intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán: Phần 2

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:55

133
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 2 Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán gồm nội dung chương 3, chương 4. Nội dung phần này trình bày hệ thống các phương pháp kiểm toán, trình tự các bước kiểm toán. Giáo trình được biên soạn theo chương trình khung của Tổng cục Dạy nghề. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán: Phần 2

  1. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán CHƯƠNG III HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN 3.1. Khái quát về hệ thống phương pháp kiểm toán Kiểm toán là một môn khoa học độc lập bởi vậy nó cũng có hệ thống phương pháp kiểm toán riêng của mình. Cũng như các môn khoa học khác, hệ thống phương pháp kiểm toán được xây dựng dựa trên các cơ sở như sau: - Cơ sở phương pháp luận của kiểm toán là phép biện chứng duy vật. Quan điểm biện chứng không những chỉ ra tính logic của quá trình nhận thức mà còn vạch ra các mội quan hệ và quy luật vận động của mọi sự vật và hiện tượng. - Cơ sở phương pháp kỹ thuật kiểm toán trước hết phải kể đến phương pháp toán học, trực tiếp là các phương pháp chọn mẫu, ước lượng khả năng sai sót cùng các mối quan hệ tương quan trong việc xem xét, dự báo các mội liên hệ cụ thể. - Cơ sở đặc điểm của đối tượng kiểm toán: trong quan hệ với đối tượng kiểm toán, hệ thống kiểm toán gồm hai phân hệ rõ rệt: các phương pháp kiểm toán chứng từ và phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ. 3.1.1. Phương pháp kiểm toán cơ bản 3.1.1.1. Khái niệm, đặc trưng và điều kiện vận dụng a. Khái niệm Phương pháp kiểm toán cơ bản là phương pháp được thiết kế, sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán có liên quan đến số liệu do hệ thống kế toán xử lý và cung cấp. b. Đặc trưng Mọi thử nghiệm, phân tích, đánh giá của KTV đều dựa vào số liệu, thông tin do BCTC và do hệ thống kế toán cung cấp. Phương pháp này còn được gọi là các bước kiểm nghiệm dựa vào số liệu. c. Điều kiện vận dụng Đây là phương pháp được vận dụng cho mọi cuộc kiểm toán, tuy nhiên phạm vi và mức độ vận dụng lại tuỳ thuộc vào tính hiệu quả của HTKSNB doanh nghiệp. Khi HTKSNB của doanh nghiệp tốt, để cuộc kiểm toán đạt hiệu quả thì KTV luôn phải kết hợp chặt chẽ giữa hai phương pháp. Tổ bộ môn Kế toán DN - 49 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  2. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán 3.1.1.2. Nội dung phương pháp kiểm toán cơ bản Phương pháp kiểm toán cơ bản gồm các loại kỹ thuật kiểm toán cụ thể sau: - Phân tích đánh giá tổng quát - Thử nghiệm chi tiết nghiệp vụ và số dư các tài khoản. a, Phân tích đánh giá tổng quát Phân tích đánh giá tổng quát là việc xem xét số liệu trên BCTC thông qua mối quan hệ và những tỷ lệ giữa các chỉ tiêu trên BCTC. Phương pháp phân tích, đánh giá tổng quát giúp KTV khai thác bằng chứng kiểm toán nhanh chóng thông qua việc xác định những sai lệch về thông tin, những tính chất không bình thường trên BCTC, để KTV xác định mục tiêu, phạm vi, quy mô, khối lượng công việc cần kiểm toán, từ đó có thể đi sâu nghiên cứu, kiểm toán những vấn đề mà KTV cho là cần thiết. Phương pháp phân tích, đánh giá tổng quát có tác dụng cho cả ba giai đoạn của quá trình kiểm toán, đó là giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán; giai đoạn thực hiện kiểm toán và giai đoạn kết thúc kiểm toán. - Đối với giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: Trong giai đoạn này, phương pháp phân tích đánh giá tổng quát giúp KTV nhìn nhận doanh nghiệp một cách toàn diện, nhanh chóng xác định được tính chất không bình thường, xác định được phạm vi kiểm tra, nội dung cần đi sâu kiểm toán, xác định được những vấn đề có khả năng sai sót trọng yếu; đồng thời giúp KTV xác định được nôi dung, thời gian, phạm vi sử dụng phương pháp kiểm toán khác, qua đó để lập được kế hoạch chi tiết với những nội dung, phạm vi cần thiết, thời gian biên chế và chi phí hợp lý. Trong quá trình phân tích ở giai đoạn này, KTV có thể sử dụng cả thông tin tài chính và phi tài chính (như diện tích kho tàng, số lượng lao động, năng suất bình quân…) - Giai đoạn thực hiện kiểm toán: Giai đoạn này, phân tích được coi như một phương pháp kiểm tra cơ bản nhằm thu thập bằng chứng có liên quan đến số dư tài khoản hoặc một loại nghiệp vụ nào đó. Các bằng chứng về cơ sở dữ liệu chứng minh cho các khoản mục trong BCTC có thể thu được khi tiến hành thử nghiệm chi tiết các nghiệp vụ số dư hoặc phân tích hay kết hợp cả hai phương pháp phân tích và thử nghiệm chi tiết nghiệp vụ và số dư tài khoản. Khi sử dụng phương pháp phân tích trong thực hành kiểm toán, KTV cần chú ý đến mấy vấn đề sau: Tổ bộ môn Kế toán DN - 50 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  3. