intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp dụng

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:6

58
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Qua mười năm hoạt động và thực hiện Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế có thể nói Tòa án nhân dân các cấp có thẩm quyền đã vận dụng tốt các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp kinh tế. Mời các bạn cùng tìm hiểu vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải quyết tranh chấp về hợp đồng kinh tế những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp dụng

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 26, 2005<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ <br /> NHỮNG BẤT CẬP DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC TIỄN ÁP DỤNG <br /> <br />                                                                 Đoàn Đức Lương<br />                                                                  Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế<br /> <br /> <br />         Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa IX, kỳ  họp thứ  tư  đã thông qua  <br /> Luật sửa đổi bổ  sung một số  điều của Luật tổ  chức Tòa án nhân dân vào ngày 28 <br /> tháng 12 năm 1993. Điều 1 của Luật quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân xét  <br /> xử  các vụ  án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động và giải quyết  <br /> những việc khác theo quy định của pháp luật. Trên cơ  sở  đó Pháp lệnh thủ  tục giải  <br /> quyết các vụ  án kinh tế  được ban hành có hiệu lực thi hành từ  ngày 1 tháng 7 năm  <br /> 1994 quy định thẩm quyền và thủ  tục giải quyết các tranh chấp kinh tế. Kể từ thời  <br /> điểm này chấm dứt hoạt động của Cơ quan trọng tài kinh tế nhà nước các cấp và các  <br /> tranh chấp kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo thủ tục tố <br /> tụng kinh tế. Qua mười năm hoạt động và thực hiện Pháp lệnh Thủ  tục giải quyết  <br /> các vụ  án kinh tế  có thể  nói Tòa án nhân dân các cấp có thẩm quyền đã vận dụng  <br /> tôtú các quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp kinh tế. Việc giải quyết  <br /> đã mang lại quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ  thể  kinh doanh, đảm bảo công  <br /> khai, trực tiếp, bước  đầu đã tạo niềm tin cho các chủ thể vào hình thức giải quyết  <br /> tranh chấp kinh tế  mới tại toà án theo thủ  tục tố  tụng tư  pháp. Tình hình thụ  lý và  <br /> giải quyết các tranh chấp kinh tế tại cấp sơ thẩm mười năm qua như sau:<br /> Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003<br /> Số vụ án <br /> 78 453 532 630 1266 1280 859 575 657 748<br /> thụ lý mới<br /> Số vụ án <br /> được giải  42 372 496 518 1078 1010 859 575 557 638<br /> quyết<br /> (Nguồn các Báo cáo tổng kết ngành của Toà án nhân dân tối cao)<br />         Trong các tranh chấp kinh tế phát sinh tại Tòa án các tranh chấp về hợp đồng <br /> kinh tế  chiếm tỷ lệ chủ yếu nhưng khi áp dụng các quy định của pháp luật về  hợp  <br /> đồng nhiều trường hợp gặp phải nội dung của điều luật quy định không rõ ràng, dễ <br /> 69<br /> dẫn đến cách hiểu khác nhau và chưa có hướng dẫn áp dụng thống nhất nên các tòa <br /> án áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp cụ thể dễ dẫn đến kết quả  khác <br /> nhau. Điều 8 Pháp lệnh  Hợp đồng kinh tế  quy định hợp đồng kinh tế  bị  coi là vô <br /> hiệu trong các trương hợp: Nội dung của hợp đồng kinh tế  vi phạm điều cấm của <br /> pháp luật; một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế  không có đăng ký kinh doanh <br /> theo quy định của pháp luật để  thực hiện công việc đã được thỏa thuận trong hợp  <br /> đồng; người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Việc  <br /> xử lý tài sản tiến hành theo nguyên tắc các bên có nghĩa vụ hoàn trả  cho nhau tất cả <br /> tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên vào năm 1989, tuy nền  <br /> kinh tế  đổi mới từ  tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường nhưng Pháp lệnh hợp <br /> đồng kinh tế, một pháp lệnh gần như  "con đẻ" của cơ  chế  tập trung quan liêu bao <br /> cấp vẫn được thông qua (1). Đến thời điểm hiện nay Pháp lệnh vẫn còn hiệu lực thi <br /> hành nên thực tiễn giải quyết tuyên bố hợp đồng kinh tế vô hiệu còn vướng mắc. Ví  <br /> dụ về một trường hợp cụ thể  tranh chấp về hợp đồng kinh tế  việc giải quyết của  <br /> các cấp Tòa án khác nhau: Tranh chấp hợp đồng mua bán tôm đông lạnh giữa Công ty  <br /> xuất nhập khẩu thủy sản HN (gọi tắt là Công ty HN) và Công ty thủy sản thương <br /> mại TP (gọi tắt là Công ty TP).