intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:33

121
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 giáo trình tiếp tục đề cập đến luật hôn nhân và gia đình Việt Nam như: Quan hệ giữa vợ và chồng, nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ và các con, nghĩa vụ cấp dưỡng của các thành viên trong gia đình, chấm dứt hôn nhân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 2

  1. CHƯƠNG 5 QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG 1. Khái niệm: Quan hệ giữa vợ và chồng là các nhóm quan hệ về nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng, do Luật Hôn nhân và gia đình quy định, phát sinh dựa vào sự kiện kết hôn, với đặc điểm luôn gắn liền với nhân thân của vợ chồng. Vợ chồng đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Nội dung quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng gồm hai nhóm quan hệ: Nhóm các quan hệ về nhân thân và nhóm các quan hệ về tài sản, trong đó nghĩa vụ và quyền về nhân thân là nội dung chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Nội dung các quyền và nghĩa vụ này chịu sự quy định bởi bản chất giai cấp. Ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được quy định khác nhau. Quan hệ pháp luật giữa vợ chồng thể hiện tính giai cấp sâu sắc. 2. Nghĩa vụ và quyền về nhân thân giữa vợ và chồng. 2.1. Nghĩa vụ và quyền mang tính chất tình cảm, riêng tư giữa vợ và chồng. Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ và chồng gắn liền với bản thân vợ chồng suốt thời kỳ hôn nhân. Những nghĩa vụ và quyền này xuất phát từ những chuẩn mực đạo đức, cách ứng xử mang tính tự nhiên và truyền thống giữa vợ chồng. Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ chồng gắn liền với nhân thân của vợ chồng mà không thể chuyển giao cho người khác.Chỉ là vợ chồng của nhau thì họ mới có quyền và nghĩa vụ đó. Nghĩa vụ và quyền này được quy định tại điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình VN năm 2000: vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Mục đích đặt ra của nhóm nghĩa vụ này là nhằm ngăn chặn những hiện tượng quan hệ bất chính của vợ, chồng, xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, đảm bảo hạnh phúc gia đình. Tình yêu thương giữa vợ và chồng không giống tình yêu thương giữa cha mẹ và con, giữa những người có quan hệ huyết thống nói chung, cũng như giữa những người bạn, những người đồng nghiệp. Đó là là tình cảm gắn bó giữa hai con người khác giới tính trong cuộc sống chung. Yêu thương là điều kiện đủ của chung thuỷ, bởi, theo F. Engels, “bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ”. Thế nhưng, trong quan niệm của đạo đức Việt Nam, yêu thương không phải là điều kiện cần của chung thuỷ: ngay nếu như không còn yêu thương nhau, vợ chồng vẫn có thể chung thuỷ đối với nhau. Hơn nữa, không thể áp đặt nghĩa vụ yêu thương đối với vợ chồng (nghĩa là không thể buộc người vợ phải yêu người chồng và ngược lại), nhưng hoàn toàn có cơ sở để áp đặt nghĩa vụ chung thuỷ (nghĩa là có thể buộc người vợ không được phản bội người chồng và ngược lại), cho dù, như ta sẽ thấy, không thể có sự áp đặt nghĩa vụ chung thuỷ mang tính chất của một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, trong khung cảnh của luật và đạo đức hiện đại. 2.2. Nghĩa vụ và quyền mang tính chất tự do, dân chủ: Vợ chồng có nghĩa vụ tôn trọng lẫn nhau và cư xử với nhau một cách thanh lịch, văn minh. Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau. Vợ, chồng cũng không có quyền để cho người khác hành hạ, ngược đãi chồng, vợ mình. Sự ngược đãi, hành hạ của một người đối với người còn lại, trong những trường hợp đặc thù, có thể bị chế tài về hình sự điều 151 Bộ luật hình sự 1999. Trong tình trạng hiện tại của thực tiễn giao dịch, các quy định này tỏ ra rất cần thiết để ngăn chặn sự phát triển của tình trạng bạo hành đối với người phụ nữ, tình trạng có nguồn gốc từ sự xung đột giữa xu hướng 39
  2. đưa người phụ nữ hoà nhập vào đời sống cộng đồng như một chủ thể đầy đủ của xã hội công dân và tư duy cũ về sự phụ thuộc của người đàn bà vào người đàn ông. “Sở hữu” riêng đối với thân thể. Vợ chồng tự mình quyết định việc cho phép hoặc không cho phép thực hiện các tác nghiệp y khoa trên thân thể của mình. Theo Bộ luật Dân sự 2005 Điều 32 khoản 3, việc thực hiện phương pháp chữa bệnh mới trên cơ thể một người, việc gây mê, cắt, mổ, cắt bỏ, cấy, ghép bộ phận của thân thể phải được sự đồng ý của người đó; nếu người đó chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc là bệnh nhân bất tỉnh, thì mới cần được sự đồng ý của cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ của người đó; trong trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của cha, mẹ, người giám hộ hoặc người thân thích của người đó, thì phải có quyết định của người đứng đầu cơ sở y tế. Việc mổ tử thi cũng theo các quy định tương tự Vợ, chồng có quyền quyết định tặng cho các bộ phận trong thân thể của mình lúc còn sống và sau khi chết; chồng, vợ không có quyền sở hữu đối với tử thi của vợ, chồng mình và do đó, không có quyền tặng cho toàn bộ hoặc một phần tử thi đó. Vợ, chồng được quyền tự do quyết định biện pháp chăm sóc y tế cho chính mình. Một cách duy lý, ta nói rằng người phụ nữ còn có quyền tự mình quyết định việc mang thai hay phá thai. Trong trường hợp thân thể bị xâm hại, thì chính người bị xâm hại có quyền khởi kiện với tư cách là nguyên đơn dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại; chồng, vợ của người này không có quyền yêu cầu thay, trừ trường hợp được người bị xâm hại uỷ quyền hợp lệ: nếu do hành vi xâm hại đó mà chính chồng, vợ của người bị xâm hại cho rằng mình cũng bị thiệt hại, thì chồng, vợ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại cho riêng mình. Trong trường hợp người bị xâm hại chết, thì vợ, chồng thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của người chết với tư cách người thừa kế theo pháp luật, đồng thời vẫn có quyền yêu cầu bồi thường do những thiệt hại mà riêng mình phải gánh chịu. Tôn trọng phẩm giá: Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 21 khoản 1, vợ chồng không có quyền xúc phạm đến danh dự, uy tín của nhau. Có vẻ như ở điểm này, tục lệ còn muốn đi xa hơn: vợ, chồng không được quyền đứng về phía người xúc phạm danh dự, nhân phẩm của chồng, vợ mình. Trong trường hợp thái độ cư xử của một người đối với người còn lại thể hiện sự xúc phạm nghiêm trọng đối với danh dự, nhân phẩm của người còn lại, người cư xử không đúng có thể bị chế tài về hình sự “Sở hữu” riêng đối với phẩm giá: Trong trường hợp vợ, chồng là nạn nhân của một vụ xúc phạm danh dự, nhân phẩm, thì chính nạn nhân là người có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và yêu cầu công khai xin lỗi; không có quyền yêu cầu thay, trừ trường hợp được nạn nhân uỷ quyền hợp lệ Tự do lựa chọn nghề nghiệp: "Vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp, học tập nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mỗi người” . Nếu do sự bất đồng trong việc lựa chọn nghề nghiệp mà tình cảm giữa vợ và chồng không còn, không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân, thì một bên hoặc cả hai bên có thể xin ly hôn. Tự do tín ngưỡng: “Vợ, chồng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào” Thông thường, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo được các bên giải quyết trước khi kết hôn. Tuy nhiên, có trường hợp một trong hai người muốn thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo 40
