intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại Tam giáo đồng nguyên và tư tưởng phật giáo trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải

Chia sẻ: ViHercules2711 ViHercules2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

63
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hình ảnh các nhà sư trong tác phẩm là những hình tượng thẩm mĩ tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, họ đào tạo ra các vị vua hiền từ, các bậc tướng giỏi, giáo dục tư tưởng nhân đạo và lòng yêu nước, hướng tới xây dựng một đất nước cường thịnh.Vì thế các vị vua hành đạo, đối thoại với tướng sĩ và dân chúng để giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm với đất nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại Tam giáo đồng nguyên và tư tưởng phật giáo trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải

HNUE JOURNAL OF SCIENCE<br /> Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 45-54<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0068<br /> <br /> GIÁO HUẤN ĐẠO TRỊ BÌNH BẰNG ĐỐI THOẠI TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN<br /> VÀ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG TÁM TRIỀU VUA LÝ CỦA HOÀNG QUỐC HẢI<br /> <br /> Nguyễn Thị Minh Phượng<br /> Trường Trung học phổ thông Cảm Nhân, Yên Bình, Yên Bái<br /> Tóm tắt. Hoàng Quốc Hải đã kết hợp tài tình giữa cốt lõi có thật của lịch sử với sự tưởng<br /> tượng hư cấu để sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật giáo huấn đạo trị bình bằng thuyết<br /> đối thoại “Tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý qua cuộc đối<br /> thoại lớn về tư tưởng, ý thức của các nhân vật thiền sư, vua hiền, tướng giỏi và nhân dân, để<br /> xây dựng một nước Đại Việt độc lập, tự chủ, tự cường và tự tôn dân tộc với một nền Phật giáo<br /> mang đậm bản sắc văn hóa riêng của người Việt Nam. Hình ảnh các nhà sư trong tác phẩm là<br /> những hình tượng thẩm mĩ tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, họ đào tạo ra các vị vua hiền từ, các<br /> bậc tướng giỏi, giáo dục tư tưởng nhân đạo và lòng yêu nước, hướng tới xây dựng một đất<br /> nước cường thịnh.Vì thế các vị vua hành đạo, đối thoại với tướng sĩ và dân chúng để giúp họ<br /> nhận thức rõ trách nhiệm với đất nước. Các vị vua mang lại cuộc sống hạnh phúc cho dân, mở<br /> ra trang sử vinh quang, huy hoàng của dân tộc. Các bài học lịch sử giáo huấn về đạo trị bình<br /> qua đối thoại của các nhân vật có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo<br /> vệ đất nước trong tương lai.<br /> Từ khóa: Hoàng Quốc Hải, Tám triều vua Lý, Tam giáo đồng nguyên, giáo huấn đạo trị bình.