<br />          Ngày 22 ­ 2 ­ 2001 Công ty HN ký hợp đồng số 01/TSHN ­ TP bán hàng tôm  <br /> PUD đông lạnh cho Công ty TP bao gồm các điều khoản kích cỡ, giá cả, phương  <br /> thức thanh toán... Thực hiện hợp đồng này các ngày 3­4 và 5 ­3­2001 tại kho Lê Lai, <br /> Hải Phòng, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ  sản HN đã giao cho Công ty thuỷ  sản và  <br /> thương mại TP lô hàng tôm đông lạnh các loại với số  lượng 27.360 kg, thành tiền <br /> 50.163,49 USD và khoản tiền thuế  giá trị  gia tăng của lô hàng này là 69.712.202  <br /> đồng. Ngoài ra Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản HN còn mua hộ bao bì là 9.152.000 <br /> đồng và khoản tiền thuế  giá trị  gia tăng của bao bì là 915.200 đồng. Về  thanh toán  <br /> sau khi đã đối chiếu công nợ  hai bên phát sinh tranh chấp. Do hai bên không thống  <br /> nhất được về số liệu công nợ nên ngày 27­01­ 2002 Công ty xuất nhập khẩu HN đã  <br /> có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân Thành phố  HP với yêu cầu buộc Công ty TP  <br /> phải thanh toán số tiền còn thiếu.<br />           Bản án kinh tế sơ thẩm số 02/ KTST đã công nhận hợp đồng hợp pháp tuyên <br /> xử  buộc Công ty TP phải thanh toán tiền hàng còn thiếu là 379,39 USD, tiền thuế <br /> VAT của lô hàng là 69.712.202 đồng, tiền lãi do chậm thanh toán tiền hàng là 525,76  <br /> USD, tiền lãi chậm trả của tiền thuế và bao bì là 24.609.950 đồng.<br />        Công ty TP kháng cáo yêu cầu xem xét lại khoản tiền 5.203, 20USD do khách  <br /> hàng nước ngoài đã trừ  vì hàng kém phẩm chất. Tòa phúc thẩm sau khi xem xét đơn  <br /> kháng cáo và các chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã ra bản án phúc thẩm số 126 ngày 10  <br /> 70<br /> ­ 08 ­ 2002 tuyên bố hợp đồng kinh tế số 01/TSHN­TP vô hiệu toàn bộ vì khi ký kết <br /> hợp đồng trên đại diện Công ty thuỷ sản và thương mại TP và ông Trịnh Bá H (Phó  <br /> giám đốc) đã không được Giám   đốc công ty  ủy quyền do đó đã vi phạm điểm c, <br /> khoản 1, Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Trong bản án chỉ tuyên bố Công ty TP <br /> có trách nhiệm trả cho Công ty HN trị giá tài sản đã nhận còn lại là 379,39 USD quy  <br /> đổi ra  tiền   Việt Nam (VNĐ) vào thời điểm thanh toán.<br /> Sau khi vụ  án được xét xử  phúc thẩm các đương sự  có đơn khiếu nại nên  <br /> Chánh án Tòa án tối cao đã có kháng nghị số 04/ 2002/ TK­KT đối với bản án số 126 <br /> của Tòa án cấp phúc thẩm. Trong Quyết định số 08/UBTP­KT của Ủy ban thẩm phán  <br /> Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm nhận định việc tuyên bố <br /> hợp đồng vô hiệu là toàn bộ là phù hợp nhưng cấp phúc thẩm không xem xét số tiền  <br /> thuế  giá trị  gia tăng 69.712.202 đồng mà Công ty HN đã nộp thay cho Công ty TP.  <br /> Tiền thuế này Công ty TP đã làm thủ tục khê khai khấu trừ theo công văn của trả lời <br /> của Cục Thuế;  đồng thời Công ty TP có văn bản cam kết sẽ  chuyển 10 phần trăm <br /> thuế giá trị gia tăng cho Công ty HN khi được Cục Thuế khấu trừ. Vì vậy, quyết định <br /> giám đốc thẩm đã sửa một phần bản án phúc thẩm buộc Công ty TP phải hoàn trả <br /> 69.712.202 đồng cho Công ty HN.