  3. trong thời kỳ hôn nhân. Khi đó, người còn lại có thể có ý kiến riêng, nhưng không thể áp đặt tín ngưỡng, tôn giáo của mình cho người muốn thay đổi. Tự do trong quan hệ xã hội: Hôn nhân không làm cho vợ, chồng bị cách ly với môi trường giao tiếp. Vợ, chồng vẫn tiếp tục là thành viên trong gia đình, dòng họ của mỗi người và nhất là vẫn có quyền duy trì, thậm chí mở rộng phạm vi quan hệ bè bạn, đồng nghiệp. 2.3. Đại diện cho nhau giữa vợ và chồng: Đại diện cho nhau giữa vợ và chồng có thể là: - Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng… - Khi một bên vợ, chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, bên chồng hoặc vợ còn lại có đủ điều kiện để làm người giám hộ, thì có quyền đại diện theo pháp luật cho vợ hoặc chồng của họ. - Khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bên còn lại được tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật. 3. Nghĩa vụ và quyền về tài sản giữa vợ và chồng: 3.1. Quyền sở hữu tài sản của vợ, chồng: Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản chung Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Các loại tài sản chung của vợ chồng được quy định tại điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình VN năm 2000: - Tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân: - Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung: - Tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung: - Tài sản mà vợ chồng không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng khi có tranh chấp, cũng được xác định là tài sản chung của vợ chồng: Ngoài những tài sản chung vừa nêu, còn có một tài sản chung đặc biệt của vợ chồng, đó là quyền sử dụng đất. Theo đó, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của hai vợ chồng. Vợ chồng có quyền bình đẳng với nhau trong việc quản lý tài sản chung, những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả hai vợ chồng. Nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ chồng, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng sau này, Luật Hôn nhân và gia đình VN năm 2000 quy định về đăng ký sở hữu tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, nếu tài sản chung là nhà ở; quyền sử dụng đất; các tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì vợ chồng phải đăng ký và trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, các tài sản nếu chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng và vợ, chồng không chứng minh được đó là tài sản riêng thì vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới với các giao dịch do một bên thực hiện. Về nguyên tắc, khi vợ hoặc chồng thực hiện một giao dịch liên quan đến tài sản chung, phải có sự đồng ý của hai vợ chồng. Tuy nhiên, để đáp ứng một cách kịp thời quyền lợi cho các thành viên trong gia đình, trong một số trường hợp, giao dịch của vợ, chồng liên quan đến tài sản chung chỉ có thể do một bên thực hiện, phía bên kia cho dù không biết hay biết nhưng không đồng ý, vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm. 41
  4. Đó là các giao dịch dân sự hợp pháp, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình như: ăn mặc, đi lại, ở, học tập, khám chữa bệnh và các nhu cầu thiết yếu khác Đối với giao dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn, tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình hoặc dùng tài sản chung để kinh doanh phải có sự bàn bạc, thoả thuận của hai vợ chồng. Đối với những tài sản có giá trị lớn, ảnh hưởng đến đời sống của gia đình, pháp luật yêu cầu phải có sự bàn bạc, cân nhắc thận trong của hai vợ chồng và phải do haii vợ chồng quyết định. Trong trường hợp thiếu sự thống nhất chí của một bên vợ hoặc chồng (ví dụ chồng định đoạt tài sản có giá trị lớn nhưng vợ không biết hoặc không đồng ý) thì bên còn lại có quyền yêu cầu toà án tuyến bố giao dịch đó vô hiệu theo điều 134 BLDS, hậu quả của giao dịch này được giải quyết theo quy định tại điều 136 BLDS Tài sản có giá trị lớn được xác định căn cứ vào tính chất và giá trị của tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng. Tài sản có giá trị lớn của mỗi gia đình là khác nhau trên cơ sở định lượng của nhà lập pháp không căn cứ vào giá trị thương mại của tài sản đó tại thời điểm tham gia giao dịch. Tài sản chung của vợ chồng được sử dụng để đap sứng cá nhu cầu chung của gia đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Như vậy, Luật đã ghi nhận rõ mục đích sử dụng tài sản chung của vợ chồng, trước hết là nhằm để đáp ứng các nhu cầu chung trong gia đình, như ăn, ở, mua sắm đồ dùng sinh hoạt, tự liệu sản xuất…phục vụ đời sống cho các thành viên trong gia đình về vật chất và tinh thần, đồng thời dùng để thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của cả hai vợ chồng. Theo quy định này, về nguyên tắc vợ chồng không được lấy tài sản chung để thoả mãn nhu cầu riêng tư của mình hoặc thực hiện các nghĩa vụ riêng, các bên chỉ có thể thực hiện điều này khio có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng. Quyền của vợ, chồng trong việc yêu cầu phân chia tài sản chung Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia, do đó, trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền yêu cầu phân chia tài sản chung của mình. Tuy nhiên, quyền yêu cầu chia tài sản chung của các bene chỉ được pháp luật thừa nhận nếu họ chứng minh được việc phân chia này là có căn cứ như: để đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác. Cá nhân có quyền tự do kinh doanh, kể cả vợ chồng. Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của cá nhân với tư cách là vợ, chồng. Luật hôn nhân và gia đình 2000 đã thừa nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng, đồng thời dự liệu đến các trường hợp họ không có tài sản riêng hay tài sản riêng không đủ để thực hiện việc kinh doanh của mình, khi đó họ có quyền phân chia tài sản chung. Nghĩa vụ riêng về tài sản của cợ, chồng phải thực hiện bằng tài sản riêng của mình. Các bên chỉ có thể lấy tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng, khi có sự đồng ý cua hai vợ chồng. Do đó, khi vợ, chồng không có tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ riêng của mình và vợ, chồng của họ không đồng ý lấy tài sản chung để thực hiện, họ có quyền phân chia tài sản chung để thực hiện các nghĩa vụ. Ngoài hai căn cứ trên, nếu vợ, chồng chứng minh việc phân chia của mình có lý do chính đáng thì họ cũng có quyền yêu cầu phân chia tài sản chung. Lý do chính đáng ở đây là xuất phát từ lợi ích của vợc chồng hoặc vì ngừơi thứ ba. Chẳng hạn như vợc chồng mẫu thuẫn trầm trọng với nhau nhưng vì con cái họ không muốn ly hôn nhưng cũng không muốn sống chung, họ muốn chia tài sản chung để ra ở riêng, tránh gặp mặt nahu trong đời sống hàng ngày. 42
