơn 144 triệu USD và 10 dự án ODA (150 triệu USD) đã được cấp phép còn tiếp tục hoạt động. Về đầu tư lĩnh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU - 5

  1. nâng cao chất lượng sản phẩm; phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế cho ngành thủy sản. Tuy nhiên, do chưa có quy hoạch phát triển ngành cụ thể, thiếu số liệu điều tra khảo sát và thiếu các dự án khả thi, n ên nguồn vay từ ODA và FDI m ới chỉ đạt khoảng 6,2% và 8%, mặc dù có không ít các nhà đầu tư nư ớc ngo ài quan tâm đến tiềm năng thủy sản của Việt Nam. Cho đến nay, chỉ còn khoảng 42 dự án FDI với số vốn hơn 144 triệu USD và 10 dự án ODA (150 triệu USD) đ ã đ ược cấp phép còn tiếp tục hoạt động. Về đầu tư lĩnh vực, trong cả 3 thời kỳ đã có sự đầu tư đáng kể vào lĩnh vực nuôi trồng, ch ế biến và khai thác thủy sản. Tuy nhiên, sự đầu tư này còn rất nhỏ bởi nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp, phải có sự huy động vốn nhiều hơn nữa thì sự đầu tư này mới có hiệu quả cao. Dự kiến trong thời kỳ 1999-2010, tổng mức đầu tư cho phép phát triển ngành thủy sản sẽ là 35.590.000 triệu đồng: -Trong đó: + Vốn huy động: 15.610.000 triệu đồng (chiếm 44%). + Vốn tín dụng: 11.710.000 triệu đồng (chiếm 33%). + Vốn ngân sách: 4.610.000 triệu đồng (chiếm 13%). + Vốn liên doanh với nước ngoài: 3.660.000 triệu đồng (chiếm 10%). Cơ cấu đầu tư giai đo ạn 1999-2010 được chia theo lĩnh vực như sau: - Nuôi trồng thủy sản: 9.580 tỷ đồng, chiếm 27%. -Khai thác h ải sản: 10.200 tỷ đồng, chiếm 28,75%. -Chế biến thủy sản: 9.580 tỷ đồng, chiếm 27%. -Hạ tầng dịch vụ: 5680 tỷ đồng, chiếm 16%.
  2. -Nghiên cứu khoa học: 300 tỷ đồng, chiếm 0,85%. -Đào tạo, giáo dục: 88 tỷ đồng, chiếm 0,25%. -Các lĩnh vực khác: 62 tỷ đồng, chiếm 0,15%. Qua xem xét, phân tích nguồn vốn đầu tư của ngành thủy sản của các giai đoạn, ta nhận thấy rằng: muốn đạt được các mục tiêu đặt ra và hội nhập với nghề cá thế giới, sự huy động nguồn lực trong nước là cơ bản, nhưng sự giúp đỡ của quốc tế là không th ể thiếu và rất quan trọng. Trong nguồn lực quốc tế, về chỉ đạo chúng ta cần khơi thông nguồn FDI, sao cho tỷ trọng này ngày càng cao, giá trị ngày càng lớn và tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa 2 nguồn FDI và ODA để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Chính sách về khai thác thủy sản 3. Tới nay, tổng sản lượng thủy sản của cả nước đ ã vượt qua mức 1 triệu tấn / năm, song cũng để lại một vùng biển cạn kiệt nguồn lợi, năng suất đánh bắt giảm 1/2, giá thàng sản phẩm tăng gấp đôi. Tuy phát triển nghề cá xa bờ để bảo vệ nguồn lợi ven biển và tăng chất lượng sản phẩm nhưng lại chưa triển khai đồng bộ, hiệu quả còn thấp. Hơn 10 năm qua, ngành khai thác hải sản Việt Nam đ ã tăng trưởng với nhịp độ khá cao về tổng sản lượng, đạt hơn 1 triệu tấn/ năm (riêng năm 1998, sản lượng khai thác hải sản đạt 1,13 triệu tấn , bằng 170% năm 1988). Từ khi có Nghị định số 13/CP của Chính phủ (ký ngày 02/3/1993), tiếp đến là Thông tư liên bộ số 02 LB/TT hướng dẫn thi hành Ngh ị định số 13/CP cho thấy công tác khuyến ngư đ• tác động rất hiệu quả đến phong trào nuôi trồng, khai thác và sơ chế bảo quản thủy sản. Vì trước hết, khuyến ngư là ch ủ trương đúng đ ắn, hợp với điều kiện hiện nay của các ngư dân và rất được đông đảo ngư dân ủng hộ, hưởng ứng. So với lĩnh vực khai thác và sơ chế bảo quản thủy sản thì hiệu quả của khuyến ngư trong