<br />      Trong vụ  án trên, quan điểm của cấp sơ  thẩm và cấp phúc thẩm về  vụ  án <br /> khác nhau nên đưa ra các phán quyết hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, cần xem xét <br /> việc đưa ra các phán quyết của hai cấp xét xử  dựa trên các quy định nào của pháp  <br /> luật. Theo quy định tại điểm c, khoản 1, điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì hợp  <br /> đồng kinh tế bị coi là vô hiệu toàn bộ khi người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng  <br /> thẩm quyền. Trong thực tế  có những trường hợp hợp đồng do cấp phó ký trong <br /> phạm vi phân công nội bộ công ty (cấp phó phụ trách mảng kinh doanh) hoặc người  <br /> đại diện theo pháp luật biết việc ký kết hợp đồng kinh tế  và thực hiện hợp đồng <br /> kinh tế đó có coi là có sự chấp thuận hay không. Theo quy định tại điều 154 Bộ luật  <br /> Dân sự năm 1995 quy định giao dịch dân sự do người không có thẩm quyền đại diện  <br /> xác lập thực hiện không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ  đối với người được đại  <br /> diện trừ  trường hợp được người đại diện chấp thuận . Trở  lại vụ  án trên, mặc dù <br /> hợp đồng kinh tế  do Phó giám đốc Công ty ký không có ủy quyền nhưng hợp đồng  <br /> đã được thực hiện thông qua việc Công ty TP đã  nhận đủ  hàng bán lại cho đối tác  <br /> khác và đã thanh toán 650 triệu đồng cho Công ty HN.  Ở đây, rõ ràng đã có sự chấp  <br /> thuận của Giám đốc ­ người đại diện theo pháp luật của Công ty TP nên việc xử hủy  <br /> hợp đồng kinh tế là bất hợp lý. Xuất phát từ thực tế trên Nghị quyết số 04/ 2003/NQ­ <br /> HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn:  <br /> nếu người  ký kết hợp đồng kinh tế  không đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình  <br /> 71<br /> thực hiện hợp đồng kinh tế, mà người theo quy định của pháp luật có thẩm quyền ký  <br /> kết hợp đồng kinh tế đó chấp thuận thì hợp đồng kinh tế  đó không bị  coi là vô hiệu  <br /> toàn bộ. Theo chúng tôi hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao chỉ là giải pháp tạm <br /> thời chưa giải quyết triệt để  vấn đề. Nếu người có thẩm quyền đại diện yêu cầu  <br /> tuyên bố hợp đồng kinh tế vô hiệu do người ký kết không đúng thẩm quyền mới áp  <br /> dụng các quy định của Nghị quyết xem đã có sự   chấp thuận hay không như: Có căn <br /> cứ chứng minh người ký kết hợp đồng kinh tế đã báo cáo với người có thẩm quyền, <br /> người có thẩm quyền đã tham gia thực hiện các quyền và nghĩa vụ  phát sinh trong <br /> hợp đồng kinh tế  (giao tiền, nhận hàng...). Trong trường hợp người ký kết không  <br /> đúng thẩm quyền nhưng các bên tham gia không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu  <br /> mà chỉ yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh theo hợp <br /> đồng thì Tòa án tuyên bố  hợp đồng vô hiệu hay giải quyết tranh chấp về quyền và <br /> nghĩa vụ theo yêu cầu của các bên. Các bên tham gia hợp đồng biết được việc tham <br /> gia ký kết hợp đồng của một bên do người không đúng thẩm quyền nhưng hai bên  <br /> chủ  thể  vẫn mặc nhiên thừa nhận không yêu cầu tuyên bố  vô hiệu. Đây là vấn đề <br /> trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế  chưa quy định nên việc áp dụng chưa thống nhất <br /> và thực tế Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án trên căn cứ vào yêu cầu của các bên,  <br /> còn cấp phúc thẩm lại căn cứ  vào Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Như  vậy trong thực  <br /> tiễn có những trường hợp nếu giải quyết phù hợp với thực tiễn đảm bảo lợi ích của <br /> các bên lại không phù hợp với pháp luật, ngược lại nếu theo pháp luật sẽ cứng nhắc <br /> và không phù hợp với thực tế. Do đó, khi Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập <br /> kinh tế quốc tế, pháp luật về hợp đồng phải hướng tới sự đảm bảo an toàn,  lẽ công  <br /> bằng cho các chủ thể nói chung và chủ thể hợp đồng kinh tế nói riêng, góp phần làm  <br /> lành mạnh môi trường kinh doanh. Để  đảm bảo quyền tự  do hợp đồng  nên đã đến  <br /> lúc tuyên bố hủy bỏ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 và xây dựng chế định hợp <br /> đồng chung trong Bộ luật dân sự hoặc luật riêng về hợp đồng phù hợp với điều kiện  <br /> kinh tế  xã hội  ở  nước ta hiện