TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72B, số 3, năm 2012<br />
<br />
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU<br />
CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ<br />
Hà Thị Hằng<br />
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế<br />
Tóm tắt. Là một tỉnh của miền Trung, Thừa Thiên Huế có nguồn lao động dồi dào<br />
nhưng chất lượng còn thấp xét theo trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề và chỉ báo<br />
về kiến thức, kỹ năng làm việc, thái độ lao động. Vấn đề đặt ra là, để rút ngắn con<br />
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuẩn bị những tiền đề cần thiết để hình<br />
thành nền kinh tế tri thức, tỉnh Thừa Thiên Huế cần có những giải pháp đồng bộ<br />
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong những năm tới.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng<br />
trưởng nhanh và bền vững phải dựa ít nhất vào 3 trụ cột chính: áp dụng khoa học - công<br />
nghệ mới, phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.<br />
Trong đó, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao là trụ cột quan<br />
trọng nhất. Thừa Thiên Huế là một trong những tỉnh của miền Trung không có nhiều lợi<br />
thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên như một số tỉnh, thành<br />
phố khác, nhưng Thừa Thiên Huế lại có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào. Tuy nhiên,<br />
trước xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển kinh tế tri thức, chất lượng nguồn nhân lực<br />
của tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển<br />
kinh tế tri thức. Vì vậy, tỉnh xác định nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là hướng đi<br />
đột phá trong những năm tới.<br />
2. Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hóa,<br />
hiện đại hóa ở tỉnh Thừa Thiên Huế<br />
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại<br />
hóa. Lịch sử đã chứng minh, nguyên nhân dẫn sự hồi phục nhanh chóng của nước Đức<br />
sau chiến tranh thế giới thứ 2 và sự phát triển thần kỳ của các quốc gia và vùng lãnh thổ<br />
có nền công nghiệp phát triển ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singgapore, Đài<br />
Loan, Trung Quốc...không chỉ bắt nguồn từ phát triển khoa học - công nghệ mà chủ yếu<br />
là dựa vào ngồn nhân lực. Ngày nay, khi nền kinh tế thế giới đang chuyển dần từ nền<br />
kinh tế dựa vào tài nguyên sang nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức, nguồn nhân lực<br />
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.<br />
Thừa Thiên Huế là một tỉnh của miền Trung, điều kiện tự nhiên tương đối khắc<br />
nghiệt, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, nguồn vốn bị hạn chế. Do đó, để thực hiện<br />
85<br />
<br />
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải biết khai thác tiềm năng con người, nâng cao<br />
chất lượng nguồn nhân lực. Bởi vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là nâng<br />
cao trình độ dân trí, vốn tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, trang bị những kiến thức mới<br />
cho người lao động để chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học - công nghệ đang diễn ra.<br />
Đồng thời, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với các<br />
địa phương khác, điều kiện để đi tắt, đón đầu nhằm rút ngắn khoảng cách về sự phát<br />
triển so với các trung tâm kinh tế khác. Hơn nữa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực<br />
để thực hiện mục tiêu mà Kết luận 48/KL - TW ngày 25/5/2009 của Bộ Chính trị về xây<br />
dựng, phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020 đã đề ra: Xây dựng Thừa Thiên<br />
Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới, là trung tâm của khu<br />
vực miền Trung, là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hoá, du<br />
lịch, khoa học - công nghệ, y tế chuyên sâu, giáo dục - đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực,<br />
chất lượng cao. Phấn đấu đến năm 2020, Thừa Thiên Huế xứng tầm là trung tâm đô thị<br />