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán + Mục đích phương pháp phân tích và mức độ KTV có thể tin cậy vào phương pháp phân tích. + Tính hữu dụng, hữu hiệu của các thông tin tài chính và phi tài chính dùng để phân tích. + Tính so sánh của các thông tin hiện có, kể cả độ tin cậy của nó. + Kinh nghiệm kiểm toán kỳ trước và tính hiệu lực của hệ thống KSNB trong doanh nghiệp. Nếu hệ thống KSNB yếu, không nên áp dụng phương pháp phân tích để đưa ra kết luận. - Giai đoạn kết thúc một cuộc kiểm toán: ở giai đoạn này, việc phân tích đánh giá tổng quát có vai trò rất quan trọng đối với KTV. Khi đã kiểm toán và có kết luận về từng bộ phận cấu thành BCTC, mà đặc biệt là kiểm toán hiện đại ngày nay tiến hành trên cơ sở mẫu chọn trong kiểm toán. Để có mức thỏa mãn trong kiểm toán càng cao và tăng thêm độ tin cậy cho KTV thì một lần nữa cần sử dụng phương pháp phân tích đánh giá tổng quát về những thông tin cần kiểm toán và bằng chứng thu thập được để củng cố thêm cho các bằng chứng và kết luận của KTV, kể cả việc thử lại khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp trước khi KTV kỹ vào báo cáo kiểm toán. * Kỹ thuật phân tích đánh giá tổng quát bao gồm: KTV thường sử dụng hai kỹ thuật phân tích: Phân tích xu hướng và phân tích tỷ suất.  Phân tích xu hướng (phân tích ngang) là phương pháp so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu. Kỹ thuật so sánh trong phân tích xu hướng thường sử dụng: - So sánh số liệu thực tế kỳ này với kỳ trước - So sánh số liệu thực tế với kế hoạch, định mức, dự toán... - So sánh số liệu thực tế của doanh nghiệp với số liệu bình quân của ngành hoặc số liệu dự kiến của KTV. - So sánh số liệu thực tế doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác cùng quy mô, cùng lãnh thổ, cùng ngành nghề, cùng loại hình SXKD - So sánh giữa số liệu thực tế với chỉ tiêu do KTV dự kiến VD: Giá thành thực tế gấp 2 giá thành kế hoạch đây là một biến động không bình thường vì vậy KTV nghi ngờ có thể tồn tại các gian lận, sai sót Tổ bộ môn Kế toán DN - 51 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  4. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Phương pháp này giúp KTV thấy được chiều hướng biến động của từng chỉ tiêu. Qua đó giúp KTV định hướng được nội dung kiểm toán và những vấn đề cơ bản cần đi sâu. Ưu điểm: Nhanh chóng, đơn giản Nhược điểm : Không thể hiện được mối quan hệ giữa các chỉ tiêu (không so sánh được với các chỉ tiêu khác). Để khắc phục hạn chế này, người ta sử dụng kỹ thuật phân tích tỷ suất.  Phân tích tỷ suất (Phân tích dọc) Phương pháp này dựa vào các mối quan hệ, những tỷ lệ tương quan giữa các chỉ tiêu, các khoản mục khác nhau để phân tích (so sánh), đánh giá. Tuỳ điều kiện cụ thể, tuỳ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp mà KTV có thể tiến hành một số hoặc dùng tất cả các tỷ suất sau: 1. Nhóm tỷ suất khả năng thanh toán Nhóm tỷ suất khả năng thanh toán dùng để phản ánh tình hình và khả năng thanh toán của đơn vị cũng như khả năng tiếp tục hoạt động và một số tình hình khác của đơn vị được kiểm toán. Thuộc nhóm này bao gồm các tỷ suất sau: a. Tỷ suất thanh toán hiện hành Tỷ suất thanh toán Tổng tài sản lưu động = hiện hành Tổng nợ ngắn hạn Trong đó: - Tổng nợ tài sản lưu động bao gồm: vốn bằng tiền, đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu, ứng trước hàng tồn kho - Tổng số nợ ngắn hạn: là các khoản nợ dưới một năm như: vay ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả, phải trả người cung cấp, phải trả công nhân viên, phải trả nội bộ, phải trả phải nộp khác. Khi tỷ suất bằng 1 nghĩa là tài sản lưu động vừa đủ thanh toán nợ ngắn hạn Khi tỷ suất bằng 2 nghĩa là đảm bảo vốn vừa thanh toán đủ nợ ngắn hạn vừa tiếp tục hoạt động được. Doanh nghiệp hoạt động bình thường. Khi tỷ suất lớn hơn 2: DN có khả năng thanh toán nhưng đầu tư thừa tài sản lưu động. Tổ bộ môn Kế toán DN - 52 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  5. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Khi tỷ suất nhỏ hơn 2: DN có khả năng thanh toán nhưng đầu tư thiếu tài sản lưu động. b. Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh Vốn bằng tiền + Đầu tư tài chính ngắn Tỷ suất khả năng hạn + các khoản phải thu = thanh toán nhanh Tổng nợ ngắn hạn Ý nghĩa: Nói lên khả năng thanh toán nhanh (tức thời) các khoản công nợ ngắn hạn bằng tiền và các khoản có thể chuyển hoá ngay bằng tiền Tỷ suất này bằng 1: là thoả đáng Tỷ suất này lớn hơn 1: có khả năng thanh toán nhanh Tỷ suất này nhỏ hơn 1: khó khăn trong thanh toán công nợ ngắn hạn c. Tỷ suất khả năng thanh toán dài hạn Tû suÊt kh¶ n¨ng Tæng tµi s¶ n l­u § éng = thanh to¸n dµi h¹n Tæng sè nî ph¶ i tr¶ (NH  DH) Ý nghĩa: Tỷ suất này còn có ý nghĩa trong việc xem xét khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp để có thể đưa ra ý kiến kiểm toán thích hợp. Tỷ suất này bằng 1: Doanh nghiệp có khả năng thanh toán Tỷ suất này lớn hơn 1: DN có khả năng thanh toán, có khả năng tiếp tục hoạt động Tỷ suất nhỏ hơn 1: Không những DN khó khăn trong quan hệ thanh toán mà khả năng giải thể, phá sản đang đến gần với doanh nghiệp. d. Số vòng thu hồi nợ ( Hệ số thu hồi nợ) Doanh thu thuần Số vòng thu hồi nợ = Số dư các khoản phải thu bình quân Số ngày của 1 vòng 365 = thu hồi nợ Số vòng thu hồi nợ trong năm Ý nghĩa: Số vòng thu hồi nợ càng nhiều hay thời gian thu hồi nợ càng ngắn thì càng có tiền để chi trả các khoản nợ. Tổ bộ môn Kế toán DN - 53 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  6. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán e. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho Số vòng luân chuyển Giá vốn bán hàng = hàng tồn kho Số dư tồn kho bình quân (Số dư tồn kho bình quân được tính bằng số dư đầu kỳ cộng với số dư cuối kỳ chia 2) Ý nghĩa: Phản ánh tốc độ luân chuyển của hàng tồn kho trong doanh nghiệp nhanh hay chậm. Nếu tốc độ luân chuyển hàng hoá càng nhanh thì càng chứng tỏ tình hình kinh doanh là tốt, tình hình tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng có nhiều thuận lợi. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cho biết mỗi năm hàng tồn kho luân chuyển được mấy lần. 2. Nhóm tỷ suất có khả năng sinh lời a,Tỷ suất khả năng sinh lời Tỷ suất khả năng sinh Lợi nhuận lời của vốn kinh doanh = Vốn kinh doanh Tỷ suất khả Lãi kinh doanh trước thuế + lãi vốn vay năng sinh lời của = Tổng giá trị tài sản bình quân tài sản Tổng giá trị tài sản Tổng giá trị TS tồn đầu kỳ + Tổng giá bình quân = trị TS tồn cuối kỳ 2 Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản chỉ ra mối quan hệ giữa lợi nhuận thu được và tổng mức đầu tư. Chỉ tiêu này cũng phản ánh hiệu quả của công ty trong việc quản lý tài sản va tạo lợi nhuận. b,Tỷ suất lợi nhuận gộp Tỷ suất lợi nhuận gộp Lợi nhuận gộp x 100% = Doanh thu Tỷ suất lợi nhuận gộp là chỉ tiêu đầu tiên để phân tích về khả năng sinh lời. Chỉ tiêu này cho thấy khả năng của công ty trong việc kiểm soát giá vốn và giá bán. Tổ bộ môn Kế toán DN - 54 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  7. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán c,Tỷ suất lợi nhuận ròng Tỷ suất lợi nhuận ròng Lợi nhuận trước thuế x 100% (kết quả hoạt động) = Doanh thu Chỉ tiêu lợi nhuận ròng đánh giá khả năng sinh lời sau khi trừ đi các khoản giá vốn và chi phí. Chỉ tiêu này có thể được so sánh với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận gộp để phân tích ảnh hưởng của chi phí quản lý, chi phí bán hàng tới lợi nhuận d, Tỷ suất hiệu quả kinh doanh Tỷ suất hiệu quả Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh kinh doanh = =A Tổng doanh thu bán hàng thuần Tỷ suất này cho biết, một đồng doanh thu bán hàng thuần mang lại bao nhiêu lãi cho doanh nghiệp. Hay: để tạo ra một đồng lợi nhuận thuần thì sẽ cần (1/A) đồng doanh thu bán hàng. 3. Nhóm tỷ suất về cấu trúc tài chính. a, Tỷ suất đầu tư ( tỷ suất đầu tư về TSCĐ và đầu tư dài hạn) TSCĐ và đầu tư dài hạn Tỷ suất đầu tư = Tổng tài sản Tỷ suất này đánh giá năng lực hiện có của doanh nghiệp, đánh giá trình độ trang bị máy móc, thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật… Tỷ suất này càng lớn chứng tỏ vị trí quan trọng của TSCĐ trong tổng số tài sản hiện có của doanh nghiệp. b, Tỷ suất tự tài trợ (tỷ suất tự tài trợ về TSCĐ và đầu tư dài hạn) Nguỗn vốn chủ sở hữu Tỷ suất tự tài trợ = TSCĐ và ĐTDH Tỷ suất tự tài trợ phản ánh khả năng đầu tư TSCĐ bằng nguồn vốn chủ sở hữu như thế nào? Nguốn vốn chủ sở hữu đã dùng vào TSCĐ và ĐTDH là bao nhiêu? c, Tỷ suất khả năng tài trợ (tỷ suất tài trợ) Tỷ suất khả năng Nguồn vốn chủ sở hữu tài trợ = ≤1 Tổng nguồn vốn Tổ bộ môn Kế toán DN - 55 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  8. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Tỷ suất này có mối quan hệ với tỷ suất nợ Nợ phải trả Tỷ suất nợ = Tổng nguồn vốn Hoặc Tỷ suất nợ = 1 - Tỷ suất khả năng tài trợ Tỷ suất tài trợ nói lên khả năng đầu tư đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với các chủ nợ hoặc những khó khăn tài chính mà doanh nghiệp phải đương đầu. Tỷ suất tài trợ càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều vốn tự có và hoạt động dựa vào NVCSH không lo lắng đến việc vay và trả nợ. d, Tỷ suất nợ trên vốn Tỷ suất nợ trên Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn = nguồn vốn Nguồn vốn So sánh chỉ tiêu nợ trên nguồn vốn và vốn tự có trên nguỗn vốn dùng để đánh giá khả năng tự tài trợ của công ty. Nguồn vốn ở đây bao gồm cả lãi lưu giữ. 3.1.1.3. Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư tài khoản * Khái niệm, tác dụng Phương pháp kiểm tra chi tiết nghiệp vụ: Là kỹ thuật kiểm tra chi tiết đến (quá trình) ghi chép, hạch toán từng nghiệp vụ kinh tế từ chứng từ vào sổ kế toán có liên quan. Phương pháp kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư tài khoản nhằm mục đích thu thập các bằng chứng trực tiếp chứng minh cho mức độ tin cậy của các số liệu trên các tài liệu kế toán. * Nội dung kiểm tra chi tiết nghiệp vụ và số dư bao gồm: - Kiểm tra chi tiết nghiệp vụ. + Khải sát các nghiệp vụ thực tế phát sinh như thế nào. + Xem xét các nghiệp vụ này được ghi nhận ra sao. + Việc ghi chép nghiệp vụ vào các sổ kế toán, việc chuyển sổ đối với từng nghiệp vụ có đúng chế độ, đúng phương pháp hay không, có được ghi chép đầy đủ hay bỏ sót, đúng hay sai kỳ… Tổ bộ môn Kế toán DN - 56 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  9. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Việc khảo sát này nhằm tìm ra những gian lận, sai sót ngay từ khi ghi chép. Xem xét nghiệp vụ có phát sinh từ thực tế hay không? Việc ghi chép và xử lý nghiệp vụ là một khâu quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến tính đúng đắn, trung thực của thông tin tài chính. Vì vậy khảo sát nghiệp vụ là một kỹ thuật quan trọng trong việc tìm ra sai sót ở khâu ghi chép. Việc khảo sát nghiệp vụ được áp dụng trong mọi cuộc kiểm toán không phân biệt hệ thống KSNB mạnh hay yếu. Tuy nhiên, hiệu lực của hệ thống KSNB lại chi phối đến việc khảo sát, thử nghiệm trên mẫu kiểm toán lớn hay nhỏ. Để đưa ra kết luận nhanh ở giai đoạn này, KTV thường tiến hành thử nghiệm, khảo sát trên cơ sở mẫu chọn để kiểm toán, nó cho ta kết quả nhanh nhất, phù hợp và hiệu quả nhất. - Kiểm tra chi tiết số dư tài khoản. Mục đích của việc khảo sát chi tiết số dư tài khoản là tìm ra các cơ sở dẫn liệu của số dư các tài khoản, tức số dư tài khoản có hiện hữu thật hay không? Nó có được ghi chép dựa trên các chứng từ hợp lệ và phù hợp với thực tế không, đồng thời nó có được cộng dồn tính ra số dư lũy kế theo đúng quy định hay không, nó có bỏ sót, bỏ quên các nghiệp vụ hoặc bị xử lý sai lệch số liệu trong tài khoản hay không? Việc tính toán, đánh giá về số dư tài khoản phải đúng đắn, phù hợp, việc ghi chép và tính số lũy kế phù hợp với quy định. Số dư phải phù hợp với số liệu thực tế hoặc kết quả kiểm kê. Nội dung của phương pháp này bao gồm các thử nghiệm về: + Tính có thật: Tức số dư của các tài khoản tại thời điểm lập BCTC phù hợp với tình hình thực tế về tài sản, công nợ và tình hình tài chính của đơn vị. + Sự tính toán, đánh giá: Tức số dư tài khoản đã được tính toán, đánh giá hợp lý. + Sự phân loại và tổng hợp: Tức số dư tài khoản được phân loại và tổng hợp đầy đủ, đúng đắn. + Sự trình bày, khai báo đúng đắn: số dư tài khoản được trình bày, khai báo trên BCTC phù hợp với thông lệ, chuẩn mực kế toán. Việc thử nghiệm chi tiết số dư tài khoản kết hợp với thử nghiệm chi tiết nghiệp vụ phát sinh nhằm phát hiện được những gian lận, sai sót trong quá trình ghi chép, xử lý dữ liệu. Đồng thời nó khẳng định và tăng thêm độ tin cậy của những bằng chứng mà KTV thu thập được để từ đó có thể mở rộng hay thu hẹp quy mô mẫu kiểm toán cần thử nghiệm. Qua đó xác định được mức thỏa mãn để đưa ra kết luận phù hợp. Tổ bộ môn Kế toán DN - 57 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  10. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán 3.1.2. Phương pháp kiểm toán tuân thủ 3.1.2.1. Khái niệm, đặc trưng và điều kiện vận dụng a, Khái niệm Phương pháp kiểm toán tuân thủ là các thủ tục, kỹ thuật kiểm toán được thiết kế và sử dụng để thu thập các bằng chứng kiểm toán có liên quan đến tính thích hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. b, Đặc trưng Đặc trưng của phương pháp này là mọi thử nghiệm phân tích, đánh giá và kiểm tra đều dựa vào quy chế kiểm soát nội bộ của đơn vị. Quy chế kiểm soát nội bộ của đơn vị chỉ có hiệu lực và hiệu quả khi toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị là mạnh, hiệu quả. c, Điều kiện vận dụng - Khách hàng kiểm toán là khách hàng truyền thống và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị phải mạnh, hiệu quả. - Đội ngũ cán bộ quản lý của đơn vị luôn tỏ ra trung thực, đáng tin cậy. - Qua kiểm toán nhiều năm, KTV không phát hiện các dấu vết về sai phạm nghiêm trọng. Nếu hệ thống KSNB của đơn vị mạnh và hiệu quả thì rủi ro kiểm soát thấp hấp dẫn đến công việc kiểm toán sẽ thuận lợi, khối lượng kiểm toán chắc chắn sẽ giảm nhẹ. Vì hệ thống kiểm soát mạnh, rủi ro kiểm soát thập, gian lận, sai sót tồn tại trong đơn vị sẽ ít. Khi nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị KTV cần trả lời câu hỏi “Liệu công việc kiểm toán có thể dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị” Để trả lời câu hỏi này, về thực chất KTV phải xem xét mức độ thỏa mãn về kiểm soát trong từng trường hợp cụ thể: + Nếu rủi ro kiểm soát khi lập kế hoạch kiểm toán được đánh giá cao -> mức độ thỏa mãn về kiểm soát thấp -> KTV không tin tưởng và không thể dựa vào hệ thống kiểm soát. + Nếu rủi ro kiểm soát khi lập kế hoạch kiểm toán được đánh giá là thấp → mức độ thỏa mãn về kiểm soát còn tùy thuộc vào kết quả đánh giá thực tế hiệu quả của hệ thống kiểm soát trong quá trình kiểm toán của KTV. Mối quan hệ giữa rủi ro kiểm soát và mức thỏa mãn về kiểm soát: Tổ bộ môn Kế toán DN - 58 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  11. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Thấp Cao Cao Phải chăng Thấp 3.1.2.2. Nội dung Tùy thuộc vào mức thỏa mãn về kiểm soát mà KTV áp dụng các kỹ thuật kiểm toán sau của phương pháp kiểm toán tuân thủ. * Kỹ thuật kiểm tra hệ thống (Còn gọi là phương pháp cập nhật cho các hệ thống) Kỹ thuật điều tra hệ thống là việc kiểm tra chi tiết một loạt các nghiệp vụ cùng loại ghi chép từ đầu đến cuối của một hệ thống để xem xét, đánh giá các bước kiểm soát áp dụng trong hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán. Ví dụ, các nghiệp vụ về lao động – tiền lương: từ khi quyết định tuyển dụng lao động, giao việc, tính lương và thanh toán lương; Hoặc các nghiệp vụ bán hàng được kiểm tra từ khi nhận đơn đặt hàng cho đến khi bán hàng và thu được tiền bán hàng. Việc thử nghiệm về hệ thống này cho phép KTV đánh giá lại mức độ RRKS và thiết kê phương pháp kiểm toán tuân thủ mà cụ thể là các thử nghiệm chi tiết về kiểm soát và qua đó điều chỉnh cả các thử nghiệm cơ bản. * Các thử nghiệm chi tiết về kiểm soát. Thử nghiệm chi tiết về kiểm soát là các thử nghiệm được tiến hành để thu thập bằng chứng về sự hữu hiệu của các quy chế KSNB và các bước kiểm soát được tiến hàng làm cơ sở cho việc thiết kế phương pháp kiểm toán cơ bản – tức các thử nghiệm về số liệu Việc kiểm tra chỉ áp dụng đối với các loại kiểm soát có để lại dấu vết và bằng chứng: kiểm soát độc lập (kiểm soát quản lý), kiểm soát xử lý, kiểm soát bảo vệ tài sản. Thử nghiệm kiểm soát được tiến hành dựa trên các kỹ thuật cụ thể gồm: quan sát, phỏng vấn, kiểm tra tài liệu và làm lại… Tổ bộ môn Kế toán DN - 59 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  12. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Việc tiến hành các thử nghiệm kiểm soát để thu thập các bằng chứng đánh giá mức độ tự tuân thủ các chính sách và thủ tục KSNB đã được vạch ra. Ví dụ: Để ngăn chặn sai phạm trong việc lập hóa đơn và ghi chép nghiệp vụ bán hàng, doanh nghiệp đã thực hiện thủ tục kiểm soát là giao cho một kế toán viên kiểm tra lại về số lượng, giá cả và tính toán trên từng hóa đơn bán hàng. Để thử nghiệm về loại kiểm soát này, KTV chọn một mẫu gồm 30 hóa đơn, tiến hành đối chiếu hóa đơn với các hợp đồng, đơn đặt hàng, chứng từ vận chuyển tương ứng. So sánh với bảng giá hiện hành và quyết định phê duyệt giá bán của lãnh đạo, đồng thời tính toán lại hóa đơn để đưa ra kết quả thử nghiệm, so sánh với kết quả cung cấp của doanh nghiệp để đưa ra kết luận có thể tin tưởng vào kết quả do bộ phận bán hàng cung cấp hay không? Nếu xảy ra có nhiều sai sót thì KTV phải thiết kế lại các thử nghiệm cơ bản để xác minh đúng đắn về nghiệp vụ bán hàng và các khoản phải thu. Việc tiến hành hay không tiến hành các thử nghiệm chi tiết về kiểm soát phụ thuộc vào việc đánh giá lại rủi ro kiểm soát sau khi đã áp dụng kỹ thuật kiểm tra hệ thống. Trường hợp 1:Nếu mức rủi ro kiểm soát đánh giá là không cao hoặc KTV xét thấy có thể giảm được rủi ro kiểm soát so với mức đã được đánh giá sơ bộ khi lập kế hoạch kiểm toán xuống mức thấp hơn, thì KTV sẽ tiến hành các thử nghiệm chi tiết về kiểm soát cần thiết. Trường hợp 2: Nếu rủi ro kiểm soát được đánh giá là cao, không có khả năng giảm được thông qua việc kiểm tra hệ thống thì KTV sẽ không tiến hành thử nghiệm chi tiết về kiểm soát nữa mà phải tiến hành ngay các thử nghiệm cơ bản sao cho phù hợp. Sự tiến hành các thử nghiệm này về phạm vi, qui mô nhiều khi phụ thuộc vào tính chủ quan của KTV, nhưng nó luôn phải được tiến hành trên cơ sở kinh nghiệm, trình độ năng lực, sự xét đoán và sự am hiểu tường tận về đơn vị được kiểm toán. 3.2. Phương pháp kiểm toán chứng từ 3.2.1. Kiểm toán cân đối Trong hàng loạt các mối liên hệ giữa các mặt của các sự vật, hiện tượng, xuất hiện mối liên hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập. Trong hoạt động kinh tế tài chính cũng xuất hiện nhiều mối liên hệ như vậy. Các quan hệ này được cụ thể hóa bằng các quan hệ cân đối khác nhau: Cân đối giữa nguồn Tổ bộ môn Kế toán DN - 60 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  13. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán lực và kết quả, cân đối giữa số phát sinh Nợ và phát sinh Có, giữa tài sản với nguồn hình thánh tài sản đó… Trong kiểm toán trước hết phải xét đến cân đối tổng quát theo các mô hình (phương trình) cân đối khái quát. Ví dụ: Với Bảng cân đối tài sản: Tài sản = Vốn chủ sở hữu + Công nợ Hoặc: Tổng số tài sản = Tổng số vốn. Trong thực tế, có thể có những trường hợp, các mối quan hệ cân bằng này thường xuyên không được duy trì. Khi đó phải xem xét lại bản chất riêng của mối liên hệ. Trong một số trường hợp, do bản thân các quy định, chế độ về kinh tế nói chung và về kế toán nói riêng làm cho quan hệ này không cân bằng về lượng. Thông thường, trong tổ chức quản lý có các đơn vị kế toán cơ sở (độc lập) có liên hệ dọc theo ngành kinh tế - kỹ thuật hoặc ngành chuyên sâu quá chặt chẽ về tài chính (các ga, trạm… của vận tải đường sắt, hàng không, bưu chính viễn thông…); các đơn vị kế toán được phân cấp tài chính không đầy đủ (các nhà máy, nông trường, công ty…); các đơn vị độc lập trong một ngành độc quyền … Các đơn vị này nếu không quy định cụ thể về kỹ thuật kế toán tài chính thì Bảng cân đối tài sản có thể không duy trì được cân bằng về lượng. Trong một số trường hợp khác, có thể cân bằng không tồn tại trong khoảng thời gian dài lại do lỗi về xử lý tài chính. Các trường hợp này thường gặp trong các đơn vị khó phân định trong việc xử lý hoặc trong các đơn vị không xử lý triệt để về tài chính trong trường hợp tài sản, vật tư có thất thoát hoặc thừa ra trong kiểm kê, trong kinh doanh… Cũng có thể có nguyên nhân cố ý không thực hiện quy tắc tài chính dẫn đến tình trạng mất cân bằng về kế toán như lập quyết toán giả để nhận vốn dẫn đến vốn không cân đối với tài sản thực… Trong một số trường hợp khác, tình trạng mất cân bằng này hoàn toàn chỉ do lỗi của kế toán. Chẳng hạn do kế toán làm tắt, do những quan hệ kinh tế mới phát sinh nên chưa xử lý đúng hoặc do yếu tố tâm lý không thật tốt trong khi ghi sổ, khóa, lập quyết toán… Dù quan hệ cân đối tổng quát có tồn tại hay không, kiểm toán các cân đối cụ thể vẫn phải đặt ra. Trong cân đối cụ thể, phải dựa vào cân đối giữa số ghi Nợ với số ghi Có hoặc giữa số đầu kỳ và số tăng trong kỳ với số cuối kỳ và số giảm trong kỳ của kế toán kép. Những mối quan hệ này thường rất nhiều. Để kiểm toán thường phải dùng chọn mẫu ngẫu nhiên hoặc chọn mẫu điển hình, từ đó suy rộng cho quần thể mẫu Tổ bộ môn Kế toán DN - 61 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  14. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán 3.2.2. Đối chiếu lôgic Là việc xem xét mức biến động tương ứng về trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song có thể có mức biến động khác nhau và có thể theo hướng khác nhau. Chẳng hạn: - Hàng tồn kho giảm có thể dẫn đến tiền mặt, tiền gửi hoặc các khoản phải thu phải trả. Xu hướng biến động giữa hàng tồn kho và các khoản mục liên quan nói trên là ngược nhau và mức biến động cũng có thể không đồng nhất trên từng khoản mục. - Tài sản cố định tăng có thể dẫn đến tiền vay, nợ dài hạn tăng hoặc chi phí xây lắp giảm. Trường hợp này có thể mức biến động tương ứng và có xu hướng có thể có cùng chiều (nếu vay nợ), hoặc ngược chiều (nếu kết chuyển chi phí xây lắp hoặc dùng tiền để mua). - Vốn bằng tiền giảm có thể dẫn tới hàng hóa vật tư tăng hoặc các khoản phải trả giảm. . - v.v….. Cách đối chiếu này được sử dụng rất phổ biến trong việc xem xét khái quát tính hợp lý của các mối quan hệ kinh tế - tài chính thuộc đối tượng kiểm toán. Trên cơ sở đó, định hướng cho việc kiểm toán các đối tượng cụ thể khi phát hiện những mâu thuẫn trong mức và xu hướng biến động của các chỉ tiêu có liên quan. 3.2.3. Đối chiếu trực tiếp Đối chiếu trực tiếp là so sánh (về mặt lượng) trị số của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ kiểm toán. Đối chiếu này thường có trong các trường hợp sau đây: 1) Đối chiếu số cuối kỳ và số đầu năm hoặc giữa các kỳ trên các Bảng Cân đối tài sản để nghiên cứu động thái của các mặt hoạt động tương ứng với chỉ tiêu đó (đối chiếu ngang) hoặc giữa các bộ phận tổng thể để xem xét cơ cấu, phân bố từng quần thể (đối chiếu dọc). 2) Đối chiếu giữa số dự toán, định mức, kế hoạch với số thực tế để đánh giá mức độ phấn đấu thực hiện các mục tiêu thể hiện trên các chỉ tiêu tương ứng. 3) Đối chiếu trị số của cùng một chỉ tiêu trong cùng một thời kỳ trên các chứng từ khác nhua, chẳng hạn chỉ tiêu lợi nhuận hay lợi nhuận còn lại trên các bảng cân đối, các sổ tổng hợp. Tổ bộ môn Kế toán DN - 62 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  15. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán 4) Đối chiếu các con số của cùng một chứng từ nhưng được bảo quản, lưu trữ ở các địa điểm khác nhau. Loại đối chiếu này được thực hiện phổ biến trong kiểm toán các khoản giao dịch với ngân hàng, các khoản thu về bán hàng, các khoản cho về mua hàng. 5) Đối chiếu trị số của các chỉ tiêu với trị số của các yếu tố cấu thành chỉ tiêu đó. Chẳng hạn: Đối chiếu các yếu tố số lượng, đơn giá với số tiền trong các chứng từ gốc; Đối chiếu các khoản mục cấu thành các loại tài sản hoặc nguồn vốn trong Bảng Cân đối tài sản, đối chiếu các khoản chi, thu với các hoạt động trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ hoặc Báo cáo Kết quả kinh doanh,… Như vậy, phương pháp đối chiếu trực tiếp được sử dụng rất rộng rãi. Tuy nhiên, đối chiếu trực tiếp chỉ được sử dụng trong trường hợp các chỉ tiêu được hạch toán theo cùng một chuẩn mực (cùng nội dung, cùng phương pháp, cùng đơn vị tính toán…) và trong cùng khoảng thời gian và điều kiện tương tự nhau. 3.3. Phương pháp kiểm toán ngoài chứng 3.3.1. Kiểm kê Kiểm kê là phương pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài sản. Đây là phương pháp kiểm toán đơn giản, phù hợp với chức năng xác minh của kiểm toán. Do vậy, trong nhận thức phải luôn gắn chặt kiểm kê vào quy trình chung của kiểm toán, đặc biệt là ngoại kiểm. Trong thực tế, đặc biệt khi quan hệ chủ thể- khách thể kiểm toán chưa được xác lập ổn định về pháp lý hoặc trong thực hành, nhiều công ty kiểm toán chỉ được mời sau khi đơn vị được kiểm toán đã kiểm kê xong. Trường hợp này rủi ro kiểm toán rất lớn và là một trong những yếu tố tạo ra sự khác biệt về kỳ vọng giữa kiểm toán viên và những người quan tâm. Tât nhiên chức năng của kiểm toán được thực hiện với nhiều đối tượng khác nhau, trong nhiều khách thể với những chủ thể khác nhau và ở những điểm thời gian khác nhau. Vì vậy, phương pháp kiểm kê cũng được thực hiện thích ứng về thời điểm (định kỳ hay đột xuất hoặc thường xuyên), về loại hình (kiểm kê toàn diện, kiểm kê điển hình hoặc chọn mẫu…) Trong mọi trường hợp, để phát huy tác dụng và nâng cao hiệu quả kiểm kê, công tác kiểm kê cần được thực hiện theo quy trình chung từ khâu chuẩn bị đến thực hành và kết thúc kiểm kê. Chuẩn bị kiểm kê phải căn cứ vào mục tiêu, quy mô, thời gian kiểm kê để bố trí lực lượng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị đo lường phù hợp và chính xác. Đây là yếu tố quyết định chất lượng của kiểm kê nói riêng và của kiểm toán nói chung. Tổ bộ môn Kế toán DN - 63 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  16. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Thực hành kiểm kê phải theo đúng yêu cầu và ghi chép đầy đủ theo từng mã cân hoặc lô hàng… Phiếu (sổ) mã cân hay phiếu kiểm kê trở thành chứng từ kiểm toán. Kết thúc kiểm kê cần có biên bản trong đó phải nêu rõ chênh lệch, các nguyên nhân và xử lý cụ thể. Biên bản cần được đính kèm phiếu kiểm kê (mã cân) và bảng kê chênh lệch về kết quả kiểm kê. 3.3.2. Thực nghiệm Thực nghiệm là phương pháp diễn lại hoặc nghiên cứu, phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra và cần xác minh lại. Do vậy, thực nghiệm còn được gọi là phương pháp “làm lại”. Chẳng hạn, để xác minh lại hao phí hoặc kết quả sản xuất có thể phải làm thử lại một mẻ hàng để khẳng định rõ những điều nghi vẫn. Ví dụ: Mức hao phí vật liệu hoặc lao động hoặc sản lượng… tương ứng. Trong một số trường hợp, kiểm toán phải sử dụng nhiều cách thức trong hóa nghiệm, trong kỹ thuật hình sự… để khẳng định một vụ việc trước khi đưa ra những kết luận kiểm toán. 3.3.3. Điều tra Điều tra là phương pháp xác định