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mọi thời đại cần được mỗi người nhận thức sâu sắc<br /> và biến thành hành động thiết thực, tiểu thuyết lịch sử có vai trò quan trọng trong việc giáo dục<br /> các thế hệ nhận thức rõ bổn phận, trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp ấy qua những hình<br /> tượng nhân vật lịch sử chân thực, sống động và qua thể loại văn học này, nhiều bài học lịch sử<br /> quý báu được rút ra để phục vụ sự nghiệp chính trị cách mạng của quốc gia. Khi nghiên cứu về<br /> tiểu thuyết lịch sử, ta không thể không nhắc đến bộ tiểu thuyết Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc<br /> Hải. Đây là bộ tiểu thuyết lớn bàn về sự nghiệp chính trị cách mạng của nhà Lý, cho thấy tài năng<br /> nghệ thuật của tác giả trong việc xây dựng các hình tượng nhân vật, kể chuyện, kết cấu không<br /> gian, thời gian… Các bài viết nghiên cứu về tác phẩm này còn rất ít, chưa sâu. Ta có thể nhắc đến<br /> bài viết của Lê Thị Thu Trang ở Đại học Đồng Tháp bàn sơ lược về vấn đề người kể chuyện trong<br /> Tám triều vua Lý, bài viết của Nguyễn Thị Yến ở Đại học Vinh điểm qua một vài vấn đề thể loại<br /> như điểm nhìn trần thuật, thời gian nghệ thuật trong Tám triều vua Lý. Vì vậy trong bài viết này,<br /> tôi vận dụng lí thuyết đối thoại để phân tích một trong những nội dung quan trọng của tác phẩm<br /> này là giáo huấn đạo trị bình qua một số hình tượng nhân vật như Lý Thái Tổ, các bậc thiền sư…<br /> và đây cũng là một hướng viết mới góp phần nghiên cứu sâu hơn về tác phẩm này nói riêng và sự<br /> phát triển của tiểu thuyết lịch sử nói chung.<br /> Ngày nhận bài: 19/6/2018. Ngày sửa bài: 19/7/2018. Ngày nhận đăng: 2/8/2018.<br /> Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Minh Phượng. Địa chỉ e-mail: ntminhhoa197671@gmail.com<br /> <br /> 45<br /> <br /> Nguyễn Thị Minh Phượng<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> <br /> 2.1. Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại “Tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng<br /> Phật giáo<br /> Thật vậy, Hoàng Quốc Hải đã kết hợp tài tình giữa cốt lõi có thật của lịch sử với sự tưởng<br /> tượng hư cấu để sáng tạo ra “cốt truyện… phát triển các quan hệ giữa những con người, sáng tạo<br /> bởi con người và để cho con người” qua các nhân vật hành động và tạo những hình tượng nghệ<br /> thuật giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại “Tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo trong<br /> Tám triều vua Lý. Trong bài viết này, tôi tập trung nghiên cứu lí thuyết đối thoại và vận dụng nó<br /> vào việc phân tích luận điểm này. Ngay từ đầu thế kỷ XI, các nhân vật lịch sử được nói đến trong<br /> tác phẩm đã mang những “đặc tính chính trị” trong việc “điều hành đúng đắn- điều hành sai lầm”<br /> [4; tr.413, 415], có ý thức xây dựng một nước Đại Việt độc lập, tự chủ, tự cường, tự tôn dân tộc<br /> với một nền Phật giáo mang đậm bản sắc văn hóa riêng của người Việt Nam. Hình ảnh các nhà sư<br /> trong tác phẩm là những hình tượng thẩm mĩ tiêu biểu cho tầng lớp trí thức đại giác dạy bảo, đào<br /> tạo ra các vị vua hiền từ, các bậc tướng giỏi, đã định hướng cho các đấng minh quân, tướng sĩ và<br /> dân chúng đi theo con đường nhân đạo chính nghĩa, từ bi, hỷ xả, trút bỏ tham- sân- si, hướng tới<br /> sự giác ngộ chân lí của Phật pháp, hướng tới xây dựng một đất nước cường thịnh. Đi sâu vào tác<br /> phẩm, ta thấy nhà văn viết về họ bằng diễn ngôn lịch sử, tư tưởng của thời đại nhà Lý khá phù hợp.