nay và trong tương lai. Hiện nay,  ở  nước ta chính vì <br /> quan niệm hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế  có bản chất pháp lý khác nhau, do  <br /> đó, pháp luật điều chỉnh của chúng ta không có khả năng hỗ trợ bổ sung cho nhau đã <br /> dẫn đến tình trạng các cơ  quan tài phán Việt Nam thường lúng túng trong việc áp  <br /> dụng pháp luật (2). Việc xem xét hợp đồng vô hiệu nên quy định thành các trường  <br /> hợp khác nhau (tương tự như hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối) theo <br /> như  pháp luật các nước trên thế  giới. Trong trường hợp hợp đồng kinh tế  vi phạm <br /> điều kiện chủ  thể, thiếu sự tự  nguyện mà các bên vẫn chấp nhận thực hiện chỉ có  <br /> tranh chấp quyền và nghĩa vụ  phát sinh theo hợp đồng thì giải quyết theo yêu cầu <br /> không cần tuyên bố vô hiệu. Hợp đồng có thể sai quy định về hình thức, giao kết sai  <br /> 72<br /> thẩm quyền, nhầm lẫn, song các bên tự  nguyện chấp nhận thì Tòa án không can <br /> thiệp (3). Ngoài ra việc cần sửa đổi tên gọi hợp đồng kinh tế  thành hợp đồng kinh  <br /> doanh, hợp đồng thương mại có tính chất là các hợp đồng chuyên biệt cho đúng với  <br /> tính chất và mục đích và thống nhất với pháp luật trong nước (Điều 29 Bộ  luật tố <br /> tụng dân sự năm 2004, Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003...)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Chú thích:<br /> 1. Trần Hữu Huỳnh.  Pháp lệnh Trọng tài thương mại những thử  thách  <br /> phía trước. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc Hội,  số  4  <br /> (2003)  61        <br /> 2. Phương Linh.  Từ  chuyện "Hợp đồng vô hiệu" đến niềm tin vào pháp  <br /> luật. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc Hội, số 4 (2003) 12<br /> 3. Phạm Duy Nghĩa.  Vài bình luận ngắn về  pháp luật giải quyết tranh  <br /> chấp kinh doanh  ở  Việt Nam,  Kỷ  yếu hội thảo Giải quyết tranh chấp <br /> kinh doanh và phá sản doanh nghiệp, Nxb Giao thông vận tải (2000) 69.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995. Nxb Chính trị , Hà Nội (1995)<br /> 2. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Nxb chính trị , Hà Nội (1989)<br /> 3. Nghị  quyết số  04/2003/NQ­HDTP Hướng dẫn áp dụng một số  quy định của  <br /> pháp luật trong việc giải quyết các vụ  án kinh tế. Tòa án nhân dân tối cao <br /> (2003)<br /> 4. Bản án kinh tế phúc thẩm số126/PT­ KT. Tòa án nhân dân tối cao (2002)<br /> 5. Quyết định giám đốc thẩm số 08/UBTP­KT. Tòa án nhân dân tối cao (2002)<br /> TÓM TẮT<br /> <br />         Trong các tranh chấp kinh tế phát sinh tại Tòa án các tranh chấp về hợp đồng kinh  <br /> tế chiếm số  lượng chủ  yếu. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành về  hợp đồng  <br /> kinh tế đã lỗi thời, chồng chéo hoặc thiếu rõ ràng nên việc giải quyết của các cấp Tòa án  <br /> thiếu thống nhất. Bài viết chỉ ra những bất cập của pháp luật hợp đồng thông qua việc phân  <br /> tích một vụ  án cụ  thể  từ đó làm rõ sự  cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hợp đồng trong  <br /> điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.<br /> <br /> RESOLUTIONS OF ECONOMIC CONTRACTS ­ DRAWBACKS FROM <br /> THE POINT OF VIEW IN APPLICABLE PRACTICE<br /> 73<br /> Doan Duc Luong<br /> College of Sciences, Hue University<br /> SUMMARY<br /> <br /> Among   the   economic   disputes   arising   at   the   courts,   the   number   of   disputes   over  <br /> economic contracts is considerably big. However, the related resolutions are not made in the  <br /> same way by the courts of various levels due to the fact that the current regulations and laws  <br /> about economic contracts are either outdated or overlapped or ambiguous . This essay points  <br /> out the issue by analyzing a specific case, thereby showing the necessity to improve them to  <br /> adapt well to the existing market economy in our country.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 74<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2