intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải pháp giống trong chăn nuôi bò thịt ở Nghệ An

Chia sẻ: Cho Gi An Do | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

71
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đối với chăn nuôi gia súc, gia cầm trong nền sản xuất hàng hóa, các vấn đề quan trọng phải quan tâm là năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Để chăn nuôi đạt năng suất cao thì các yếu tố cần tính đến là: giống, dinh dưỡng và thức ăn, chăm sóc nuôi dưỡng, phòng trừ dịch bệnh (thú y), quản lý và khai thác, trong đó giống là yếu tố số một. Người chăn nuôi cho dù đầu tư chuồng trại tốt, thức ăn giàu dinh dưỡng, chăm sóc kỹ lưỡng mà không có được con giống tốt thì cũng khó đem lại năng suất cao. Ngược lại, khi đã có con giống tốt thì chỉ cần tạo cho con vật các điều kiện khác theo nhu cầu của chúng cũng sẽ đem lại hiệu quả như mong muốn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải pháp giống trong chăn nuôi bò thịt ở Nghệ An

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> Đối với chăn nuôi gia súc, gia cầm trong nền sản xuất hàng hóa, các vấn đề quan<br /> trọng phải quan tâm là năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Để chăn nuôi đạt năng<br /> suất cao thì các yếu tố cần tính đến là: giống, dinh dưỡng và thức ăn, chăm sóc nuôi<br /> dưỡng, phòng trừ dịch bệnh (thú y), quản lý và khai thác, trong đó giống là yếu tố số một.<br /> Người chăn nuôi cho dù đầu tư chuồng trại tốt, thức ăn giàu dinh dưỡng, chăm sóc kỹ<br /> lưỡng mà không có được con giống tốt thì cũng khó đem lại năng sất cao. Ngược lại, khi<br /> đã có con giống tốt thì chỉ cần tạo cho con vật các điều kiện khác theo nhu cầu của chúng<br /> cũng sẽ đem lại hiệu quả như mong muốn.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Ở NGHỆ AN<br /> GIẢI PHÁP GIỐNG TRONG CHĂN NUÔI BÒ THỊT<br /> <br /> n Nguyễn Kim Đường<br /> Trung tâm NC và PT KH-CN Nông nghiệp<br /> <br /> 1. Các giống vật nuôi Sơn, bò vàng Thanh Hóa, bò vàng Nghệ An, bò vàng<br /> Các giống vật nuôi thường được chia làm Phú Yên, bò vàng Ninh Thuận…<br /> 3 nhóm: Bò vàng do kích thước nhỏ, khối lượng thấp, khả<br /> 1.1. Giống địa phương năng cho sữa thấp nên nuôi để lấy thịt hay lấy sữa<br /> Đây là các giống đã tồn tại lâu đời tại một đều không đem lại hiệu quả, trước đây được nuôi để<br /> địa phương, một vùng nào đó, ví dụ như: gà để cày kéo là chính. Để tận dụng khả năng thích nghi,<br /> ri, lợn Móng Cái, bò vàng… Các giống này tính mắn đẻ của giống bò này, nước ta đã và đang lấy<br /> có ưu điểm nổi bật là tính thích nghi với điều giống bò vàng làm nền để cho lai với bò Zebu (Zebu<br /> kiện cụ thể tại địa phương, thường chịu hóa) hay với bò Sind (Sind hóa) trong chương trình<br /> kham khổ, chống chịu với các bệnh dịch tốt. cải tạo đàn bò nội Việt Nam nhằm tăng kích thước.<br /> Điểm yếu của chúng là kích thước nhỏ, năng Trên cơ sở các con lai này, tiếp tục cho lai với các<br /> suất thấp. giống chuyên dụng thịt, sữa để tạo nên các giống bò<br /> Giống bò thuộc nhóm này là bò vàng Việt cải tiến.