<br /> Đây là thời kì hệ thống chùa chiền được xây dựng ở khắp nơi, Phật giáo và nhiều tôn giáo khác<br /> được du nhập một cách chọn lọc những tinh hoa, tư tưởng Phật giáo bao trùm, thâm nhập sâu vào<br /> đời sống tinh thần mọi tầng lớp nhân dân, làm đời sống xã hội phát triển rất mạnh, thịnh vượng ở<br /> mọi mặt. Vì thế tư tưởng chủ đề của tác phẩm không nhuốm màu sắc siêu hình hay mê tín dị đoan<br /> khi giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại “tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo, những<br /> “lời cầu nguyện” chỉ là yếu tố “trợ thủ, điều kiện của hành động được nhân cách hóa” [4; tr.415].<br /> Ta có thể khẳng định tư tưởng chủ đề của bộ tiểu thuyết lịch sử này mang tính nhân văn, hướng<br /> tới nguyên lí chính nghĩa, gợi cho ta tiếp nhận nhiều bài học lịch sử quý báu cho hôm nay và<br /> muôn đời sau để xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc đất nước. Thông qua nguyên lí đối<br /> thoại, tư tưởng giáo huấn đạo trị bình được thể hiện qua việc các nhà sư tham chính, cố vấn cho<br /> vua tôi, giáo huấn các hoàng tử được truyền ngôi thấm nhuần ý thức, tư tưởng của Phật giáo ngay<br /> từ khi mới bắt đầu học chữ, học đạo để rồi sau này vận dụng vào con đường hành đạo, cứu người<br /> giúp đời, đối thoại với dân chúng để giáo hóa họ hướng thiện, đóng góp công sức xây dựng và bảo<br /> vệ Tổ quốc. Họ là những nhà sư yêu nước, là những bậc vua hiền tướng giỏi, có trách nhiệm với<br /> quốc gia dân tộc. Vì thế, cảm hứng chủ đạo trong Tám triều vua Lý là cảm hứng yêu nước, lòng<br /> yêu kính, niềm tự hào, ngưỡng mộ, cảm phục các bậc thiền sư, đấng minh quân, các vị anh hùng<br /> hào kiệt đem cái tâm Phật mở ra một trang sử mới thật vinh quang, huy hoàng cho dân tộc. Nhà<br /> văn hư cấu những suy nghĩ, lời nói và tâm lí của tất cả các nhân vật một cách hợp lí, để nhân vật<br /> hiện lên sống động, đầy cá tính, tạo sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, khơi gợi nhiều chủ đề đối<br /> thoại của cuộc sống, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về con người và cuộc đời.<br /> Tám triều vua Lý được kết cấu theo kiểu truyện lồng trong truyện hay ghép mảnh, mở ra một<br /> “kết cấu vẫy gọi” với nhiều “điểm trắng” để người đọc cùng đối thoại với quá khứ và tương lai,<br /> đồng sáng tạo với tác giả trong những lời đối thoại giáo huấn đạo trị bình của các nhân vật. Nhà<br /> văn xây dựng lên hệ thống nhân vật khá phong phú, đa đạng đủ mọi tầng lớp khác nhau trong xã<br /> hội, phân tích khá sâu sắc diễn biến tâm lí, hành động, tính cách của các nhân vật lịch sử có thật,<br /> khắc họa cá tính nhân vật khá sinh động. Đặc biệt là các bậc vua hiền tướng giỏi, các bậc thiền sư<br /> một cách cụ thể, tỉ mỉ và dùng hình thức nghệ thuật “trữ tình ngoại đề” và “lời nửa trực tiếp” qua<br /> đối thoại ý thức, tư tưởng giữa các thiền sư với các vị vua Lý và đối thoại giữa tư tưởng Phật giáo<br /> với đạo trị bình… “Tầm đón” trong “vô thức tập thể” đã “dung hợp tầm nhìn”, thừa nhận tôn giáo,<br /> đặc