  5. Tôn trọng quyền tự định đoạt của vợ chồng, Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định vợ chồng có quyền tự thoả thuận với nhau trong việc phân chia tài sản chung. Nếu vợ chồng không thoả thuận được, họ phải lập văn bản, có chữ ký của hai vợ chồng, văn bản có thể có người làm cững hoặc công chứng, chứng thưc. Trong trườmg hợp vợ chồng không thoả thuận được việc phân chia tài sản chung, có quyền yêu cầu toà án phân chia. Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình 2000 không quy định các nguyên tắc phân chia tài sản một cách cụ thể trong trường hợp này, việc phân chia căn cứ vào hình thức sở hữu để giải quyết. Vợ chồng có thể yêu cầu chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. Khi chia tài sản chung, hoa lợi, lợi tức phát sinh trên phần tài sản được chia thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Thu nhập, lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các khoản thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên có được trong thời kỳ hôn nhân nhưng sau khi đã chia tài sản chung, là tài sản riêng của vợ, chồng nếu vợ, chồng không có thoả thuận khác. Để tránh tình trạng vợ, chồng lợi dụng quyền được yêu cầu phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để tẩu tán tài sản, nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản, Luật HNGĐ 2000 đã xác định rõ: Việc phân chia tài sản chung của vơ, chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận. - Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng - Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 không thừa nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng, do vậy tất cả tài sản vợ chồng có được trước và sau khi kết hôn đều là tài sản chung. Điều 14 quy định: Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với các tài sản có trước và sau khi cưới. -Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã thừa nhận quyền có tài sản riêng và quyền sở hữu đối với tài sản riêng của vợ chồng. - Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 kế thừa có sửa đổi bổ sung Luật HNGĐ năm 1986 đã xác định các tài sản sau là tài sản riêng của vợ chồng: Tài sản mà mỗi người có được trước khi kết hôn; tài sản đực thừa kê, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ chồng theo quy định tại khoản 1 điều 29 và điều 30; đồ dùng, tư trang cá nhân (điều 32) Việc thừa nhận vợ chồng có quyền có tài sản riền phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp lụât Dân sự về quyền có tài sản riêng và quyền sở hữu đối với tài sản riêng của công dân. Quy định này đảm bảo cho các bên vợ, chồng thực hiện quyền và nghĩa vụ về tài sản của mình một cách độc lập, không phụ thuộc vào vợ,chồng. Chẳng hạn như:đầu tư kinh doanh riêng, trả nợ… đồng thời góp phần ngăn chặn các trường hợp kết hôn không lạnh mạnh- kết hôn vì của cải của nhau. Với việc thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng, Luật hôn nhân và gia đình còn quy định vợ, chồng có quyền quyết định nhập hoặc không nhập tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, dịnh đoạt tài sản riêng theo ý chí của mình. Tuy nhiên, xuất phát từ lợi ích chung của gia đình, do đó trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng các nhu cầu chung trong gia đình, thì vợ, chồng phải dùng tài sản riêng của mình để đáp ứng các nhu cầu đó. Đối với các tài sản mà vợ, chồng đã chi dùng cho gia đình mà không còn nữa, vợ chồng không có quyền đòi lại. Xuất phát từ việc bảo đảm quyền định đọat cuả vợ, chồng đối với tài sản riêng, đồng thời đảm bảo lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình. Luật hôn nhân và gia đình yêu cầu vợ, chồng nếu đưa tài sản riêng vào sử dụng trong gia đình, mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải có sự thoả thuận của hai vợ chồng. (khoản 5 điều 33). 43
  6. 3.2. Quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu của người không cùng chung sống với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp mà người đó chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng là việc vợ hoặc chồng có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng yêu cầu thiết yếu của chồng hoặc vợ mình trong trường hợp không cùng chung sống với nhau mà một bên gặp khó khăn, túng thiếu và có yêu cầu. Nghĩa vụ và quyền về cấp dưỡng giữa vợ và chồng luôn gắn liền với nhân thân của vợ, chồng, không thể chuyển giao cho người khác, không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác. Khi đang tồn tại quan hệ vợ chồng, đôi lúc các bên cần có sự cấp dưỡng của nhau, nhưng pháp lụât không xem đây là trường hợp cấp dưỡng, mà đó là sự chăm sóc nhau giữa vợ và chồng. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng chỉ xảy ra khi vợ chồng ly hôn. Trong trường hợp này, một bên vợ hoặc chồng muốn yêu cầu bên kia cấp dưỡng cho mình, họ phải chứng minh mình là người khó khăn, túng thiếu, không có đủ tài sản để duy trì cuộc sống bình thường và sự khó khăn, túng thiếu này là có lý do chính đáng. Nếu vợ hoặc chồng yêu cầu chứng minh được các điều kiện trên, toà án sẽ buộc bên kia cấp dưỡng. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng là việc cấp dưỡng mang tính nhân đạo, xuất phát từ tình nghĩa vợ chồng nhằm giúp cho một bên vợ hoặc chồng khi ly hôn, ở vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu và cần có tài sản để vượt qua khó khăn đó. Do đó, khi bên vợ hoặc chồng được cấp dưỡng có thu nhập hoặc có tài sản để tự nuôi mình, thì nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt. Khi bên vợ, chồng được cấp dưỡng kết hôn với người khác, nghĩa vụ cấp dưỡng cũng sẽ chấm dứt, vì lúc này họ đã phát sinh quan hệ vợ chồng mới, theo lụât, vợ chồng phải chăm sóc, nuôi dưỡng nhau. Quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng luôn gắn liền với nhân thân của vợ chồng, không thể chuyển giao cho người khác, do đó, khi một trong hai bên chết, thì nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sẽ chấm dứt. 3.3 Quyền thừa kế của vợ, chồng Vợ chồng có quyền thừa kế di sản của nhau khi mọot bên chết. Việc thừa kế có thể theo di chúc, thoe pháp luật và trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Vợ, chồng là hàng thừa kế thứ nhất của nhau theo lụat cùng với cha, mẹ và con của người chết. Để được thừa kế di sản của nhau thì tại thời điểm vợ hoặc chồng chết, hai người vẫn được pháp lụât thừa nhận là vợ chồng của nhau. Một điểm đáng chú ý trong việc thừa kế khi vợ hoặc chồng chết. Đó là quyền yêu cầu hạn chế chia di sản thừa kế của bên vợ hoặc chồng còn sống. Theo đó, khi việc chia di sản thừa kế ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của một bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu toà án xác định phần di sản mà những ngừơi thừa kế được hưởng, nhưng chưa chia trong khoảng thời gian nhất định (khoản 3 điều 31) Ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, như họ mất đi tư liệu sản xuất duy nhất để tạo ra thu nhập, không có chỗ ở…thời hạn mà pháp luật 44
  7. quy định hạn chế là 3 năm. Trong trường hợp hết thời hạn mà toà án xác định hoặc một bên vợ hoặc chồng còn sống đã kết hôn với người khác hoặc bên vợ, chồng còn sống thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán, phá tán hoặc làm mất mát, hư hỏng di sản, thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu phân chia di sản. Câu hỏi ôn tập: 1. Trình bày khái niệm và đặc điểm quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. 2. Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. 3. Quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. 4. Vấn đề tài sản giữa vợ và chồng. 5. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng. 6. Quyền thừa kế giữa vợ chồng. 45