<br /> Nam. Bò vàng là giống bò đã có từ lâu đời và 1.2. Giống cải tiến<br /> được nuôi phổ biến nhất ở Việt Nam, với gần Đây là các giống được tạo ra thông qua việc sử<br /> 4 triệu con trong tổng số hơn 7 triệu con bò<br /> trong cả nước (chiếm >50%). Bò có lông màu<br /> nâu vàng toàn thân, phía bên trong đùi và yếm<br /> có màu hơi vàng nhạt, ngoại hình cân đối. Bò<br /> cái phía trước thấp, phía sau cao hơn; bò đực<br /> thì ngược lại. Bò cái có yếm kéo dài từ hầu<br /> đến vú. Bò vàng có tầm vóc nhỏ, năng suất<br /> thấp, khối lượng bê sơ sinh 14÷15 kg/con,<br /> khối lượng trưởng thành ở bò đực có thể đạt<br /> 250÷300 kg/con, bò cái khoảng 150÷200<br /> kg/con. Tuổi phối giống lần đầu lúc 15÷18<br /> tháng tuổi. Sản lượng sữa 350÷400 kg/lứa đẻ<br /> - vừa đủ cho bê, tỷ lệ thịt xẻ 42÷44%, thớ thịt<br /> mịn, thơm ngon... Ở nước ta, bò vàng có<br /> nhiều nhóm khá nổi tiếng như: bò vàng Lạng<br /> Hội thảo khoa học phát triển chăn nuôi bò thịt<br /> theo hướng sản xuất hàng hóa tại Nghệ An (10/2016)<br /> <br /> <br /> [22]<br /> Tạp chí<br /> SỐ 2/2017<br /> KH-CN Nghệ An<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> dụng các giống địa phương làm nền, chọn một hoặc có nguồn gốc từ Pakistan và Ấn độ. Bò Sind<br /> một số giống tốt hơn cho lai với nhau, tạo ra con lai, được nhập vào Việt Nam khoảng năm 1923.<br /> sau đó chọn lọc hoặc tiếp tục cho lai nhiều lần tạo ra Bò có lông màu nâu đỏ hay cánh dán, trán<br /> giống cải tiến có tính thích nghi với điều kiện ngoại ghồ, tai to rũ xuống, u vai cao, yếm rộng, âm<br /> cảnh, chống chịu với các bệnh dịch khá tốt. hộ có nhiều nếp nhăn, da có thể rung cục bộ.<br /> Giống bò tiêu biểu của nhóm này là bò lai Sind. Đây Khối lượng trưởng thành ở con cái 350÷400<br /> là con lai cấp tiến giữa bò đực Sind đỏ và bò cái vàng kg/con; con đực 450÷500 kg/con. Tuổi đẻ<br /> Việt Nam. Đến nay có thể được gọi là giống, song thực lứa đầu khoảng 48 tháng, năng suất sữa 275<br /> chất đây là một nhóm con lai Sind với nhiều tỷ lệ máu ngày là 1.600kg, tỷ lệ mỡ sữa 5,2%. Bò Sind<br /> khác nhau. Bò lai Sind đang được nuôi ở nhiều địa hiện được nuôi ở một số nơi của miền Bắc<br /> phương trong cả nước và các con cái đang được cho lai (nông trường Việt Mông, Ba Vì - Hà Tây...).<br /> tiếp với các đực giống ngoại để tạo ra bò lai hướng sữa Hiện nay, bò Sind chủ yếu là sử dụng các<br /> hoặc hướng thịt. Bò lai Sind có màu lông da nâu đỏ, đỏ con bò đực để phối trực tiếp hay khai thác<br /> vàng hoặc màu đỏ, tai to rũ xuống, u to, yếm rộng với Một số giống bò tại Nghệ An:<br /> nhiều nếp nhăn. Khi bị ruồi muỗi đốt, vùng da bị cắn<br /> có thể rung lên để xua đuổi ruồi muỗi. Ở tuổi trưởng<br /> thành, con đực cao 1,3m, nặng khoảng 320÷440<br /> kg/con; con cái cao 1,1m, nặng khoảng 250÷300<br /> kg/con. Bò cái có thể sinh lứa đầu vào lúc 30 tháng tuổi.<br /> Đây là giống bò kiêm dụng cày kéo - cho thịt, thớ thịt<br /> dày và mịn.