biệt Phật giáo là một nét đẹp văn hóa tinh thần để hướng con người đến các giá trị Chân Thiện - Mĩ của cuộc đời, nhân đạo hóa con người, kiến tạo nên xã hội văn minh với những con<br /> 46<br /> <br /> Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại Tam giáo đồng nguyên và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý…<br /> <br /> người có “lương tri, lương năng”, gạt bỏ quan điểm mê tín dị đoan, tư tưởng siêu hình nhằm mê<br /> hoặc con người vào con đường tà đạo, bác bỏ quan điểm ảo vọng đi tìm loại thuốc trường sinh,<br /> chắt lọc các giá trị thẩm mĩ, tinh hoa của tam giáo Nho- Phật- Lão với ba phần là Tâm linh Phật,<br /> Xã hội Nho và Thiên nhiên Đạo. Nhà Lý chủ trương chọn đạo Phật là nền đạo chính thống để xây<br /> dựng và bảo vệ quốc gia dân tộc. Hoàng Quốc Hải đã khẳng định ý nghĩa, vai trò của đạo Phật đối<br /> với sự ra đời và phát triển mạnh của triều Lí. Đối thoại trong Tám triều vua Lý là “đối thoại lớn…<br /> có tính bản chất giữa đời sống loài người và bản thân tư tưởng của loài người, tức là quan hệ đối<br /> thoại bình đẳng của các tư tưởng loài người trong cuộc sống” để hướng tới những điều tốt đẹp[9,<br /> tr.345]. Đối thoại trong Tám triều vua Lý được thể hiện qua tính đối thoại trong độc thoại và đối<br /> thoại trong tương tác lời của các nhân vật, điều này đã được Bakhtin bàn đến từ lâu “Lời trên cửa<br /> miệng một người, khi chuyển sang miệng người khác, nội dung như cũ, nhưng ngữ điệu và ý vị<br /> thay đổi… Lí thuyết đối thoại của Bakhtin đã đem lại một quan niệm về hệ thống mở, về mối liên<br /> hệ của các ý thức, các văn bản, phù hợp với quan niệm hiện đại về tiếp nhận, sáng tạo và hoạt<br /> động giao tiếp”. Trong Tám triều vua Lý, lí thuyết đối thoại không chỉ hiểu đơn giản là sự hỏi đáp,<br /> tương tác lời của mình và lời của người khác trong hoạt động giao tiếp hay nhân vật tự đối thoại<br /> nội tâm với chính mình bằng hình thức phân thân, mà “bản thân sự tồn tại của con người (cả bên<br /> trong và bên ngoài) là một cuộc giao tiếp sâu sắc nhất. Tồn tại có nghĩa là giao tiếp… Tôi không<br /> thể sống mà không có người khác…, tôi phải tìm thấy mình trong người khác và tìm thấy người<br /> khác trong chính mình” [9, tr. 344- 346]. Bản chất sự tồn tại của con người là “tổng hòa các mối<br /> quan hệ” và nó quy định sự sống của ngôn từ. Con người dùng ngôn ngữ- phương tiện giao tiếp<br /> chung của xã hội để đối thoại với nhau về ý thức, tư tưởng. Trong bài viết này, tôi đi sâu vào phân<br /> tích đối thoại giữa một số nhân vật, thể hiện “thái độ của ý thức, tư tưởng qua sự đồng tình, phản<br /> đối, khẳng định, phủ định, hoài nghi, chế giễu, nhại lại” [9, tr. 344, 345, 346] của các nhân vật và<br /> những bài học giáo huấn về đạo trị bình trong đối thoại ý thức “Tam giáo đồng nguyên” và tư<br /> tưởng Phật giáo của các bậc thiền sư với các vị vua, đối thoại giữa vua với tướng lĩnh, dân chúng<br /> qua một số nhân vật chính có thật trong lịch sử như vua Lý Thái Tổ, các nhà sư như Vạn Hạnh,<br /> Đa Bảo,…<br /> <br /> 2.2. Đối thoại giữa các nhân