cấp quốc gia, khu vực và quốc tế - một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa<br />
học - công nghệ, y tế, đào tạo lớn của cả nước và khu vực các nước Đông Nam Á…<br />
3. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Thừa Thiên Huế<br />
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực<br />
chất lượng cao đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Thừa Thiên<br />
Huế đã xây dựng Đề án 02/TU/2008 về đào tạo tiến sỹ, thạc sỹ tại cơ sở nước ngoài, Đề<br />
án 03/TU/2008 về đào tạo cán bộ cơ sở chủ chốt xã, phường, thị trấn theo chức danh,<br />
Quy hoạch phát triển giáo dục - đào tạo đến năm 2015 và định hướng đến 2020, Đề án<br />
phát triển dạy nghề giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn 2020... Đến nay, tỉnh đã có một<br />
đội ngũ nguồn nhân lực khá dồi dào.<br />
Bảng 1. Cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động phân theo trình độ học vấn<br />
<br />
2001<br />
<br />
2005<br />
<br />
2010<br />
<br />
Chỉ tiêu<br />
Số người<br />
<br />
%<br />
<br />
Số người<br />
<br />
%<br />
<br />
Số người<br />
<br />
%<br />
<br />
Chưa biết chữ<br />
<br />
77,056<br />
<br />
17<br />
<br />
61,529<br />
<br />
12<br />
<br />
36,217<br />
<br />
6,5<br />
<br />
Chưa tốt nghiệp Tiểu học<br />
<br />
86,121<br />
<br />
19<br />
<br />
92,294<br />
<br />
18<br />
<br />
89,150<br />
<br />
16<br />
<br />
Tốt nghiệp Tiểu học<br />
<br />
137,794<br />
<br />
30,4<br />
<br />
153,823<br />
<br />
30<br />
<br />
156,013<br />
<br />
28<br />
<br />
Tốt nghiệp Trung học cơ sở<br />
<br />
81,588<br />
<br />
18<br />
<br />
99,985<br />
<br />
19,5<br />
<br />
111,438<br />
<br />
20<br />
<br />
Tốt nghiệp Trung học phổ<br />
thông<br />
<br />
70,710<br />
<br />
15,6<br />
<br />
105,112<br />
<br />
20,5<br />
<br />
164,371<br />
<br />
29,5<br />
<br />
Tổng số<br />
<br />
453,269<br />
<br />
100<br />
<br />
512,743<br />
<br />
100<br />
<br />
557,189<br />
<br />
100<br />
<br />
(Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân<br />
lực tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2011 – 2020).<br />
86<br />
<br />
Nhìn tổng thể, trình độ dân trí, chất lượng và tính năng động xã hội của nguồn<br />
nhân lực được cải thiện đáng kể. Theo số liệu thống kê, trình độ học vấn của dân số<br />
trong độ tuổi lao động có sự chuyển biến tích cực: tỷ lệ lao động biết chữ năm 2005 là<br />
83% đến năm 2010 tăng lên 93,5%; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động có trình độ học<br />
vấn thấp (chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học) giảm dần từ 36% năm 2001 giảm<br />
xuống 22,5% năm 2010; tỷ lệ lao động có trình độ học vấn cao (tốt nghiệp THCS và<br />
THPT) ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng cao, năm 2001 chiếm 33,6% đến năm 2010<br />
chiếm 49,5% trong đó tỷ lệ lao động tốt nghiệp THCS là 20% và lao động tốt nghiệp<br />
THPT là 29,5% (tăng gần 2 lần so với năm 2001).<br />
Cùng với trình độ học vấn của người lao động được nâng lên, xu hướng tri thức<br />
hóa để hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng rõ nét. Theo số liệu điều tra<br />
của Cục Thống kê và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: Năm 1999 tỉnh có 805<br />
người có trình độ trên đại học (trong đó có 586 thạc sỹ, 219 tiến sỹ), 15.694 người có<br />
trình độ đại học, 5.430 người có trình độ cao đẳng (cao đẳng chuyên nghiệp và cao đẳng<br />
nghề), 14.142 người có trình độ trung cấp (trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề),<br />
công nhân kỹ thuật, sơ cấp là 12.787 người [1]. Đến năm 2010, số người có trình độ<br />
trên đại học là 2.024 người (trong đó có 1.609 thạc sỹ, 415 tiến sỹ); 41.744 người có<br />
trình độ đại học; 13.505 người có trình độ cao đẳng; 34.198 người có trình độ trung cấp;<br />
công nhân kỹ thuật, sơ cấp là 202.860 người [4]. Ngoài ra, Thừa Thiên Huế có 148 giáo<br />
sư, phó giáo sư; 106 nhà giáo nhân dân và nhà giáo ưu tú; 15 thầy thuốc nhân dân và<br />
thầy thuốc ưu tú; 16 nghệ sỹ ưu tú.<br />