lại một tài liệu hoặc một thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luận kiểm toán. Điều tra bao gồm các kỹ thuật phỏng vấn, quan sát, gửi thư xác nhận… Điều tra được sử dụng rất rộng rãi trong kiểm toán. Chẳng hạn: - Tìm hiểu khách thể kiểm toán (nói chung) hay làm quen với khách hàng (của kiểm toán độc lập). Có thể tìm hiểu trực tiếp hoặc qua các kiểm toán viên tiền nhiệm hoặc gửi phiếu điều tra sơ bộ nhằm đưa ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận thư hẹn kiểm toán của khách hàng (đối với kiểm toán độc lập) hoặc lập kế hoạch kiểm toán (đối với kiểm toán Nhà nước). Ngay trong kiểm toán nội kiểm, với một kiểm toán viên chưa có hiểu biết đầy đủ về khách thể kiểm toán cũng cần có bước tìm hiểu hay làm quen. Chẳng hạn kiểm toán lương ở một đơn vị phụ thuộc phải tìm hiểu và làm quen với từng nhân viên để xác định mức phù hợp giữa danh sách trả lương với nhân viên thực có ở đơn vị đó. - Tiếp cận với các bên có liên quan, dò hỏi, phỏng vấn, thu lượm và tích lũy dữ liệu, loại dần và thu gọn đối tượng xác minh cho những vấn đề kiểm toán. - Xác minh bằng văn bản qua thư xác nhận của các bên có liên quan. - Chọn mẫu hoặc chọn điển hình các đối tượng kiểm toán, xác minh làm rõ các vấn đề cần kiểm toán. Tổ bộ môn Kế toán DN - 64 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  17. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Để bảo đảm hiệu quả kiểm toán, điều tra cần được kết hợp với hàng loạt kỹ thuật dự báo, dự đoán cụ thể như chi tiết, phân loại, tổng hợp đối tượng kiểm toán, chọn mẫu ngẫu nhiên hoặc chọn điển hình,… và cả những kinh nghiệm trong việc tiếp cận, tìm hiểu những đối tượng có liên quan. 3.4. Kỹ thuật lấy mẫu kiểm toán 3.4.1. Sự cần thiết của kiểm toán trên cơ sở chọn mẫu. Chúng ta biết rằng, đối tượng của kiểm toán nói chung là mọi hoạt động trong hoạt động kinh doanh của các đơn vị. Trong các đối tượng của kiểm toán, chúng ta quan tâm vào các hoạt động tài chính - kế toán bao gồm những nghiệp vụ cụ thể, những tài sản cụ thể, những chứng từ, thủ tục cụ thể và thường được biểu hiện bằng số tiền xác định. Hoạt động kinh tế của đơn vị vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp mà kế toán phải phản ánh, ghi chép trên các hóa đơn, chứng từ, sổ sách, báo cáo. Do đó kiểm toán không thể kiểm toán được tất cả các hoạt động đó. Trong khi đó, chuẩn mực kiểm toán lại không cho phép công tác kiểm toán bỏ qua những sai phạm trọng yếu để loại trừ rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, giảm tối đa rủi ro phát hiện. Mặt khác kiểm toán tạo niềm tin cho “những người quan tâm”. Họ cần biết thực trạng tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị. Trên giác độ khác, xét trên khía cạnh quan hệ giữa lợi ích và chi phí thì kiểm toán toàn diện là phi kinh tế. Như vậy, yêu cầu về chất lượng kiểm toán với khả năng xác minh toàn diện các đối tượng kiểm toán đã phát sinh mâu thuẫn. Chìa khóa để mở ra bí quyết cho việc giải quyết mâu thuẫn trên chính là phương pháp kiểm toán chọn mẫu theo tinh thần: với số lượng thích hợp, với tính đại diện cao của mẫu chọn sẽ giúp KTV vẫn đảm bảo chất lượng kiểm toán với thời lượng có hạn và chi phí kiểm toán thấp. 3.4.2. Khái niệm cơ bản về chọn mẫu kiểm toán Chọn mẫu kiểm toán là quá trình chọn một nhóm các khoản mục hoặc các đơn vị từ một tập hợp lớn hay một tổng thể lớn và sử dụng các đặc trưng của mẫu để suy rộng cho đặc trưng của toàn bộ tổng thể. Tổng thể là một tập hợp bao gồm tất cả các phần tử hoặc đơn vị thuộc đối tượng nghiên cứu. Mỗi một phần tử trong tổng thể được gọi là đơn vị tổng thể; khi chọn mẫu kiểm toán, mỗi đơn vị được lựa chọn ra được gọi là đơn vị mẫu. Tập hợp các đơn vị mẫu được gọi là một mẫu Mẫu kiểm toán là một phần dữ liệu được lấy ra từ tổng thể (toán bộ dữ liệu) được thực hiện bằng các phép thử cơ bản và tuân thủ để đánh giá, từ kết quả của mẫu kiểm toán suy ra kết quả cho tổng thể. Tổ bộ môn Kế toán DN - 65 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  18. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Rủi ro chọn mẫu là khả năng mà kết luận của kiểm toán viên dựa trên mẫu sai lệch so với kết luận mà kiểm toán viên có được khi dùng thử nghiệm tương tự đối với toàn bộ tổng thể. Rủi ro không do chọn mẫu : KTV có thể đưa ra những kết luận sai lầm không phải do lỗi chọn mẫu mà do các yếu tố không liên quan trực tiếp đến việc chọn mẫu như: do thiếu thận trọng, do sử dụng thủ tục kiểm toán không phù hợp… KTV có thể kiểm soát rủi ro này. Các loại mẫu Mẫu gồm 2 loại: Mẫu thống kê và mẫu phi thống kê - Mẫu thống kê: là mẫu được sử dụng phương pháp toán học để tính toán các kết quả thống kê có tính hệ thống - Mẫu phi thống kê: là mẫu được chọn trên cơ sở xét đoán mang tính nghề nghiệp của KTV 3.4.3. Phương pháp chọn mẫu Có hai phương pháp chọn mẫu là: chọn mẫu xác suất và chọn mẫu phi xác suất. 3.4.3.1. Phương pháp chọn mẫu xác suất * Khái niệm: Phương pháp chọn mẫu xác suất là phương pháp chọn mẫu có hai đặc điểm sau: + Các phần tử được lựa chọn ngẫu nhiên vào mẫu + Sử dụng lý thuyết xác suất thống kê để đánh giá kết quả mẫu, bao gồm cả việc định lượng rủi ro lấy mẫu Phương pháp này sẽ đảm bảo mỗi phần tử của tổng thể đều có cơ hội như nhau để được lựa chọn vào mẫu. Kiểm toán viên căn cứ từ tổng thể chọn mẫu hay một số mẫu bất kỳ từ các số ngẫu nhiên. Phương pháp này có đặc trưng là có tính khách quan. Kết quả của lựa chọn ngẫu nhiên là một mẫu không thiên lệch, không chắc đã là mẫu đại diện được cho tổng thể. Cách lựa chọn này vẫn tồn tại những rủi ro là mẫu được chọn không chứa đựng các đặc trưng chủ yếu của tổng thể, tuy nhiên mức rủi ro này được đo bằng các công thức thống kê. Trong chọn mẫu ngẫu nhiên, các kỹ thuật thường được sử dụng để chọn mẫu bao gồm: bảng số ngẫu nhiên, chọn mẫu theo chương trình máy vi tính và chọn mẫu hệ thống. Tổ bộ môn Kế toán DN - 66 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  19. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán Phương pháp chọn mẫu này có thể sử dụng cho cả mẫu thống kê và mẫu phi thống kê. Để lấy mẫu thống kê thì KTV bắt buộc phải sử dụng phương pháp chọn mẫu xác suất. Để lấy mẫu phi thống kê, KTV cũng có thể sử dụng phương pháp chọn mẫu xác suất tuy nhiên cách làm này ít được các KTV áp dụng. * Các kỹ thuật sử dụng khi chọn mẫu xác suất bao gồm: a1, Bảng số ngẫu nhiên Bảng số ngẫu nhiên là một bảng liệt kê ngẫu nhiên các chữ số độc lập, được sắp xếp một cách thuận lợi dưới dạng bảng biểu để làm dễ dàng cho việc chọn các số ngẫu nhiên vào mẫu. Bảng này bao gồm nhiều con số ngẫu nhiên được sắp xếp thành các cột và dòng theo kiểu bàn cờ, mỗi con số gồm 5 chữ số. Với mẫu biểu bảng như vậy sẽ đảm bảo cho mỗi con số trong mỗi hàng, mỗi cột đều được lựa chọn đại diện với số lượng tương đương nhau. Để sử dụng bảng các số ngẫu nhiên, kiểm toán viên phải thực hiện một quy trình gồm 4 bước sau: - Bước 1: Xây dựng một hệ thống đánh số cho tổng thể. Trước hết, KTV phải đánh số tổng thể nếu các phần tử trong tổng thể không được đánh số trước, hoặc đánh số một cách không liên tục, hoặc đánh số theo một hệ thống khác hệ thống thập phân. - Bước 2: Xây dựng quan hệ giữa bảng số ngẫu nhiên với tổng thể, có nghĩa là thiết lập một sự quan hệ tương ứng giữa các số liệu của bảng với các phần tử trong tổng thể: Mối quan hệ này được thiết lập bằng việc quyết định số các chữ số sẽ được sử dụng trong bảng số ngẫu nhiên và sự liên kết của chúng với hệ thống đánh số tổng thể. Có thể có 3 tình huống xảy ra sau đây: + Các số được mã hoá cho đối tượng kiểm toán cũng gồm 5 chữ số như các số ngẫu nhiên trong bảng. Khi đó, có quan hệ tương quan 1-1 giữa định lượng đối tượng kiểm toán với các số ngẫu nhiên trong bảng tự nó đã được thiết lập. + Các số thứ tụ của đối tượng kiểm toán gồm số lượng chữ số ít hơn 5. Trường hợp này đòi hỏi KTV phải xác định trước các cách: hoặc là lấy các chữ số đầu, hoặc là lấy chữ số giữa (nếu có), hoặc là lấy các chữ số cuối,… trong các chữ số ngẫu nhiên. + Các số thứ tự của đối tượng kiểm toán lớn hơn 5. Khi đó đòi hỏi KTV phải xác định xem lấy cột nào trong bảng làm chính và chọn thêm những hàng số ở cột phụ của bảng. Chẳng hạn: với đối tượng có 7 chữ số cần ghép 1 cột chính Tổ bộ môn Kế toán DN - 67 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
  20. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán với 2 hàng chữ số của một cột phụ nào đó để được số có 7 chữ số. - Bước 3: Xây dựng hướng sử dụng bảng: Hướng sử dụng bảng sẽ xác định những chữ số KTV sẽ sử dụng trong 1 cột và phương pháp đọc bảng. KTv có thể chọn các con số theo chiều dọc (theo cột), hay ngang (theo hàng), có thể chọn các con số đầu tiên, ở giữa hay cuối cùng hoặc ngược (từ dưới lên). Hướng sử dụng bảng được xác định một cách tuỳ ý nhưng phải được xây dựng trước và được tuân thủ một cách nhất quán trong quá trình chọn mẫu. - Bước 4: Chọn điểm bắt đầu. Số được lựa chọn là điểm bắt đầu được xác định tuỳ ý nó sẽ là phần tử đầu tiên được đưa vào mẫu và là vị trí mà hướng sử dụng bảng được bắt đầu. Việc chọn lựa này của KTV là ngẫu nhiên, bất kỳ mà không theo một quy luật nào cả. Bởi vậy, có thể dùng bút chì chấm ngẫu nhiên vào một điểm nào đó và dùng con số ngẫu nhiên gần điểm đó nhất làm hướng xuất phát của quá trình chọn số ngẫu nhiên. Trong quá trình áp dụng bảng số ngẫu nhiên, KTV gặp lại trên lộ trình một con số đã xuất hiện một lần và đã được chọn vào mẫu. Trường hợp này có hai hướng giải quyết: - Thứ nhất, KTV có thể áp dụng mẫu không lặp lại, nghĩa là không chấp nhận một phần tử đưa vào mẫu nhiều hơn một lần và sẽ bỏ qua số liệu đó để lựa chọn số liệu kế tiếp. - Thứ hai, KTV sẽ áp dụng mẫu lặp lại nghĩa là chấp nhận một phần tử đưa vào mẫu nhiều hơn một lần và sẽ xem như số liệu đó sẽ chọn vào mẫu một lần nữa. Cả hai cách giải quyết này đều được chấp nhận trong lấy mẫu kiểm toán với các công thức thống kê thích hợp, tuy nhiên việc sử dụng mẫu không lặp lại được ưa chuộng hơn. Phương pháp này mất nhiều thời gian và có thể sai sót khi lựa chọn. Nó ít được áp dụng trong kiểm toán. Ví dụ sau đây minh hoạ cho phương pháp sử dụng bảng số ngẫu nhiên. Với 5.000 khoản phải thu khách hàng đánh số thứ tự từ 0001 đến 5.000, chọn ra 110 khoản để kiểm toán. Ở đây, bước 1 có thể bỏ qua vì đối tượng kiểm toán đã được đánh số trước. Chú ý rằng, đối tượng kiểm toán bao gồm các số có 4 chữ số do vậy bước thứ hai ta phải xác định lấy bốn chữ số nào trong 5 chữ số của các số ngẫu nhiên. Giả sử lấy 4 chữ số đầu để có được mối quan hệ giữa đối tượng kiểm toán với các số ngẫu nhiên trong Bảng. Bước tiếp theo là xác định lộ Tổ bộ môn Kế toán DN - 68 - Trường Cao đẳng nghề Nam Định
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2