vật<br /> Thứ nhất là ta thấy nhân vật lịch sử có thật - Lý Công Uẩn là nhân vật chính, đồng thời là<br /> nhân vật trung tâm tham gia vào nhiều sự kiện chính của tác phẩm để mở rộng chủ đề đối thoại và<br /> thể hiện quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Lý Công Uẩn thấm nhuần tư tưởng giáo huấn đạo trị<br /> bình bằng “Tam giáo đồng nguyên” của các bậc thiền sư và đối thoại với dân chúng bằng ý thức,<br /> tư tưởng từ bi bác ái của Phật trong đạo trị bình, làm quốc thái dân an.<br /> Lý Công Uẩn được nuôi dưỡng nơi cửa Phật từ nhỏ, ở với sư Vạn Hạnh, được dạy dỗ và dẫn<br /> dắt để cứu nhân độ thế. Thiền sư Vạn Hạnh không nuôi đệ tử của mình để kế vị thiền sư, mà để<br /> cứu nước giúp đời, trị bình thiên hạ. Qua các lời đối thoại giáo huấn của mình, nhà sư trao cho<br /> học trò “cái tâm thiện của nhà Phật” [3, tập 1, 324], tiến cử người học trò ấy giữ chức quan võ<br /> trong triều đình nhà Lê. Vạn Hạnh đào tạo Lý Công Uẩn trở thành chính khách, chứ không phải<br /> trở thành thiền giả, vì sư nhận thấy từ nhỏ Lý Công Uẩn đã có “kỳ tướng…, có tướng đế vương.<br /> Đây đích thị là bậc minh vương thánh đế trời ban cho nước ta”. Công Uẩn được coi là tài sản, báu<br /> vật của quốc gia và là “bậc thiên tử, đứng đầu trăm họ” [3, tập 1, 50- 73, 77]. Tất cả những phẩm<br /> chất, tính cách bền vững của nhân vật lịch sử Lý Công Uẩn phản ánh bản chất của thời đại, ông là<br /> bậc hiền tài để chấn hưng đất nước, chấn hưng Phật Đạo, lo việc quốc gia đại sự, làm cho quốc<br /> thái dân an. Chính điều này góp phần luận giải các nguyên nhân sâu xa mà nhà Lý mang đến sự<br /> phát triển vượt bậc về mọi mặt, nhân dân sống trong cảnh yên vui, giàu thịnh. Ngay từ nhỏ Công<br /> Uẩn đã rất thông minh, có trí nhớ tốt, lại có cái “tâm thiện”, “chí lớn”, đạo cao đức trọng, được<br /> coi là “một đức Bồ tát tại thế”, luôn để tâm đến mọi việc của mọi lĩnh vực cuộc sống” [3; tập 1, 83,<br /> 185]. Lý Công Uẩn lễ phép với sư thầy “bày tỏ lòng biết ơn thầy đã dạy dỗ”, khi được thầy giáo<br /> 47<br /> <br /> Nguyễn Thị Minh Phượng<br /> <br /> huấn về đạo trị bình, vua đã đối thoại bằng các từ ngữ thể hiện thái độ lễ phép “Con xin nghiêm<br /> giữ lời sư phụ” [3; tập 1, 156]. Công Uẩn lúc nào cũng ghi nhớ lời giáo huấn của thầy: “Đạo làm<br /> vua phải lấy nước làm trọng. Nước phải lấy dân làm trọng”, không có dân thì không có nước và<br /> không có vua, dân nộp thuế để nuôi bộ máy chính quyền quốc gia. Việc trước mắt đối với vua là<br /> “phải làm cho dân sinh được no ấm, dân trí được khai mở, dân tâm được yên định, xã hội được<br /> thái bình, cái thiện được ở ngôi” [3; tập 1, 225, 257]. Đối thoại ý thức, tư tưởng của quần chúng<br /> nhân dân với vua Lê Long Đĩnh là đối thoại với cái xấu, cái ác, bạo lực bằng thái độ phản đối và<br /> phủ định. Sau khi tên vua độc ác hoang dâm vô độ này chết, Lý Công Uẩn là người trung nghĩa<br /> “đã ôm xác vua cũ mà khóc”. Ông lên ngôi vua, xây dựng một quốc gia văn minh, tiến bộ theo<br /> định hướng “Tam giáo đồng nguyên”, kế thừa có chọn lọc và phát huy những tinh