<br /> 1.3. Giống mới hay giống cao sản<br /> Đây là sản phẩm của quá trình lai tạo giống. Để có<br /> các giống mới hay giống cao sản, trước hết người ta<br /> đưa ra mục tiêu của giống, tiếp theo người ta chọn một<br /> số giống (có thể là 1, 2, 3 hay nhiều hơn), trong đó mỗi Giống bò vàng địa phương<br /> <br /> giống có thể có 1-2 tính trạng tương tự như trong mục<br /> tiêu của giống mới. Tiếp tục, lập kế hoạch lai để cho ra<br /> các thế hệ con lai, đến khi nào thấy con lai đã có được<br /> các tính trạng đạt mục tiêu đã đề ra, dừng quá trình lai để<br /> cố định các tính trạng (thông qua quá trình tự phối), chọn<br /> lọc các con đã có sự ổn định của các tính trạng như mục<br /> tiêu đã đề ra. Làm thủ tục công nhận giống mới. Các<br /> giống cao, thậm chí rất cao như giống bò 3B (BBB), ở<br /> tuổi trưởng thành có khối lượng >1.000 kg/con. Tuy<br /> nhiên, các giống mới thường đòi hỏi chế độ dinh dưỡng<br /> cao, chăm sóc, nuôi dưỡng tốt và điều kiện ngoại cảnh Giống bò lai Zebu<br /> tốt. Ở nước ta, qua gần 70 năm kể từ khi miền Bắc được<br /> giải phóng hoàn toàn đến nay, gần như chưa có một giống<br /> cao sản nào được tạo ra. Tất cả các giống vật nuôi cao sản<br /> hiện có ở nước ta đã được nhập từ các nước trên thế giới<br /> (Mỹ, Úc, Cu Ba…). Với các giống bò mới, cao sản, người<br /> ta đã tạo ra các giống chuyên cho sữa như: bò lang trắng<br /> đen, lang trắng đỏ (Holstein Friesian), Jersey, nâu Thụy<br /> Sĩ; các giống bò chuyên thịt như: BBB, Droghmaster,<br /> Hereford, Limousine…<br /> Các giống bò thuộc nhóm này gồm:<br /> - Giống bò Sind: Bò Sind, tên đầy đủ là Red Sindhi, Giống bò lai sind<br /> <br /> SỐ 2/2017<br /> Tạp chí<br /> [23]<br /> KH-CN Nghệ An<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> tinh để phối cho bò nội cho ra bò lai Sind. Chương 1919. Giống bò BBB có cơ bắp phát triển siêu<br /> trình Sind hóa đàn bò là chương trình lai cấp tiến giữa trội (hệ thống cơ đôi), ngoại hình đẹp, rất<br /> bò đực Sind đỏ với bò cái vàng. Kết quả của chương hiền lành, khả năng sử dụng thức ăn tốt, thịt<br /> trình này đã nâng cao tầm vóc của bò. Lúc trưởng thơm ngon, hiệu quả kinh tế cao. Bò BBB có<br /> thành, bò đực lai Sind có khối lượng 320÷440 kg/con khả năng thích nghi với nhiều vùng địa lý<br /> và con cái là 250÷300 kg/con. Bò lai Sind là nguồn khác nhau trên thế giới và đã được nuôi ở<br /> vật liệu ban đầu cho công tác lai tạo bò hướng sữa nhiều nước như: Anh, Pháp, Mỹ, Úc. Hiện<br /> hoặc hướng thịt của nước ta. nay đã có hơn 20 hiệp hội chăn nuôi bò BBB<br /> - Giống bò Brahman: Bò Brahman được nhập từ trên thế giới.<br /> Cu Ba, có 2 nhóm: Brahman trắng và Brahman đỏ, Bò BBB có 3 màu lông cơ bản: trắng,<br /> đều thuộc nhóm bò Zebu. Giống bò này đang được loang xanh và đen do sự phân ly của gen bò<br /> nuôi ở Ninh Bình, Hà Tây, Bình Định và một số nơi Shorthorn. Một số tính trạng và chỉ tiêu sản<br /> khác. Bò Brahman trắng toàn thân có màu trắng bạc xuất chính của bò BBB: Khối lượng sơ sinh<br /> hoặc trắng xám. Bò có đầu hơi dài, trán dô, tai to rũ ra bình quân 44 kg/con, một năm tuổi đạt<br /> phía sau, u to, yếm rộng có nhiều nếp gấp, ngực sâu 480÷500 kg/con, khối lượng trưởng thành của<br /> nhưng hơi lép, chân cao, đuôi dài. Bò Brahman đỏ chỉ bò đực 1.100÷1.250 kg/con, có con đạt 1.400<br /> khác Brahman trắng là có màu lông đỏ và ở tuổi kg/con. Tuổi đẻ lứa đầu trung bình là 32<br /> trưởng thành thì con đực có màu lông sẫm màu hơn tháng, nặng 700÷750 kg/con, bò cái trưởng<br /> con cái. Khối lượng sơ sinh của bê Brahman khoảng thành nặng 850÷900 kg/con. Tỷ lệ đẻ hàng<br /> 24÷25 kg/con, lúc 12 tháng tuổi bò đực có khối lượng năm 80%, khoảng cách lứa đẻ 14 tháng. Hệ<br /> khoảng 210 kg/con và con cái khoảng 180 kg/con. Ở số sử dụng thức ăn cao: 5,5÷7 kg TĂ/kg tăng<br /> tuổi trưởng thành, con đực khoảng 800 kg/con và con trọng. Tỷ lệ thịt tinh/thịt xẻ đạt: 78%. Nhược<br /> cái khoảng 450 kg/con. Bò Brahman cái đẻ lứa đầu điểm của bò cái BBB là sự đàn hồi của cơ<br /> lúc khoảng 40 tháng tuổi (hơi muộn). Khoảng cách xương chậu kém khi đẻ, 90% bò cái BBB khi<br /> giữa hai lứa đẻ khoảng 18 tháng. Bò Brahman là một đẻ phải mổ để lấy thai.<br /> giống bò hướng thịt. Giống bò này đang được sử 2. Giải pháp giống trong chăn nuôi bò<br /> dụng để lai với bò vàng, bò lai Sind để tạo bò lai thịt ở Nghệ An<br /> hướng thịt, trong đó bò Brahman đỏ được người nôi Nghệ An là một trong những tỉnh có đàn<br /> ưa chuộng hơn. bò lớn trong cả nước với 428.000 con (theo<br /> - Giống bò Droughtmaster: Bò được nhập về Việt số liệu 1/10/2015), trong đó 48% là bò lai<br /> Nam từ bang Queensland, Úc. Giống phát triển tốt ở như: lai sind (F1, F2), lai bò vàng x Brahman<br /> vùng Bắc Mỹ, thích hợp với điều kiện nóng bức. Là (F1), lai bò vàng x Zebu (F1, F2)… Đây là<br /> giống lớn con trung bình, thân dài, tròn, lông ngắn, các con lai cải tiến, nhờ đó mà sản lượng bò<br /> thưa, mượt, da mỏng, đàn hồi tốt. Màu lông từ màu hơi xuất chuồng hàng năm vẫn tăng 3-5%<br /> vàng nhạt đến đỏ sậm. Phần lớn bò đều không sừng, u trong khi tổng đàn bò không tăng, thậm chí<br /> lưng nhỏ, chân và móng chắc, khỏe. Bò Droghrmater có phần giảm. Có được điều này là nhờ kích<br /> thích hợp với điều kiện nóng bức, tận dụng đồng cỏ cỡ của nhóm bò lai cao hơn bò vàng tới 25-<br /> nghèo nàn rất tốt, không bị trúng nắng, mò mắt, ung 30%, cao hơn bò lai Sind lâu đời (nhóm bò lai<br /> thư mắt, kháng ve, ký sinh trùng. Khối lượng sơ sinh: Sind đã lai qua lai lại nhiều đời, đã tồn tại<br /> 20÷25 kg/con, 6 tháng tuổi: 150÷170 kg/con, 12 tháng trong đàn bò có khi vài ba chục năm) 15-25%.<br /> tuổi: 240÷270 kg/con, 24-36 tháng tuổi: 450÷600 Trong điều kiện như vậy, với hiện trạng con<br /> kg/con, lúc giết mổ (24-27 tháng tuổi): 500÷550 kg. giống ở Nghệ An hiện nay, để phát triển chăn<br /> Tỷ lệ thịt xẻ (móc hàm): 58÷60%. Bò cái dễ đẻ, lành nuôi bò thịt có hiệu quả kinh tế, có đủ sản<br /> tính, nuôi con tốt, đẻ lần đầu: 12÷16 tháng, khoảng phẩm thịt, chất lượng tương đương thịt bò Úc<br /> cách giữa 2 lần đẻ: 11÷12 tháng. mà ta đang nhập về giết thịt cung cấp cho<br /> - Giống bò BBB: Bò BBB (Blanc Blue Belge) là người tiêu dùng trong siêu thị, nhà hàng<br /> giống bò thịt đặc biệt của thế giới được tạo ra từ nhiều (restaurant), khách sạn thì cần phải làm gì?