  8. CHƯƠNG 6 NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN GIỮA CHA MẸ VÀ CÁC CON 1. Căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con Quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con là nhóm quan hệ gia đình đặc biệt quan trong do Lụât Hôn nhân và gia đình, Luật Dân sự điều chỉnh. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ hàm chứa toàn bộ các quyền vè nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của họ với tư cách là những chủ thể của các quan hệ pháơ luật cha mẹ và con, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con luôn phải tương ứng với nhau. 1.1 Quan hệ pháp lụât giữa cha mẹ và con phát sinh dựa vào sự kiện sinh đẻ. Việc đứa trẻ ra đời từ người cha, người mẹ nhất định được xác nhận dù giữa hai bên cha mẹ có quan hệ hôn nhân hợp pháp hay không, việc xác nhận này sẽ làm phát sinh quan hệ pháp lụât giữa cha mẹ và con. Như vậy, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật trên là sự kiện sinh đẻ, mối liên hệ huyết thống tự nhiên. Việc xác định cha, mẹ, con là hành vi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân đã được quy định tại điều 43 Bộ luật Dân sự 2005. Theo đó, hai bên chủ thể trong quan hệ này (cha mẹ, con) đều có quyền ngang nhau trong việc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện hành vi xác định cha mẹ, con cho mình. Con chung của vợ và chồng: Gọi là sinh ra từ hôn nhân, con mà ở thời điểm thành thai hoặc ở thời điểm được sinh ra, có cha và mẹ ràng buộc với nhau bởi quan hệ hôn nhân. Thực ra, khái niệm này còn hơi chật hẹp. Nếu coi sự ràng buộc giữa cha mẹ bằng quan hệ hôn nhân là yếu tố quyết định cho sự hình thành tư cách con chung của vợ chồng, thì con thành thai trong thời kỳ tiền hôn nhân nhưng chỉ được sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt (do ly hôn, do có người chết), cũng là con chung của vợ chồng Con chung của những người trở thành vợ chồng: Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1, con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người mẹ có thai trong thời kỳ đó. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Thực ra, đứa con có thể thành thai trong thân thể người mẹ hoậc trong thân thể người khác với sự đồng ý của vợ và chồng. Đúng ra, được gọi là con chung của vợ và chồng, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc thành thai trong thời kỳ ấy: sự thành thai có thể diễn ra trên thân thể của người mẹ, nhưng cũng có thể diễn ra ở ngoài thân thể đó, nhờ sự hỗ trợ của các biện pháp y học. Từ Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1, có thể nhận xét rằng để sự suy đoán con chung của vợ chồng được thiết lập dựa vào dữ kiện sinh học, cần có đủ hai điều kiện: Con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc thành thai trong thời kỳ đó… 1.1.1 Xác định cha, mẹ cho con. Việc xác định cha, mẹ cho con được tiến hành theo hai trường hợp sau: Xác định cha mẹ cho con khi giữa cha mẹ của trẻ đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Xác định cha mẹ cho con khi giữa cha mẹ của trẻ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. * Xác định cha mẹ cho con khi giữa cha mẹ của trẻ đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. 46
  9. Khi giữa cha mẹ tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp thì việc xác định con chung của vợ chồng được tiến hành theo phương pháp suy đoán pháp lý. Việc xác định con chung của vợ chồng được quy đinh tại điều 63 “ Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng” Như vậy, căn cứ xác định con chung là dựa vào thời kỳ hôn nhân của cha mẹ. Theo quy định khoản 7 điều 8 : Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợc hồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân. Việc xác định con chung của vợ chồng trên cơ sở suy đoán pháp lý có thể xuất hiện hai trường hợp sau: Thứ nhất là con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân; thứ hai là con sinh ra do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. - Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân bao gồm các trường hợp sau: + Con do người vợ có thai và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân; trong trường hợp này đứa trẻ đương nhiên là con chung của vợc hồng, trừ trường hợp người chồng có chứng cứ khác chứng minh đứa trẻ đó không phải là cơn của mình. + Con do người vợ có thai trước thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân: đứa trẻ này vẫn được xác định là con chung của vợ chồng vì nó thoả mãn được quy định của điều 63. Trên thực tế vẫn tồn tại những trường hợp hai người nam nữ tìm hiểu và chung sống với nhau như vợ chồng trước khi kết hôn, sau khi kết hôn một thời gian, người phụ nữ sinh con. Đứa trẻ được sinh ra trong trường hợp này theo quy định của pháp luật được xác định là con chung của vợ chồng, trừ trường hợp người chồng không thừa nhận đứa trẻ do người vợ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con của mình. Việc không thừa nhận con của người chồng phải được Toà án xác định trên cơ sở những chứng cứ xác đáng mà người chồng đưa ra. + Con sinh ra do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân và sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt. Trường hợp này đứa trẻ được mang thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng được sinh ra khi người chồng của mẹ đứa trẻ đã chết hoặc đã ly hôn với người mẹ của đứa trẻ. Người chồng đã chết hoặc đã ly hôn này được suy đoán là cha của đứa trẻ đó. Điều 21 NĐ 70/2001 quy định cụ thể: Con sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ ngày người chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật, thì được xác định là con chung của hai người. Con chung của vợ chồng được xác định theo phương pháp trên không phải trong mọi trường hợp đều đồng nhất với con theo nghĩa di truyền. Phương pháp xác định cha mẹ cho con này là phương pháp suy đoán pháp lý, tức là khi đáp ứng được các điều kiện do pháp lụât đặt ra thì về mặt pháp lý họ được xác định là cha mẹ, con của nhau, không phụ thuộc vào việc họ có phải là cha mẹ của nhau theo đúng nghĩa quan hệ huyết thống. + Ngoài ra con chung còn được xác định trên cơ sở sự thừa nhận tự nguyện của cha mẹ. Để khắc phục hạn chế của Luật hôn nhân và gia đình 1986, Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định theo hướng mở: công nhận người con sinh ra trong trường hợp này cũng là con chung với điều kiện là phải có sự thừa nhận tự nguyện của cha, mẹ. * Xác định cha mẹ cho con khi giữa cha mẹ của trẻ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. - Việc xác định này không thể dựa theo phương pháp suy đoán pháp lý, thực tế những đứa trẻ này có thể sinh ra từ người phự nữ không có chồng hoặc có chồng nhưng đi ngoại tình với người khác mà sinh con… Để bảo vệ quyền lợi của cha mẹ, 47
  10. con trong những trường hợp này điều 64 quy định: Người không được nhận là cha mẹ ruột của một người có thể yêu cầu Toà án xác định người đó là con mình. Người được nhận là cha mẹ của một người có thể yêu cầu toà án xác định người đó không phải là con của mình” - Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con trong trường hợp cha mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Việc xác định cha mẹ cho con trong trường hợp này được tiến hành theo hai loại thủ tục: thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. + Thủ tục hành chính được tiến hành tại Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người con. Thủ tục này được thực hiện khi việc xác định cha cho con hoàn toàn không có tranh chấp. Người phụ nữ sau khi sinh con, xác định người đàn ông cụ thể là cha của đứa trẻ. Người đàn ông được xác định đồng ý nhận đứa trẻ do người phụ nữ sinh ra là con của mình. Việc xác định cha cho con trong trường hợp này thực hiện thông qua thủ tục hành chính đơn giản trên cơ sở sự thừa nhận của người đàn ông. + Thủ tục tư pháp được tiến hành tại Toà án nhân dân trong trường hợp việc xác định cha mẹ cho con có tranh chấp xảy ra. Đối với trường hợp người phụ nữ sinh con nhưng người đàn ông được khai là cha của đứa trẻ không nhận đứa trẻ đó là con của mình thì người phụ nữ có quyền làm đơn yêu cầu Toà án xác định người đàn ông đó là cha của đứa trẻ. Toà án phải căn cứ vào những chứng cứ là người phụ nữ có thai với ai để xác định cho đúng cha cho đứa con của người phụ nữ đó. * Thủ tục tư pháp tiến hành tại tòa án nhân dân, trong trường hợp việc xác định cha mẹ cho con có tranh chấp xẩy ra. Đối với trường hợp người phụ nữ sinh con, nhưng người đàn ông được khai là cha của đứa trẻ không nhận đứa trẻ đó là con của mình thì người phụ nữ có quyền làm làm đơn yêu cầu Tòa án xác định người đàn ông đó là cha của đứa trẻ. Tòa án phải căn cứ vào những chứng cứ là người phụ nữ có thai với ai để xác định cho đúng cha cho