hoa của tam<br /> giáo, tạo động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội về mọi mặt như kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, giáo<br /> dục,… Sau khi lên ngôi, Công Uẩn hết lòng chăm lo cuộc sống của muôn dân, thực hiện hàng loạt<br /> chính sách đổi mới, làm cho “đất nước thanh bình, giàu thịnh như một xứ sở thần tiên” [3; tập 1,<br /> 624] và “từ khi Thái tổ trị vì thì bốn phương an định…, cả nước không còn người nào phải chết<br /> đói nữa, lòng người quy tụ” [3; tập 2, 275]. Khi lên làm vua, ngài vẫn “tự cấy lấy lúa gạo để …<br /> cúng tổ tiên,… không ỷ lại vào dân” [3; tập 1, 545], lo lắng cho dân cho nước, làm được nhiều<br /> việc lớn ích nước lợi dân, đại nhân nghĩa như việc đã phá bỏ mọi rào cản để “nhà nhà có bát ăn,…<br /> để dành,… tha tô thuế ruộng đất cho cả nước trong ba năm liền,… cấp tiền gạo cho dân,… thương<br /> dân như cha mẹ thương con thì mới phục hưng được thế nước” [3; tập 1, 126]. Nhân vật Lý Công<br /> Uẩn như “một công cụ” giúp người đọc phát hiện ra bản chất của đời sống ở thời đại nhà Lý, thấu<br /> hiểu mọi yếu tố chi phối các diễn biến của lịch sử. Công Uẩn nhận thức rõ việc quan trọng nhất để<br /> ổn định một quốc gia là phải ổn định chính trị, kinh tế, giáo dục, ai cũng có việc làm, ai cũng có<br /> cơm ăn áo mặc, phải nuôi dưỡng hiền tài và tận dụng được hết người tài trong nước, cắt đặt đúng<br /> người đúng việc, phát huy sở trường của họ, biết nhún mình mới dùng được hiền tài vì họ trọng<br /> nghĩa khinh lợi. Nhân vật này tạo ra nhiều mối quan hệ trong tác phẩm, liên kết các sự kiện để tạo<br /> nên cốt truyện, làm gia tăng chủ đề đối thoại với mọi tầng lớp trong xã hội. Đối thoại với người<br /> hiền tài, vua chủ trương “Đối với kẻ sĩ thì hết lòng cung kính, tin dùng họ, sắp đặt họ vào nơi then<br /> máy của quốc gia…, những người tài trí đều được trọng dụng… không phân biệt tôn giáo” [3; tập<br /> 2, 275]. Đối thoại với dân chúng vì sự phát triển đi lên của đất nước, vua đã cho dân khai phá đất<br /> hoang, bãi bồi, rồi được làm chủ đất ấy, miễn thuế từ năm đến mười năm tùy theo công sức bỏ ra,<br /> làm cho người cày có ruộng, mọi điều luật ban hành đều xuất phát từ lợi ích của toàn dân. Ông<br /> lắng nghe tiếng nói của dân, “quý cái dân yêu, căm cái dân ghét” [3, tập 1, 478], ban hành chính<br /> sách nhân đạo như miễn thuế cho những người già yếu, trẻ mồ côi, đàn bà góa chồng, kêu gọi<br /> nhân dân giúp đỡ những người già yếu không nơi nương tựa. Vua cho tu bổ, dựng lại, dựng mới<br /> hệ thống chùa chiền dưới sự hỗ trợ một ít kinh phí của triều đình, còn lại huy động dân tùy tâm<br /> đóng góp: “vua còn cho mở cửa kho phát hơn một nghìn lạng vàng, bạc đúc chuông cho các<br /> chùa…, mở đạo tràng cho các tăng đồ thụ giới” và “khuyến dân giúp đỡ các người già không nơi<br /> nương tựa” [3; tập 1, 182, 184, 275]. Vua phá bỏ các hình phạt man rợ, hành xử theo lối lấy đức<br /> báo oán, luôn gần dân, được dân chúng yêu mến, ngưỡng mộ, cảm phục như cha mẹ mình “dòng<br /> người xô lấn nhau để chiêm bái dung nhan ngài, tiếng