<br /> giống bò địa phương của Bỉ với bò Shorthorn từ năm Trước hết có thể thấy, với điều kiện kinh tế<br /> <br /> [24]<br /> Tạp chí<br /> SỐ 2/2017<br /> KH-CN Nghệ An<br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> và năng lực khoa học như hiện nay, chúng ta không thể lai tạo Trước mắt, sử dụng bò cái vàng làm<br /> để cho ra giống bò chuyên thịt (BBB, Limousine, Herrford… nền cho phối với tinh bò Sind, Zebu,<br /> ) ở Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng, vì nó đòi hỏi Brahman... tạo ra các con lai F1. Bò<br /> nguồn tiền hàng trăm ngàn tỷ đồng, với thời gian lên tới hàng đực lai F1 nuôi để lấy thịt, khối lượng<br /> chục năm. Và đến lúc đó, chúng ta cũng chỉ có giống bò mới, và năng suất thịt của chúng đã cao hơn<br /> chứ chưa có đàn bò giống mới cao sản hàng trăm ngàn con. bò vàng 25-30%. Bò cái lai F1 sử dụng<br /> Giải pháp tốt nhất, ít tốn kém nhất và ngắn nhất là biện pháp để cho lai tiếp với bò Brahman, Lim-<br /> lai, tạo ra đàn bò lai cải tiến. ousine, Hereford… để tạo ra con lai F2,<br /> khối lượng và năng suất thịt bò lai F2<br /> cao hơn bò lai F1 khoảng 10-15% và<br /> cao hơn bò vàng 30-40%. Trong<br /> khoảng 10 năm khi tỷ lệ bò lai trong<br /> đàn bò lên tới 70% thì trong đó sẽ có<br /> khoảng 50% bò lai F1 và 20% bò lai<br /> F2, lúc đó năng suất cũng như sản<br /> lượng bò xuất chuồng để giết thịt sẽ<br /> tăng không chỉ là 3-5%/năm mà cao<br /> hơn (6-8%/năm).<br /> Cũng cần nói thêm rằng, để tăng<br /> năng suất và hiệu quả chăn nuôi bò thịt,<br /> không thể không giải quyết thỏa đáng<br /> nhu cầu dinh dưỡng, thức ăn cho<br /> chúng. Về chiến lược thì không nên<br /> tăng số lượng đàn bò, vì nó sẽ làm tăng<br /> áp lực về việc tạo nguồn thức ăn thô<br /> xanh để cung cấp cho chúng, đồng thời<br /> làm tăng lượng chất thải (phân, nước<br /> tiểu) là tăng nguy cơ gây ô nhiễm môi<br /> trường. Giải pháp tăng kích cỡ (kích<br /> thước, khối lượng) là giải pháp tốt hơn<br /> và bền vững hơn./.<br /> Tài liệu tham khảo<br /> 1. Nguyễn Kim Đường, 2009, Báo cáo tổng<br /> kết đề tài KH&CN cấp Tỉnh “Nghiên cứu đánh<br /> Công thức lai tạo bò thịt cao sản ở Việt Nam giá hiện trạng và đề xuất giải pháp phát triển<br /> chăn nôi bò hàng hóa bền vững ở Nghệ An”.<br /> Trong đàn bò nói chung ở Nghệ An, bò cái (sinh sản) 2. https://www.youtube.com/watch?<br /> chiếm 58,24%, trong đó ở bò vàng là 58,73%, bò lai là v=9spgjnCd704<br /> 3. http://vinacattle.vn/ban-bo-giong/bo-<br /> 57,03% (Nguồn: Ngyễn Kim Đường, 2009, Nghiên cứu<br /> droughtmaster.html<br /> đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp phát triển chăn nôi 4. http://nong-dan.com/cac-giong-bo-noi-<br /> bò hàng hóa bền vững ở Nghệ An, Báo cáo tổng kết). Với bo-lai-bo-chuyen-thit-va-bo-sua-o-viet-nam/<br /> 429.000 con bò hiện có thì số bò cái sinh sản là khoảng 5. http://khuyennonghanoi.gov.vn/ChiTiet-<br /> 250.000 con, trong đó bò cái vàng 147.000 con. Tỷ lệ sinh TinBai.aspx?ID=2066<br /> 6. http://xn—b-tga.vn/?page=newsDetail<br /> sản của bò cái vàng hàng năm là khoảng 70%, như vậy mỗi<br /> &id=764468&site=34844<br /> năm có khoảng 103.000 con bò vàng sinh bê. Nếu 100% bê 7.http://www.thongtinkhcndaklak.vn/thanht<br /> sinh ra này là bê lai thì mỗi năm tỷ lệ bò lai tăng 2,4%. Để uu/channuoi/2013/2.8.%20Bo%20lai%20chat<br /> nâng tỷ lệ bò lai trong đàn bò (hiện nay là 48%) lên 70%, %20luong%20cao.pdf<br /> chúng ta sẽ mất 10 năm.<br /> SỐ 2/2017<br /> Tạp chí<br /> [25]<br /> KH-CN Nghệ An<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2