Hiện nay, chỉ tính riêng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh, tỷ lệ trên<br />
đại học chiếm 3,02 %; đại học và cao đẳng 85,11%; trung cấp 10,41%; các hình thức<br />
khác còn lại 1,46%; quản lý nhà nước 18,72%; tin học 54,19%; ngoại ngữ 30,54%,<br />
trong đó:<br />
- Đội ngũ cán bộ, công chức quản lý hành chính nhà nước có trình độ chuyên<br />
môn, nghiệp vụ đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ 89,27%; cao đẳng, trung cấp<br />
10,73%; lý luận chính trị 38,10% (cử nhân chính trị và cao cấp 14,42%).<br />
- Đội ngũ cán bộ, viên chức các đơn vị sự nghiệp có trình độ chuyên môn,<br />
nghiệp vụ đại học và trên đại học chiếm 62,28%; cao đẳng, trung cấp 37,72%; lý luận<br />
chính trị 9,3% (cử nhân và cao cấp chính trị 1,56%) [3].<br />
Theo đánh giá, lao động có trình độ đại học và trên đại học của tỉnh có tỷ lệ khả<br />
quan chiếm 4,9%, cao hơn so với các vùng khác: Trung du và miền núi phía Bắc (2,8%),<br />
Tây Nguyên (2,8%), Đồng bằng sông Cửu Long (2,1%). Bên cạnh đó, các yếu tố đảm<br />
bảo về mặt chất lượng, thể hiện ở năng lực, khả năng sáng tạo, biết vận dụng những tri<br />
thức, kỹ năng được đào tạo vào nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lãnh đạo, quản lý, lao<br />
động sản xuất, chăm sóc sức khỏe cộng đồng... cũng được nâng lên. Theo báo cáo của<br />
Liên đoàn Lao động tỉnh, giai đoạn 2003 - 2008 có 13.100 đề tài nghiên cứu khoa học,<br />
87<br />
<br />
sáng kiến, sáng tạo của công nhân viên chức được ứng dụng và phục vụ tốt cho sản xuất<br />
và đời sống, có hàng trăm đề tài, giải pháp được tỉnh, Bộ, ngành Trung ương công nhận,<br />
có 30 lượt công nhân viên chức lao động được Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam trao<br />
tặng bằng khen và huy hiệu sáng tạo. Đến giai đoạn 2008 - 2011 có thêm 3.527 đề tài<br />
nghiên cứu khoa học, sáng kiến và giải pháp hữu ích của cán bộ công nhân viên chức<br />
lao động được thực hiện, 449 công trình, sản phẩm mới chào mừng các ngày lễ lớn và<br />
các sự kiện chính trị của đất nước, có thêm 12 cá nhân được Tổng Liên đoàn lao động<br />
Việt Nam trao tặng bằng khen và huy hiệu sáng tạo. Năm 2006 đã có 98 nhà nghiên cứu<br />
khoa học được tặng giải thưởng cố đô về khoa học công nghệ (lần thứ nhất).<br />
Có thể khẳng định, tiềm lực và năng lực nguồn nhân lực của tỉnh Thừa Thiên<br />
Huế ngày càng được nâng cao nhờ sức lao động từng bước được giải phóng, mọi người<br />
có cơ hội phát triển nghề nghiệp, tài năng và sức lao động sáng tạo của mình. Bên cạnh<br />
đó, tính năng động xã hội của lao động cũng được phát huy trong cơ chế thị trường. Tuy<br />
nhiên, trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu hướng phát triển<br />
kinh tế tri thức, tỉnh đang đứng trước thách thức lớn về nhu cầu nguồn nhân lực: Tỷ<br />
trọng nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhỏ bé so với nhu cầu thực tế, trong khi tỉnh<br />
dư thừa rất lớn lao động phổ thông thì lại thiếu hụt nghiêm trọng lao động có trình độ<br />
cao để cung cấp cho các khu công nghiệp, xuất khẩu lao động: Theo thống kê, đến năm<br />
2009, trong nhóm dân số từ 15 tuổi trở lên của tỉnh có đến 87,4% lao động không có<br />
trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) (tỷ lệ này cao hơn so với vùng Đồng bằng Sông<br />
Hồng (80,6%), vùng Đông Nam Bộ (84,2%), vùng Trung du và miền núi phía Bắc<br />
(86,7%)), số lao động có trình độ CMKT chỉ chiếm tỷ lệ 12,6%. Cơ cấu lao động về<br />
trình độ CMKT trong các ngành kinh tế quốc dân còn nhiều bất cập, chưa hợp lý: lực<br />
lượng lao động chưa được đào tạo CMKT ở một số ngành kinh tế còn rất cao như nông<br />
- lâm - ngư nghiệp chiếm 98,2%, công nghiệp chế biến và chế tạo 89,1%, xây dựng<br />
91,8%, thương nghiệp 90,0%. Các bậc đào tạo chậm chuyển biến dẫn đến tình trạng<br />
thừa thầy, thiếu thợ nghiêm trọng: năm 1999, cơ cấu đó là: 1 (đại học và trên đại học) 0,34 (cao đẳng) - 0,85 (trung cấp) - 0,78 (sơ cấp và công nhân kỹ thuật); năm 2009 là 1<br />