hô… ầm ầm như sấm rền…, họ muốn tận<br /> mắt bày tỏ tấm lòng ưu trọng đối với bậc vua hiền” [3; tập 1, 84]. Vua đã sớm ổn định trật tự xã<br /> hội và nâng cao vị thế của nước ta. Ngài muốn các bậc đại trí, đại giác trong nước và tất cả mọi<br /> người dân phải “giám sát việc nước rất chặt” [3; tập 1, 127] để làm cho dân giàu nước mạnh. Vua<br /> di dân, cho xây dựng thành Đại La “nguy nga” tráng lệ, viết chiếu để định ngày dời đô, làm lễ cầu<br /> siêu để “đền đáp công ơn” mở mang bờ cõi, bảo tồn cương thổ, tạo lập văn hiến của “những người<br /> đã khuất” trong dịp Vu Lan. Vua Lý Công Uẩn xúc động trước tấm lòng dân, khóc khi được dân<br /> chúng xếp hàng kín hai bên vệ đường để chào tạm biệt vua dời về Đại La, cũng như dân ở thành<br /> Đại La đón rước vua về vui như chảy hội. Lý Thái Tổ rất thân dân, lúc nào cũng “lo… đem một<br /> nền thái bình trường cửu, đời sống ấm no cho mỗi người dân trên đất nước,… chặn đứng âm mưu<br /> 48<br /> <br /> Giáo huấn đạo trị bình bằng đối thoại Tam giáo đồng nguyên và tư tưởng Phật giáo trong Tám triều vua Lý…<br /> <br /> thôn tính của các triều đại phương Bắc” [3; tập 1, 139, 147]. Đối thoại với lịch sử, giải thích khát<br /> vọng lịch sử bằng ý thức, tư tưởng yêu chuộng hòa bình, vì thế ngài đã chấp nhận gả công chúa<br /> Bình Dương cho đầu mục Lạng châu Thân Thiệu Thái, gả quận chúa An Nhân cho Hoàng Ân<br /> Vinh vì “sự tồn vong của đất nước”, tạo phên giậu cho Thăng Long để “quốc gia càng mạnh” [3;<br /> tập 2, 50]. Để hiểu sâu sắc tư tưởng của dân, vua đã đóng giả nhà sư, đi vi hành vào làng để hiểu<br /> được lòng dân, chứng kiến cảnh dân bị nhốt tù, ngài đối thoại với dân và một thiếu phụ tên Đào<br /> Thị Phúc, hiểu ra sự thật nghiệt ngã phũ phàng về thiếu phụ này. Bà Đào bị tên xã trưởng là lão<br /> Thằng tra tấn dã man vì tội “chửa hoang”. Qua sự tương tác lời, đối thoại trực tiếp với vua, bà<br /> Đào khẳng định thực tế chính hắn hằng đêm mò đến, dùng quyền lực bắt chị ta phải làm cái việc<br /> trăng hoa đốn mạt theo ý ngay trước mặt con gái nhỏ của chị, nếu không hắn sẽ bắt con gái chị<br /> làm, thương con nên chị đành phải đem thân xác cho hắn. Cả đoàn vi hành “đều có chung một<br /> cảm giác xót thương cho thân phận người dân” [3; tập 1, 165, 167]. Đối thoại với kẻ tàn nhẫn, độc<br /> ác bằng thái độ phản đối nghiêm khắc, vua đã phạt hắn tội đi đày và bắt gia đình hắn phải nộp<br /> thóc để nuôi thằng Cún đến lúc nó mười lăm tuổi. Đối thoại với những người dân bất hạnh bằng<br /> tình cảm nhân đạo, thái độ cảm thông, chia sẻ, sau này vua đã cho mẹ con bà Đào vào ban nhạc<br /> cung đình. Lý Công Uẩn mở cuộc họp để các quan đối thoại, tham vấn kế sách giúp dân, nhiều<br /> chính sách mới có lợi cho dân được ban hành, làm bộ đất nước sáng sủa, nhân dân khắp nơi góp<br /> của, góp công vào việc xây dựng và tu sửa nhiều ngôi chùa trong cả nước. Trong ý thức, tư tưởng<br /> của vua tỏ thái độ đồng tình với tư tưởng Phật giáo khi đối thoại về đạo trị bình: “Phật chỉ khuyên<br /> tự cày cấy lúa gạo mà ăn, làm dư dật thì phòng năm mất mùa và cứu