con của người phụ nữ đó. Theo thông tư 15-DS ngày 27/9/1974 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một trong những chứng cứ để xác định cha cho con ngoài giá thú: Trong thời gian có thể thụ thai đứa trẻ, người đàn ông được khai là cha của đứa trẻ và mẹ của đứa trẻ đã công nhiên sống với nhau như vợ chồng. - Hai người đã yêu thương, hứa hẹn kết hôn và trong thời gian có thể thụ thai đứa trẻ đã ăn nằm với nhau như vợ chồng rồi sau khi có con bỏ không cưới hỏi gì nữa. - Người mẹ đã bị người đàn ông này hiếp dâm, cưỡng dâm trong thời gian có thể thụ thai đứa trẻ. - Sau khi dsinh con người này đã thăm nom, chăm sóc đứa trẻ như là con của mình. - Có những thư từ do người này viết xác nhận đứa con do người phụ nữ sinh ra là con của họ. - Trong quá trình điều tra thu nhập chứng cứ, Tòa án cần kết hợp các biện pháp khác như: giám định y học, giám định gien, giám định khả năng sinh lý… Ngoài ra Tòa án điều tra qua bạn bè, gia đình hai bên đương sự. * Việc xác định cha mẹ cho con trong trường hợp con được sinh ra theo phương pháp khoa học. Trong thực tiễn hiện nay đang tồn tại hiện tượng các cặp vợ chồng vô sinh nhờ đến sự can thiệp của y học tiến bộ để thực hiện nguyện vọng sinh con bằng các biện pháp hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm… 48
  11. Việc sinh con theo phương pháp khoa học đã áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ có thể không tuân theo những quy luật tự nhiên, chính vì vậy việc xác định cha mẹ cho con trong trường hợp này có nhiều ý kiến không đồng nhất. Vì những lý do về mặt truyền thống và các quan niệm về đạo đức, pháp luật VN, cụ thể điều 6 NĐ 12/2003 về ssinh con theo phương pháp khoa học không cho phép việc mang thai hộ và sính sản vô tính. Việc xác định cha mẹ cho con trong trường hợp con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định rõ ràng tại điều 20 Nghị định 12/2003 : “ trẻ ra đời do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân. Những người theo quy định tại khoản 1 điều này được xác định là cha, mẹ đối với trẻ sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” Như vậy là cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân được xác định là cha, mẹ của trẻ sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh ống nghiệm, thụ tinh nhân tạo… Ngoài ra, để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền thừa kế, cấp dưỡng cho những đứa trẻ sinh ra theo phương pháp khoa học cũng được pháp luật quy định cụ thể để tránh những tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai. Điều 11 Nghị định 12/2003/NĐ-CP có xác định: “con được sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không được quyền yêu cầu quyền thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người có tinh trùng, cho noãn, cho phôi.”. 1.1.2. Xác định con cho cha, mẹ: Vấn đề xác định con được đặt ra trong trường hợp người cha, người mẹ muốn thừa nhận hoặc phủ nhận một người là con hay không phải là con của mình. Trong trường hợp này cha mẹ là người chủ động yêu cầu tòa án thực hiện việc xác định một người là con hay không phải là con mình. Khi yêu cầu tòa án xác định một người là con hay không phải là con của mình thì người yêu cầu theo quy định của Luật tố tụng dân sự phải có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ chứng minh mối quan hệ giữa họ với người được yêu cầu xác định là con hay không phải là con của họ. Trên cơ sở những chứng cứ người yêu cầu cung cấp, tòa án ra quyết định công nhận hoặc bác đơn yêu cầu của các đương sự. Đây là quyền dân sự chính đáng của một người giúp họ xác định một cách chính xác con của mình nhằm góp phần ổn định các quan hệ xã hội cũng như đảm bảo lợi ích của các chủ thể trong quan hệ cha, mẹ, con. Chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con: Khi con đã thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và cha mẹ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có nghĩa là họ thuộc nhóm người tự quyết định việc xác lập và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, không cần phải nhận sự giúp đỡ, bảo vệ từ phía các cá nhân cũng như những tổ chức khác trong việc xác định cha, mẹ, con cho mình nói riêng và các loại việc khác trong lĩnh vực hôn nhân gia đình nói chung. Vì vậy, luật hôn nhân và gia đình không quy định những chủ thể có quyền yêu cầu tòa án xác định cha, mẹ, con cho người con đã thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cũng như cha mẹ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Luật hôn nhân và gia đình chỉ quy định những nhóm chủ thể có quyền yêu cầu tòa án xác định cha, mẹ, con cho nhóm con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc cha mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự bao gồm: 49
  12. Mẹ, cha hoặc người giám hộ theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu tòa án xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự. Cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu tòa án xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự: Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Hội liên hiệp phụ nữ Sở dĩ quy định trên có thay đổi so với điều 66 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 vì vào năm 2005 Quốc hội thông qua Bộ luật tố tụng dân sự, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát nhân dân hiện nay không còn thực hiện chức năng yêu cầu tòa án giải quyết các vụ việc trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình để nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Vì vậy, những gì liên quan đến việc Vịên kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ việc trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đều bị hủy bỏ, trong đó có cả quyền yêu cầu tòa án xác định cha mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự. Khi tòa án ra quyết định xác định cha mẹ cho con; con cho cha mẹ thì trên cơ sở quyết định của tòa, các bên tiến đăng ký hộ tịch, từ thời điểm đó giữa họ phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con. 1.2. Quan hệ cha mẹ, con phát sinh dựa vào sự kiện nuôi dưỡng. Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người nói chung và trẻ em nói riêng. Môi trường gia đình là môi trường lý tưởng để trẻ em có thể hình thành và phát triển nhân cách của mình. Vì một lý do nào đó mà trẻ em bị tách ra khỏi gia đình gốc của mình thì Nhà nước, xã hội phải tìm ra các hình thức chăm sóc thay thế cho gia đình ruột của các em. Nuôi con nuôi là một trong các hình thức chăm sóc thay thế đó. Chính vì vậy, Luật hôn nhân và gia đình quy định chế định nuôi con nuôi góp phần vào việc trông nom, nuỗi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là trẻ mồ côi hoặc bị cha, mẹ bỏ rơi. 1.2.1. Mục đích của việc nuôi con nuôi: * Dưới chế độ phong kiến tại Việt Nam, việc nuôi con nuôi đã được thực hiện trong các gia đình với mục đích cụ thể như sau: - Đảm bảo sự kế tục trong thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường trong những gia đình không có con cái… - Muốn để lại phúc đức cho con cháu - Ngoài ra, có một số gia đình việc nuôi con nuôi còn nhằm mục đích lợi lộc, ví dụ: để làm việc không phải trả tiền công, chủ nợ nhận nuôi con của người vay nợ để làm việc lấy công trừ vào lãi số tiền cho mượn hoặc nuôi con nuôi vì mê tín dị đoan.. * Hiện nay, việc nuôi con nuôi theo pháp luật hiện hành là việc xác lập quan hệ cha mẹ - con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội (điều 67 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Nuôi con nuôi là “xác lập quan hệ cha mẹ - con” nhằm mục đích “trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em” đó là mục đích chính, lợi ích của trẻ em là mục đích quan trọng nhất của chế định này. Ý nghĩa của việc nhận nuôi con nuôi. 50