(đại học và trên đại học) - 0,30 (cao đẳng) - 0,77 (trung cấp) - 5,23 (sơ cấp và công nhân<br />
kỹ thuật). Cơ cấu đào tạo trình độ giữa các cấp nghề có sự bất cập: sơ cấp nghề và<br />
tương đương chiếm hơn 84%; trong khi trung cấp nghề và tương đương chỉ 14%, còn<br />
cao đẳng nghề lại quá ít, chỉ có 1,79%; giữa thành thị và nông thôn cũng có sự chênh<br />
lệch về trình độ CMKT: ở khu vực thành thị, lao động có trình độ đại học và trên đại<br />
học cao gấp 5,5 lần so với khu vực nông thôn (thành thị là 9,9% và nông thôn là 1,8%),<br />
lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng; thành thị cao hơn 2,3 lần so với nông thôn<br />
(6,4% và 1,9% thành thị và 2,7% và 1,1 ở nông thôn). Trong những năm gần đây chỉ có<br />
hơn 13% lao động ở nông thôn đã qua đào tạo nghề. Cứ 1.000 lao động ở nông thôn thì<br />
mới có 6 đến 8% số người được đào tạo kỹ thuật về nông - lâm - ngư nghiệp. 79% số<br />
lao động thuần nông không có CMKT; lao động trẻ của tỉnh không có trình độ CMKT<br />
còn chiếm tỷ lệ cao. Nhóm tuổi 15 - 17, 18 - 19 không có trình độ CMKT chiếm tỷ lệ<br />
88<br />
<br />
cao nhất (99,5% và 97,2%). Tiếp đến là đến nhóm tuổi 40 - 44, 45 - 49, trên 50 tuổi<br />
(89,2%, 85,1%, 91,1%). Nếu so sánh trình độ CMKT giữa các nhóm tuổi cho thấy: chỉ<br />
có nhóm tuổi từ 25 - 29 và 30 - 34 có trình độ đại học trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất<br />
(12,2% và 9,3%); đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn hiện rất hạn chế về năng lực,<br />
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là các xã miền núi, hiện hơn 50% cán bộ xã,<br />
phường, thị trấn của chúng ta chưa đạt chuẩn<br />
Bảng 2. Tỷ trọng lao động chia theo trình độ CMKT, giới tính, thành/nông thôn<br />
Đơn vị tính: %<br />
<br />
Tổng số<br />
<br />
Khôngcó<br />
trình độ<br />
CMKT<br />
<br />
Sơ cấp<br />
<br />
Trung<br />
cấp<br />
<br />
Cao đẳng<br />
<br />
Đại học<br />
<br />
100,0<br />
<br />
87,4<br />
<br />
2,2<br />
<br />
4,1<br />
<br />
1,4<br />
<br />
4,9<br />
<br />
Nam<br />
<br />
100,0<br />
<br />
85,3<br />
<br />
3,4<br />
<br />
4,3<br />
<br />
1,1<br />
<br />
5,9<br />
<br />
Nữ<br />
<br />
100,0<br />
<br />
89,5<br />
<br />
1,0<br />
<br />
3,9<br />
<br />
1,6<br />
<br />
4,0<br />
<br />
Thành thị<br />
<br />
100,0<br />
<br />
78,7<br />
<br />
3,1<br />
<br />
6,4<br />
<br />
1,9<br />
<br />
9,9<br />
<br />
Nông thôn<br />
<br />
100,0<br />
<br />
92,8<br />
<br />
1,6<br />
<br />
2,7<br />
<br />
1,1<br />
<br />
1,8<br />
<br />
Toàn tỉnh<br />
<br />
Theo giới tính<br />
<br />
Theo khu vực<br />
<br />
(Nguồn: Cục Thống kê Thừa Thiên Huế, Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh Thừa Thiên<br />
Huế năm 2009).<br />
<br />
4. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở tỉnh Thừa Thiên Huế<br />
Từ thực trạng trên, đặt ra yêu cầu cấp bách đối với tỉnh Thừa Thiên Huế trong<br />
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện<br />
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tỉnh<br />
cần tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau đây:<br />
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của xã hội về sự cần thiết phải nâng cao chất<br />
lượng nguồn nhân lực. Đối với nước ta nói chung, tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng mặc<br />
dù có lợi thế về dân số, lực lượng lao động dồi dào nhưng lại thiếu đội ngũ lao động có<br />
chuyên môn kỹ thuật cao, thiếu những người thợ có tay nghề giỏi để đáp ứng yêu cầu<br />
phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời đại ngày nay, khi khoa học - công nghệ trở thành<br />
lực lượng sản xuất trực tiếp thì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phải được<br />
đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi cấp, mọi ngành và người dân đều<br />
nhận thức rõ vấn đề này. Vì vậy, tỉnh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao<br />
nhận thức cho toàn xã hội mà trước hết là các cấp quản lý; đổi mới tư duy về phát triển<br />
nguồn nhân lực theo hướng cởi mở và khách quan.<br />
89<br />
<br />