giúp người cơ nhỡ, gắng làm<br /> điều thiện, tránh xa điều ác,…vua tạo duyên phước cho toàn dân, thế là của cải cứ nở ra, điều<br /> thiện cứ nở ra khiến cho cái đói, cái ác phải lặng lẽ ra đi” [3; tập 1, 189, 190]. Từ đó, dân không<br /> phải chịu đói khổ, nhà nào cũng nhiều thóc, ăn vụ nọ gối vụ kia. Đó là quan điểm tích cực, biện<br /> chứng, bất cứ ai cũng đều có thể trở thành Phật nếu luôn làm việc thiện, hướng tới cuộc sống ấm<br /> no, hạnh phúc, dân giàu nước mạnh, tránh điều ác. Đối thoại với hậu thế để tìm một người hiền tài<br /> lãnh đạo cho mai sau, vua cha chọn Lí Đức Chính (Lí Phật Mã)- con trưởng có “cái tâm thiện…,<br /> siêng năng học hành, có lòng thương kẻ khó, không xa dời dân lao khổ” để sau này nối ngôi. Đối<br /> thoại trong tư tưởng, ý thức của vua với người kế vị sau này, vua “muốn trao cho con mình cái<br /> tâm thiện để chăn dắt muôn dân”, giáo huấn con về đạo trị bình là phải dũng cảm lắng nghe những<br /> “điều nói thật…, người làm vua phải biết gần các bề tôi trung thực, thẳng thắn thì đất nước vững<br /> mạnh. Người trung thực như một loài ngọc quý, tự thân nó đã đẹp…phải bảo vệ trung thần bằng<br /> cách trao cho họ những trọng trách quốc gia…, phải học được sự thành bại của đời trước, để bước<br /> đi của ta thêm vững vàng” [3; tập 1, 191, 579, 582- 587]. Đối thoại với hoàng tử nối ngôi về việc<br /> bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và nền văn hiến lâu đời của Đại Việt, Lý Công Uẩn truyền dạy con về<br /> các chính sách đối ngoại “phải hết sức tỉnh giác chính sách tằm ăn dâu lấn hết đất ta…, họ lùa dân<br /> sang xâm canh…, làm nhà cửa, đưa mồ ông mả cha sang chôn… để giữ đất lấn cướp phi pháp…,<br /> rồi bắt mình phải bỏ văn hóa, phong tục, tập quán,… cách ăn mặc,… bỏ cả tiếng nói của mình để<br /> xong cuộc đồng hóa của họ”. Vua giáo huấn con phải làm cho dân ta không bỏ tập tục, tiếng nói<br /> của mình vì “mất tiếng nói, mất phong tục tập quán… thì sẽ mất đứt dân tộc và mất luôn cả Tổ<br /> quốc” [3; tập 1, 594, 595]. Lý Công Uẩn nghiêm khắc với bản thân mình và những người thân, ai<br /> phạm tội cũng đều trị theo phép nước, ngài muốn “tai mắt triều đình phải có ở khắp nơi” để nghe<br /> tiếng lòng của dân, không cho bọn gian thần vào hùa với bọn tham bẩn mà “che tai bịt mắt hoàng<br /> thượng…, thao túng bộ máy quốc gia…, vơ vét, bóc lột, hành hạ người dân” [3; tập 1, 215]. Vì<br /> thế ngài đã cho các con mình đi khắp nơi mở phủ để sống chung với dân, thực hiện chính sách<br /> thân dân, bình dị gần dân để hiểu mọi nỗi sướng, khổ, vui, buồn của dân. Việc làm này của vua<br /> xuất phát từ lòng yêu thương dân, trọng dân trong cái tâm thiện của nhà Phật, cùng dân nghĩ theo<br /> một hướng. Trước khi trao ngôi báu, vua cha giáo huấn con mọi việc phải làm “trên nền tảng của<br /> cái thiện” và phải biết “thương dân” [3; tập 1, 580]. Đối thoại với giáo dục, vua căn dặn các nhà<br /> sư phải giáo huấn các con của ngài và lớp trẻ “nuôi dưỡng nguồn tâm”, phải biết “cần lao”, “kính<br /> 49<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2