  13. - Pháp luật quy định về mục đích nuôi con nuôi nhằm đảm bảo ý nghĩa xã hội của việc nhận nuôi con nuôi, quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi của trẻ vị thành niên được nhận làm con nuôi. - Quy định trên còn là căn cứ pháp lý để tóa án dựa vào khi xem xét chấm dứt việc nuôi con nuôi có động cơ, mục đích không vì lợi ích của trẻ em, để chống lại việc buôn bán trẻ em trá hình thông qua việc nuôi con nuôi. 1.2.2 Điều kiện của việc nhận nuôi con nuôi. Quan hệ con nuôi chỉ được thiết lập và có giá trị pháp lý khi việc nuôi con nuôi tuân thủ theo những điều kiện nhất định. - Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi + Điều kiện về độ tuổi: khoản 1 điều 68 quy định người được nhận làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống. Quy định về độ tuổi là dựa trên những cơ sở sau: Trẻ em dưới 15 tuổi chưa thể tự lực về mặt vật chất và tinh thân, các em chưa thể độc lập tham gia vào các quan hệ lao động, như vậy chưa có khả năng tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân. Ngoài ra, các em là người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, các em cần có sự giám hộ của người nhận nuôi. Lứa tuổi này trẻ em cần được chăm sóc giáo dục, yêu thương để hình thành nên nhân cách tốt đẹp của con người. Để được nhận làm con nuôi thì người đó phải từ 15 tuổi trở xuống, đây là quy định mang tính nguyên tắc.Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định những trường hợp ngoại lệ việc nuôi con nuôi được tiến hành mà độ tuổi của người được nhận làm con nuôi không bị hạn chế. Quy định này xuất phát từ mục đích nhân đạo, do vậy: Người trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu, cô đơn (khoản 1điều 68) Nói chung phần lớn các nước đều quy định người được nhận làm con nuôi phải là vị thành niên, tức là người dưới 18 tuổi, trừ một số nước có chế định riêng đối với việc nuôi con nuôi đã thành niên. Ví dụ: Việc nuôi con nuôi đã thành niên được quy định tại điều 1762 đến 1767 Bộ luật Dân sự 2005 Cộng hòa liên bang Đức + Khoản 2 điều 68 một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc cả hai vợ chồng. Một gia đình có thể nhận nhiều người làm con nuôi, nhưng một người chỉ được làm con nuôi của một gia đình. Việc quy định này là hạn chế khả năng lợi dụng việc nhận con nuôi để tiến hành việc mua bán, chiếm đoạt trẻ em, một đối tượng rất cần sự bảo vệ của nhà nước và pháp luật vì thực chất họ không thể tự bảo vệ được mình. Việc nhận nuôi trẻ em từ 9 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của trẻ em đó (khoản 2 điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Khi làm thủ tục công nhận việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có mặt trẻ em đó tại cơ quan hộ tịch, để trẻ được thể hiện sự tự nguyện đồng ý làm con nuôi của người nhận trẻ em làm con nuôi. Trẻ em từ 9 tuổi trở lên đã bắt đầu biết nhận thức nên việc hỏi ý kiến của trẻ là điều kiện bắt buộc. Việc nhận con chưa thành niên, người đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ người đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ. - Điều kiện đối với người nhận nuôi. 51
  14. Điều 69- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: 1. Có năng lực hành vi dân sự; 2. Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên; 3. Có tư cách đạo đức tốt; 4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; 5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ….. Việc quy định các điều kiện như trên là căn cứ vào mục đích của việc nhân con nuôi là tạo ra cho trẻ điều kiện gia đình tốt hơn. - Thứ nhất: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: theo quy định tại điều 18, 19, 22, 23 BLDS 2005 một người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi họ đủ 18 tuổi trở lên và không phải là người bị tòa án tuyên là mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự; Đây là điều kiện cần thiết của người nhận nuôi. - Thứ hai: Điều kiện về độ tuổi: Người nhận nuôi con nuôi phải hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên. Sở dĩ quy định như vậy vì căn cứ vào mặt sinh học: khi từ đủ 20 trở lên con người mới có sự phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý và nhận thức. Ở độ tuổi này họ mới có đủ khả năng tài chính, đủ kinh nghiệm tâm lý… để gánh vác các nghĩa vụ. Về mặt pháp lý: pháp luật chỉ buộc một người phải nhận thức và làm chủ hành vi của mình, tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi họ đạt độ tuổi từ đủ 18 tuổi trờ lên. Khi đó họ là người có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nếu họ không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Bên cạnh đó khi quy định người nhận con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên còn nhằm mục đích tạo ra sự cách biệt về thế hệ giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. - Thứ ba, người nhận con nuôi phải là người có tư cách đạo đức tốt. Điều này được pháp luật quy định nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng của trẻ được nhận làm con nuôi, đồng thời hạn chế những trường hợp lợi dụng việc nuôi con nuôi để sử dụng trẻ em vào mục đích không chính đáng, mang tính chất trục lợi. Đây là điều kiện quan trọng nhằm đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt - Thứ tư: Người nhận nuôi con nuôi phải là người có điều kiện thực tế đảm bảo việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. - Thứ năm, không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp, mua bán, đánh tráo,chiếm đoạt trẻ em, có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Những quy định trên là điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Pháp luật đặt ra những quy định này cũng nhằm mục đích cuối cùng là góp phần bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi của người được nhận làm con nuôi. 52
  15. 1.2.3. Thủ tục công nhận việc nuôi con nuôi: - Thẩm quyền đăng ký nhận nuôi con nuôi: Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “ việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và ghi vào sổ hộ tịch”. Theo điều 25 của Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch, thẩm quyền đăng ký việc nhận nuôi con nuôi do: Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người nhận nuôi con nuôi thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp trẻ em bị bỏ rơi được nhận làm con nuôi thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản xác nhận tình trạng trẻ bị bỏ rơi đăng ký việc nuôi con nuôi; nếu trẻ em đó đã được đưa vào cơ sở nuôi dưỡng thì Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có trụ sở nuôi dưỡng đăng ký việc nuôi con nuôi. - Thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi: Theo điều 26 Nghị định 158/2005/NĐ-CP quy định hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi gồm có: Giấy thỏa thuận về việc cho và nhận con nuôi (theo mẫu quy định); Bản sao giấy khai sinh của người được nhận làm con nuôi; Biên bản xác nhận tình trạng trẻ bị bỏ rơi nếu người được nhận làm con nuôi là trẻ bị bỏ rơi. Trình tự đăng ký việc nuôi con nuôi (điều 27 158/2005/NĐ-CP) - Người nhận nuôi con nuôi phải trực tiếp nộp hồ sơ nhận nuôi con nuôi cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đăng ký việc nuôi con nuôi. - Trước khi đăng ký việc nuôi con nuôi, cán bộ tư pháp hộ tịch phải kiểm tra, xác minh kỹ các nội dung sau đây: + Tính tự nguyện của việc cho và nhận con nuôi; + Tư cách của người nhận con nuôi; + Mục đích nhận con nuôi; Thời hạn kiểm tra, xác minh các nội dung trên không quá 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp cần xác định thêm thì thời gian kéo dài thêm không quá 5 ngày. 1.3. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi: Quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi thực chất là quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ. Pháp luật đồng nhất địa vị pháp lý của con nuôi trong quan hệ đối với cha mẹ nuôi giống như con đẻ đối với cha mẹ đẻ, cụ thể là Luật hôn nhân và gia đình chế định quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ, con được áp dụng cho quan hệ cha mẹ, con phát sinh dựa vào sự kiện sinh đẻ và tất nhiên cũng được áp dụng cho quan hệ cha mẹ, con phát sinh dựa vào sự kiện nuôi dưỡng mà không có bất kỳ sự khác biệt nào tồn tại. Thể hiện; - Cha mẹ nuôi và con nuôi có quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với nhau như nuôi dưỡng, chăm sóc nhau cũng như nghĩa vụ phải cấp dưỡng cho nhau khi cần thiết; - Trong trường hợp cha mẹ nuôi ly hôn với nhau, Tòa án sẽ quyết định vệc giao con cho cha hoặc mẹ nuôi dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con và quyền thăm nom, chăm sóc con của cha mẹ nuôi không có bất kỳ sự khác biệt nào so với cha mẹ đẻ với con đẻ; - Con nuôi có quyền thừa kế theo pháp luật tài sản của cha mẹ nuôi, bình đẳng với con đẻ của cha mẹ nuôi và cha mẹ nuôi có quyền thừa kế theo pháp luật tài sản của con nuôi; Theo quy định của BLDS 2005 thì trẻ được nhận làm con nuôi và cha mẹ đẻ vẫn có quyền hưởng thừa kế tài sản theo pháp luật của nhau . 53
  16. 1.4. Chấm dứt việc nuôi con nuôi: - Căn cứ chấm dứt: được quy định cụ thể tại Điều 76 Luật hôn nhân và gia đình 2000. Theo yêu cầu của những người quy định tại điều 77, Tòa án có thể quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi trong các trường hợp sau: + Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. + Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tánn tài sản của cha, mẹ nuôi; + Cha mẹ nuôi đã có các hành vi quy định tại khoản 3 điều 67 hoặc khoản 5 điều 69 Luật hôn nhân và gia đình. Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi. Đây là một quy định mang tính nhất quán trong pháp luật hôn nhân và gia đình. 1.5. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi. Quan hệ cha mẹ và con chấm dứt khi quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật, kể từ thời điểm đó tất cả quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con trong quan hệ nuôi dưỡng này cũng chấm dứt. Hậu quả sẽ được giải quyết theo điều 78 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con. 2.1 Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con. * Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha mẹ và con: Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền yêu thương chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về mặt thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Cha mẹ phải có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, giáo dục con, tạo điều kiện cho con học tập Pháp luật nghiêm cấm sự lạm dụng quyền làm cha mẹ dưới bất kỳ hình thức nào. Con cái chịu sợ chi phối đương nhiên của cha mẹ trong chế định pháp lý về nhân thân như: họ tên, quốc tịch, tôn giáo, chỗ ở…. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề, tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con. Cha mẹ là người đại diện cho con: Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên, con đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác làm đại diện theo pháp luật. * Nghĩa vụ và quyền nhân thân của con và cha mẹ: Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. Con có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ 2.2 Nghĩa vụ và quyền tài sản của cha mẹ và con. Ảnh hưởng của mối quan hệ giữa cha và mẹ: Người có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con tất nhiên là cha mẹ. Sự việc có vẻ đơn giản; nhưng, trên thực tế, chỉ đơn 54
  17. giản trong trường hợp cha mẹ và con cùng sống chung dưới một mái nhà và cha mẹ có đăng ký kết hôn. Có thể hình dung các trường hợp sau đây. - Trường hợp cha mẹ có đăng ký kết hôn và sống chung. Nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con thuộc loại nghĩa vụ xác lập, thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Bởi vậy, trong những hoàn cảnh, điều kiện được dự kiến tại Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 25, cha mẹ có trách nhiệm liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ đó, trong quan hệ với người thứ ba. Việc đóng góp của vợ chồng được thực hiện theo các quy định chung về đóng góp vào việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình. - Trường hợp cha mẹ có đăng ký kết hôn nhưng sống riêng. Dù sống riêng, cha mẹ vẫn phải liên đới thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, trong quan hệ với người thừ ba, một khi các giao dịch trong khuôn khổ thực hiện nghĩa vụ đó đã được một trong hai người xác lập. - Trường hợp cha mẹ không có đăng ký kết hôn và sống riêng. Trong trường hợp cha mẹ không đăng ký kết hôn và sống riêng, thì mỗi người vẫn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con, nhưng giữa hai người không thể có tình trạng liên đới về trách nhiệm đối với các giao dịch do một trong hai người xác lập nhằm thực hiện nghĩa vụ đó. Trong quan hệ nội bộ giữa cha và mẹ, việc xác định mức đóng góp của mỗi người trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con có thể được thực hiện theo thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con có thể yêu cầu Toà án buộc người còn lại thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. - Trường hợp cha mẹ không có đăng ký kết hôn và sống chung. Trên nguyên tắc, nếu cha mẹ không đăng ký kết hôn, thì không được coi là vợ chồng và do đó, không thể bị ràng buộc vào tình trạng liên đới về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con bằng cách áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 25. Tuy nhiên, vấn đề là: khi cùng với cha hoặc mẹ xác lập một giao dịch liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con, người thứ ba hầu như không có quyền yêu cầu cha mẹ xuất trình giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Một cách hợp lý, ta nói rằng người thứ ba ngay tình có quyền coi như là vợ chồng hợp pháp cha mẹ chung sống không đăng ký kết hôn mà có con sống chung với mình và có quyền yêu cầu cha hoặc mẹ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch liên quan đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng con, như một người có nghĩa vụ liên đới. - Quyền của cha mẹ trong việc quản lý, định đoạt tài sản riên của con: Quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên theo quy định tại điều 45 Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên theo quy định tại điều 46. - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con gây ra. Theo quy định tại điều 40 Luật hôn nhân và gia đình, điều 211, điều 606 Bộ luật Dân sự 2005. 2.3 Quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ với con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình cũng như nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha,mẹ được quy định cụ thể và rõ ràng trong Luật hôn nhân và gia đình. Nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cũng giống nghĩa vụ cấp dưỡng, chấm dứt lúc con đã thành niên và có khả năng lao động. Tuy nhiên, tục lệ gia đình Việt Nam chưa quen với quy tắc này. Nếu, sau khi tốt nghiệp trung học, con thi đỗ vào đại học hoặc được tiếp nhận vào một cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, thì cha mẹ sẽ tiếp tục chăm lo 55