  3. nuôi trồng đa dạng và phong phú hơn, nhờ có hoạt động khuyến ngư mà diện tích và năng su ất tăng lên đáng kể. Từ các loại cá thông thường đến các loại đặc sản có giá trị kinh tế cao ngày càng được phát triển mạnh. Có thể nói Nghị định 13/CP của Chính phủ đ• khơi dậy tiềm năng của cả miền biển, đồng bằng và miền núi. Trong những năm qua, Ngh ị định 13/CP đ• đi sâu vào thực tiễn và có tác dụng đối với việc phát triển sản xuất thủy sản của đất nước. Tuy nhiên, qua thực hiện Nghị định n ày còn bộc lộ những hạn chế cả về lý luận lẫn thực tiễn. Chính vì vậy mà cần có sự ho àn thiện và điều chỉnh Nghị định này theo tinh thần tập trung kinh phí cho những vùng khai thác, sản xuất thủy sản có giá trị kinh tế cao. Đối với việc đánh bắt xa bờ, Thủ tướng Chính phủ đ• ban hành Quyết định số 400/ Ttg ngày 7/8/1993 cho miến thuế tài nguyên, thuế doanh thu, thuế lợi tức và hoàn thu ế xuất khẩu trong 3 năm đầu đối với tàu thuyền đánh bắt hải sản xuất khẩu ở Biển Đông Trường Sa. Chính sách ưu đ•i trên đ• có tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển nghề cá khai thác xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền l•nh thổ của Tổ quốc. Đồng thời, cũng hạn chế việc đánh bắt hải sản gần bờ khi m à nguồn hải sản gần bờ đang bị cạn kiệt. Đầu năm 1997, Chính phủ đ• chỉ đạo ngành thủy sản thực hiện chương trình đ ánh cá xa bờ. Đến hết năm 1998, cả nước đã có trên 300 tàu công su ất lớn (90 -350 CV) đưa vào sử dụng, năng lực khai thác xa bờ đã có bước chuyển biến đáng kể. Nhưng theo đó lại nổi lên nhiều vấn đề về ngư trường và dự báo khai thác vùng khơi, trình độ sử dụng tàu lớn của thuyền trưởng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm khai thác được, nhất là khâu tiêu thụ sản phẩm. Điều đáng lo ngại là ch ỉ có khoảng 20% sản lư ợng khai thác xa bờ có thể dùng đ ể xuất khẩu. Còn lại 80% dùng tiêu thụ nội địa hay làm bột cá, phơi khô
  4. và làm nư ớc mắm. Cá đánh được nhiều m à bán giá lại rẻ và khó bán thì hiệu quả thấp. Lại chưa có cơ quan dự báo ngư trường và khai thác ngắn hạn để hướng dẫn các tàu đi đánh bắt cá xa bờ đi đến đúng nơi có cá mà đánh. Trình độ các thuyền trưởng non yếu, sử dụng tàu lớn và máy móc khá hiện đại sẽ gây ra những sự cố hỏng hóc. Nhất là vào thời vụ chính, cá về nhiều lại không có kho lạnh dự trữ hải sản, điều kiện trên tàu bảo quản kém, bến b•i thiếu... càng làm cho sản lượng bị thất thoát nhiều và giá hạ hơn. Rõ ràng là có nhiều vấn đề đang đặt ra để bảo đ ảm cho việc đầu tư đóng tàu khai thác hải sản xa bờ có hiệu quả. Đó không phải là việc một sớm, một chiều có thể giải quyết được . Tóm lại, chương trình đ ánh b ắt hải sản xa bờ không chỉ là việc đóng tàu đi khơi, mà nó là dây chuyền đồng bộ từ khai thác, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thật tốt. Vấn đề đảm bảo chất lượng thủy sản chế biến cho xuất khẩu 4. Để đảm bảo an toàn vệ sinh và chất lượng h àng thủy sản xuất khẩu, tháng 6/1995, Bộ Thủy sản đã ban hành Chỉ thị số 13/CT/KHCN. Tuy nhiên, trong thời gian qua những hiện tượng tạp chất vào hàng thủy sản xuất khẩu vẫn có chiều hướng gia tăng do một số doanh nghiệp thiếu nguồn h àng vì ch ỉ nghĩ đến lợi nhuận vẫn mua hàng có cho thêm tạp chất về chế biến, làm thiệt hại cho người tiêu dùng trong nước, làm giảm uy tín của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Và chính vì một trong những nguyên nhân như vậy, m à hàng thủy sản Việt Nam có nguy cơ bị mất dần, đặc biệt là th ị trường tôm nguyên liệu, trước tình hình cạnh tranh gay gắt với các nư ớc trong khu vực. Theo dự báo của các chuyên gia, nhu cầu trên thế giới đối với nhiều loại sản phẩm thủy sản mà Việt Nam có khả năng sản xuất đang và sẽ tăng lên mạnh chủ yếu theo
  5. các hướng: sản phẩm giá trị cao; sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ và các loại thủy sản tưới sống. Tuy nhiên, th ị trường xuất khẩu cũng đặt ra những thách thức mới, nhất là các qui định về an toàn vệ sinh thực phẩm; yêu cầu chất lượng tiêu dùng ngày càng cao hơn và những yêu cầu, qui định này cũng khác nhau ở từng thị trường. Thực tiễn đòi hỏi ta phải chủ động nắm bắt và đáp ứng những qui định này một cách linh hoạt, nếu muốn mở rộng thị trường xuất khẩu. Theo Trung tâm kiểm tra chất lư ợng và vệ sinh thủy sản (NAFIQACEN) thì: EU và Mỹ là những thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản rất cao. Đối với EU, việc kiểm soát phải được thực hiện dưới sự giám sát của chính họ mới có giá trị và được công nhận. Để xuất khẩu thủy sản vào thị trường EU, các n ước phải có đủ ba điều kiện sau: Xây dựng hệ thống pháp luật hữu hiệu về kiểm soát chất lượng, an to àn vệ sinh thủy sản tương đương với EU. Có cơ quan kiểm soát an toàn vệ sinh cấp quốc gia tương đương EU về tổ chức, trang thiết bị kiểm soát (ở Việt Nam, cơ quan này là NAFIQACEN). Các doanh nghiệp ở nước xuất khẩu phải tương đương về điều kiện sản xuất, quản lý chất lượng với các doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm cùng loại của EU. Số doanh nghiệp Việt Nam hội tụ đủ ba điều kiện trên chỉ có 33/186 doanh nghiệp được EU công nhận đủ tiêu chuẩn hàng thủy sản vào th ị trường của họ. Các doanh nghiệp này đ• ph ải nâng cấp điều kiện sản xuất bao gồm: nhà xưởng, dây chuyền công nghệ, các trang thiết bị đi kèm; áp dụng hệ thống quản lý chất lư ợng theo tiêu chuẩn GMP (Giấy chứng nhận về tập quán sản xuất tốt áp dụng từ tháng 7/1997) và HACCP
  6. (Hệ thống quản lý an to àn thực phẩm, tập trung vào việc phòng ngừa các mối nguy hại đ• biết và nguy cơ xảy ra chúng ở một số điểm đặc biệt trên dây chuyền sản xuất thực phẩm). Hiện nay, không chỉ thị trư ờng Mỹ m à EU cũng chỉ ch ấp nhận mua sản phẩm từ những cơ sở chế biến có áp dụng HACCP. áp dụng GMP và HACCP có nghĩa là thực hiện an toàn vệ sinh thủy sản từ nuôi trồng-đánh b ắt-chế biến, để cho ra sản phẩm đạt các chỉ tiêu đ ặc trưng cho ch ất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Hiện nay, EU đánh giá chất lư ợng sản phẩm thủy sản theo 3 chỉ tiêu sau: -Chỉ tiêu cảm quan: trạng