  18. cho con trong việc học cả về vật chất và tinh thần. Nói chung, tục lệ thừa nhận rằng cha mẹ nuôi dưỡng con chừng nào con chưa đủ sức tự lập; tuy nhiên, nếu cha mẹ ngừng trợ cấp sau khi con đã thành niên và có khả năng lao động, thì cả tục lệ và luật đều không phê phán thái độ đó. Cha mẹ cũng có thể trợ cấp nhưng không có nghĩa vụ phải làm việc đó, một khi con đã thành niên, sau một thời gian hoạt động nghề nghiệp và đã có cuộc sống ổn định, lại quyết định ngưng làm việc để theo đuổi một kế hoạch học tập toàn thời gian. Trường hợp con đã thành niên tàn tật, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 36 khoản 1, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, về phần liên quan đến con đã thành niên nhưng tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, người làm luật hình dung giả thiết theo đó con rơi vào hoàn cảnh ấy từ lúc còn sống với cha mẹ và do hoàn cảnh ấy mà con không thể lấy vợ (lấy chồng). Nói tóm lại, con rơi vào hoàn cảnh ấy là con độc thân. Thực ra, nếu con đã có vợ, chồng, thì cũng chưa chắc con được vợ, chồng bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, bởi, như đã biết, nghĩa vụ hỗ trợ vật chất giữa vợ và chồng chưa có cơ sở vững chắc trong khung cảnh của luật viết; còn nghĩa vụ chăm sóc và giúp đỡ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng thì không thể bắt buộc thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế. Câu hỏi ôn tập: 1. Xác định quan hệ cha mẹ và con trên cơ sở sự kiện sinh đẻ. 2. Trình bày các điều kiện của việc nuôi con nuôi hợp pháp. 3. Trình bày quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con. 4. Việc chấm dứt nuôi con nuôi và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt. 56
  19. CHƯƠNG 7 NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH 1. Khái niệm cấp dưỡng và phân loại nghĩa vụ cấp dưỡng. 1.1 Khái niệm: Cấp dưỡng trong Luật hôn nhân và gia đình được hiểu là quan hệ pháp lụât, theo đó người trả cấp dưỡng phải có nghĩa vụ đảm bảo cho người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với mình sự chu cấp mang yếu tố tài sản theo những điều kiện được quy định trong luật HNGĐ. Theo quy định của khoản 11 điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 "cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp đó là người chưa thành niên, là người thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình, là người gặp khó khăn túng thiếu theo quy định của luật này". * Bản chất của nghĩa vụ cấp dưỡng. - Nghĩa vụ cấp dưỡng là quan hệ mang tính tài sản. - Quan hệ mang tính tài sản này không mang tính đền bù và ngang giá. - Nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính cụ thể và riêng biệt, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa những chủ thể có tư cách chủ thể đặc biệt. Tư cách chủ thể của họ được hình thành từ những mối quan hệ cụ thể như quan hệ cha mẹ con, quan hêj anh chị em, quan hệ ông bà cháu... Nghiã vụ cấp dưỡng thuộc về những cá nhân riêng biệt vì vậy không thể chuyển giao cho người khác và không thể thay thế bằng nghĩa vụ dân sự khác. * Yếu tố cấu thành quan hệ pháp lụât cấp dưỡng: - Chủ thể của quan hệ cấp dưỡng là người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng, quan hệ này chỉ hình thành giữa những người theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và họ có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng nhau kho chung sống với nhau. Vì lý do nào đó mà người nuôi dưỡng và người được nuôi dưỡng không chung sống với nhau thì thay vì thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng hộ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng là loại quan hệ có điều kiện, nó chỉ phát sinh khi hội đủ những điều kiện được pháp luật quy định. Người cấp dưỡng là người có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi sống mình, là người gặp khó khăn túng thiếu. - Khách thể của nghĩa vụ cấp dưỡng là hành vi đóng góp tiền hoặc tài sản khác của người cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng thực hiện trên sự thoả thuận trả cấp dưỡng hoặc theo quyết định có hiệu lực của toà án. - Nội dung của nghĩa vụ cấp dưỡng là quyền của người được cấp dưỡng yêu cấu người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện. 1.2 Cách phân loại nghĩa vụ cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng có thể chia dựa vào các dấu hiệu chủ thể: - Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con cái. - Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đã thành niên đối với cha mẹ. - Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn - Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên khác trong gia đình. * Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình có thể chia thành ba hàng cấp dưỡng 57
  20. - Hàng thứ nhất: Bao gồm nghĩa vụ cấp dưỡng giữa những người có quan hệ gần gũi thân thiết nhất trong gia đình. Đó là cha, mẹ, con, vợ chồng - Hàng thứ hai: Bao gồm việc cấp dưỡng giữa anh chị em, ở hàng thứ hai mức độ thân thiết giữa các chủ thể xa hơn hàng thứ nhất, nó chỉ phát sinh nếu những người có nghĩa vụ cấp dưỡng ở hàng thứ nhất đã chết hoặc còn sống mà không có khả năng thực hiện được nghĩa vụ này. - Hàng thứ 3 là nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà và cháu, nghĩa vụ này chỉ phát sinh khi những người ở hàng thứ nhất và hàng thứ 2 không còn hoặc có mà không thực hiện được nghĩa vụ cấp dưỡng. 2. Mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. 2.1 Mức cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng là một khoản tiền, lương thực hoặc tài sản khác mà bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cấp cho bên được cấp dưỡng để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của bên được cấp dưỡng. Pháp luật không quy định cụ thể mức cấp dưỡng cho các trường hợp cấp dưỡng mà trong các trường hợp riêng biệt, tuỳ vào điều kiện hoàn cảnh của người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng mà các bên thoả thuận một mức cấp dưỡng cụ thể hoặc do Toà án quyết định để có thể đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người được cấp dưỡng cũng như đảm bảo cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có thể thực hiện được nghĩa vụ của mình. Theo quy định tại điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 " Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thoả thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết" Như vậy, mức cấp dưỡng được xây dựng trên tiêu chí sau: - Khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng - Nhu cầu thực tế của người được cấp dưỡng Theo hướng dẫn của Nghị định số 70/2001 hướng dẫn thi thành Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định: - Khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng là người có nghĩa vụ cấp dưỡng có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của người đó. - Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người đó cư trú bao gồm: các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở mặc, học hành, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để đảm bảo cuộc sống của người được cấp dưỡng. Một khi mức cấp dưỡng được xác định một cách thận trọng và chính xác dựa trên các tiêu chí như trên vừa đề cập thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới có thể được thực thi trên thực tế. Mức cấp dưỡng có thể được các bên thoả thuận hoặc do Toà án quyết định nhưng nó không phải tồn tại một cách cố định mà có sự thay đổi vì khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống dựa vào hoàn cảnh gia đình, tình trạng tài sản của các bên hoặc một số tình trạng đặc biệt. Ví dụ: Mức cấp dưỡng có thể giảm khi người phải cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác, họ có con và cụôc sống của họ khó khăn túng thiếu hơn so với người được cấp dưỡng. 58
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2