thái tự nhiên, mùi vị, màu sắc của sản phẩm. -Chỉ tiêu hóa học: qui định hàm lượng Nitơ dưới dạng Amôniắc, độ pH trong một gam sản phẩm. -Chỉ tiêu vi sinh: qui đ ịnh loại, lượng khuẩn có trong sản phẩm như khuẩn hóa khí, khuẩn hiếm khí, khuẩn Ecôli, Coliforime... Trong thời gian vừa qua, Bộ Thủy sản đã xây dựng và ban hành hàng loạt tiêu chuẩn trong qu ản lý chất lượng, đó là tiêu chuẩn về Cơ sở chế biến thủy sản, về Chương trình quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm theo HACCP và các tiêu chu ẩn đảm bảo vệ sinh an toàn th ực phẩm trong các cơ sở sản xuất kinh doanh. Với sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của ngành thủy sản trong việc vệ sinh an toàn thủy sản cho xuất khẩu, ngày 20/10/1999, ủ y ban Thú y thư ờng trực của EU đ• bỏ phiếu nhất trí đưa Việt Nam vào danh sách 1 được phép xuất khẩu vào EU ở cấp liên minh và ngày 16/11/1999, Cộng đồng Châu Âu (EC) đ ã phê chuẩn 18/33 doanh nghiệp nói trên được xuất khẩu ở cấp liên minh vào EU. Tính đ ến nay cả nước có 60 cơ sở áp dụng HACCP và 33 cơ sở đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào EU. Tuy nhiên, số doanh nghiệp này vẫn còn quá ít, nếu muốn đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản đòi hỏi các
  7. doanh nghiệp phải đầu tư, đổi mới theo tiêu chu ẩn chất lư ợng GMP và HACCP, đảm bảo vệ sinh an to àn thủy sản xuất khẩu. Bên cạnh những việc làm được, công tác quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản còn nhiều tồn tại: Hệ thống văn bản pháp qui của Nhà nước, của Bộ chưa đ ầy đủ, đồng bộ và còn chồng chéo; tổ chức quản lý Nhà nước về chất lượng chưa hoàn chỉnh, đặc biệt ở các địa phương; việc quản lý điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản chưa được thực hiện ở các công đoạn: nuôi trồng, đánh bắt, thu ho ạch, vận chuyển và các khâu khác của dây chuyền sản xuất thủy sản... IV. đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu thủy sản sang EU trong những năm qua 1. Nh ững thành tựu đạt được Việt Nam hiện là nước thứ 29 trên thế giới, đứng thứ 4 trong khối ASEAN về xuất khẩu thủy sản và mặt h àng thủy sản của Việt Nam hiện đ• xuất khẩu được sang h ơn 50 nước và khu vực. Xu ất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm qua đ• đạt được những th ành tựu rất quan trọng, cụ thể là : Kim ngạch xuất khẩu thủy sản không ngừng tăn g lên qua các năm, từ mức chỉ chiếm tỷ trọng dưới 10% trong tổng giá trị xuất khẩu thủy sản (năm 1997) th ì nay t ỷ trọng này đã tăng lên rất đáng kể (11,3% vào năm 1998). Thủy sản của Việt Nam đã và đang được ưa chuộng ở khắp các thị trường, trong đó có EU. Thủy sản Việt Nam đã kh ẳng định được vị trí của mình trên th ị trường này ngày m ột mạnh mẽ, trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng EU. Thị phần xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào EU đã tăng lên rất đáng kể, từ mức 11% năm 1997 lên 18% năm 1998 trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
  8. EU luôn là một trong 3 thị trường hàng đầu của thủy sản Việt Nam, luôn đứng vị trí thứ 2 sau Nhật Bản trong việc nhập khẩu thủy sản Việt Nam trong những năm qua. Các sản phẩm thủy sản của Việt Nam như: tôm, nhuyễn thể chân đầu, cá đáy, cá nước ngọt thịt trắng ít xương; các sản phẩm truyền thống như: nước mắm, bánh phồng tôm, cua, ghẹ, tôm và đ ặc biệt là tôm sú đ• đang và sẽ có sức cạnh tranh rất cao trong EU trong thời gian tới. Xu ất khẩu thủy sản sang EU nói riêng hay ra các thị trường trên th ế giới trong những năm qua đã đóng góp không nhỏ trong việc tăng thu ngoại tệ cho đất nước, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời xuất khẩu thủy sản nói chung đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần xóa đói giảm ngh èo, ổn định đời sống cho nhiều vùng nông thôn ven biển. Đã đạt được sự ưu đãi về thuế của EU: theo qui chế mới của EU bắt đầu từ tháng 7/1999 đến tháng 12/2000 th ì hàng thủy sản đông lạnh của Việt Nam thuộc nhóm hàng khu yến khích nhập khẩu nên sẽ được h ưởng mức thuế bằng 35% mức thuế Tối huệ quốc. ủ y ban Thú y th ường trực của EU đã bỏ phiếu nhất trí đưa Việt Nam vào danh sách 1(ngày 20/10/1999) được phép xuất khẩu thủy sản vào EU ở cấp liên minh và ngày 16/11/1999 EU đ ã ch ấp thuận 18/33 doanh nghiệp đ ã kiểm tra đủ điều kiện. Cũng theo quyết định này, tổ chức của Việt Nam có thẩm quyền trong việc chứng nhận chất lượng, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản là Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản (NAFIQACEN). Điều này kh ẳng định uy tín của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam, uy tín về
  9. ch ất lượng của các mặt hàng thủy sản và uy tín của NAFIQACEN trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đang có 29 doanh nghiệp đ ược phép xuất khẩu thủy sản vào EU. Các doanh nghiệp còn lại muốn xuất khẩu sang EU, không còn con đường n ào khác ngoài việc phải thực hiện nghiêm ngặt các yêu cầu về an toàn vệ sinh theo tiêu chuẩn của EU. Ngày 10/5/2000, ủ y ban Châu Âu đ• ra quyết định cho phép Việt Nam xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ, loài da gai, loài có vỏ và chân bụng biển từ Việt Nam. Việc được vào nhóm 1 các nước xuất khẩu nhuyễn thể sang EU sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Được sự hỗ trợ của dự án SEAQIP nhằm giúp đỡ các nhà máy th ủy sản đông lạnh đạt tiêu chuẩn HACCP là giấy thông hành vào EU. Việt Nam đ• mở gian hàng thủy sản đầu tiên tại Hội chợ thủy sản quốc tế Bruc- xen với sự tham gia của 11 doanh nghiệp. Hiệp hội Chế biến và xu ất khẩu thủy sản Việt Nam mặc dù m ới thành lập nhưng đ• có đóng góp tích cực trong việc mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trư ờng thế giới. Nhiều nh à máy chế biến thủy sản đ• đầu tư theo chiều sâu, nâng cấp điều kiện sản xuất, thực hiện quản lý chất lượng theo HACCP, nên hiện nay đ• có 60 cơ sở áp dụng HACCP và 33 cơ sở chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào EU. Nh ững khó khăn, tồn tại cần khắc phục 2. Bên cạnh những thành tựu to lớn m à xu ất khẩu thủy sản sang EU đạt được trong những năm qua, không phải là tất cả đều thuận lợi, vẫn còn những khó khăn, những vướng mắc đang tồn tại đòi hỏi đ ược khắc phục càng sớm càng tốt, cụ thể là:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2