intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Nguyên lý đảm bảo an toàn các cơ sở hạt nhân - O.M. Kovalevich

Chia sẻ: Light Way | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

100
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình học tập này cung cấp những khái niệm về vấn đề an toàn các nhà máy điện hạt nhân trong khuôn khổ cách tiếp cận hiện đại trên thế giới. Giáo trình đã thảo luận các phần cơ bản và đã xem xét các giải pháp của vấn đề này áp dụng cho các nhà máy điện hạt nhân của nước Nga.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Nguyên lý đảm bảo an toàn các cơ sở hạt nhân - O.M. Kovalevich

  1. Bộ Giáo dục Liên bang Nga Trường Đại học Năng lượng Moscva O.M. Kovalevich NGUYÊN LÝ ĐẢM BẢO AN TOÀN CÁC CƠ SỞ HẠT NHÂN Giáo trình môn học “Đảm bảo an toàn các cơ sở hạt nhân” dùng cho sinh viên ngành “Nhà máy điện và các cụm thiết bị hạt nhân” Người dịch: Nguyễn Đức Kim Moscva Nhà xuất bản МЭИ 1999
  2. О.М.Ковалевич ОВНОВЫ ОБЕСПЕЧЕНИЯ БЕЗОПАСНОСТИ АТОМНЫХ СТАНЦИЙ Учебное пособие по курсу «Обеспечение безопасности атомных станций» Для студентов, обучающихся по специальности «Атомные электростанции и установки» Москва Издательство МЭИ 1999 Giáo trình học tập này cung cấp những khái niệm về vấn đề an toàn các nhà máy điện hạt nhân trong khuôn khổ cách tiếp cận hiện đại trên thế giới. Đã thảo luận các phần cơ bản và đã xem xét các giải pháp của vấn đề này áp dụng cho các nhà máy điện hạt nhân của nước Nga. Dùng cho các sinh viên năm cuối chuyên ngành “ Các nhà máy điện và các cụm thiết bị hạt nhân ”   2
  3. LỜI NÓI ĐẦU Môn học “Nguyên lý đảm bảo an toàn các nhà máy điện hạt nhân” đứng trước nhiệm vụ đào tạo các nhà chuyên môn trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân và giúp họ làm quen với một loạt các vấn đề thuộc về an toàn các nhà máy điện hạt nhân trong giai đoạn hiện tại. Ngày nay, các sinh viên cần hiểu rõ bản chất khái niệm “an toàn nhà máy điện hạt nhân”, tầm quan trọng của các nền tảng luật pháp và tiêu chuẩn đối với việc đảm bảo an toàn, quán triệt các cách tiếp cận có tính quyết định và tính khả năng, các tiêu chí và các nguyên tắc để đạt đến mức độ an toàn chấp nhận được, cũng như nắm chắc các nội dung thuộc lĩnh vực an toàn, như văn hóa an toàn, đảm bảo chất lượng và yếu tố con người. Chương trình học tập cung cấp cho sinh viên kiến thức về các quá trình vật lý và thủy nhiệt của Nhà máy điện hạt nhân, các sơ đồ công nghệ và các chế độ hoạt động của thiết bị. Trong khuôn khổ chương trình học tập sẽ làm quen với những cách thức, phương pháp thực hiện các yêu cầu về an toàn. Danh mục các tài liệu tham khảo và các tài liệu định mức được giới thiệu ở cuối sách. Khi trình bày sẽ có trích dẫn. Trong khi đó, các số liệu được trình bày theo cách để người đọc tham gia khóa học không nhất thiết phải thường xuyên trở lại nguồn tài liệu này. Những người lưu tâm đến vấn đề an toàn nhà máy điện hạt nhân hoặc những người có nguyện vọng đi sâu vào vấn đề này cũng có thể sử dụng tài liệu này.   3
  4. PHẦN MỞ ĐẦU Quá trình phát triển của ngành năng lượng hạt nhân và các yếu tố đi đôi với sự phát triển của ngành Khi bắt đầu nghiên cứu các vấn đề an toàn của cơ sở hạt nhân (Nhà máy điện hạt nhân) cần phải giới thiệu cội nguồn lý luận nhận thức của ngành năng lượng hạt nhân, quá trình phát triển của ngành và quy mô sử dụng ở các quốc gia khác nhau, các yếu tố đi kèm và quyết định sự phát triển của ngành. Vào đầu những năm 90, quy mô phát triển ngành năng lượng hạt nhân trên thế giới vào khoảng 320 GW, tổng thời gian vận hành các lò phản ứng năng lượng – 500 năm-lò, tỷ phần năng lượng hạt nhân trong tổng điện năng ở các nước phát triển – 17%. Các số liệu cho từng nước được đưa ra trong bảng B.1. Như đã thấy, năng lượng hạt nhân đóng vai trò hoặc là rõ rệt hoặc là nổi trội trong cân bằng năng lượng của các nước phát triển. Bảng B.1. Sự phát triển năng lượng hạt nhân ở một số nước, tính đến 01.01.98 Công suất Tỷ phần năng lượng hạt nhân Tên nước Số cơ sở lắp đặt, GW trong tổng điện năng, % Anh 12,9 14 27 Đức 21,1 19 36 Tây Ban Nha 7,3 9 29 Hàn Quốc 10,7 13 34 Nga 19,8 29 13 Mỹ 99,6 107 20 Pháp 62,9 59 78 Nhật Bản 43,6 54 35   4
  5. Do việc nhìn nhận có phần phức tạp về năng lượng hạt nhân, giống như về một ngành sản xuất nguy hiểm tiềm ẩn, do quy mô của nó, ngành năng lượng hạt nhân đang gây ra một sự bất an nhất định của xã hội đối với việc sử dụng an toàn nguồn năng lượng này. Lúc đầu ngành năng lượng hạt nhân được ứng dụng cho các mục đích quân sự (Hiroshima, Nagashaki, thử vũ khí hạt nhân), điều đem đến chết chóc cho nhiều người. Điều đó không thể không ảnh hưởng đến thái độ của công chúng đối với việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Những sự cố lớn nhỏ ở các nhà máy điện hạt nhân cũng đóng vai trò nhất định trong mối quan hệ giữa một mặt là sự thiếu tin tưởng và nỗi hoảng sợ với mặt khác là ưu thế và lợi ích khi sử dụng năng lượng hạt nhân. Một số giai đoạn phát triển năng lượng hạt nhân trong những thập kỷ gần đây, có tính đến những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành này được trình bày một cách định tính và ước lệ trên hình B.1. Hình B.1. Định tính các giai đoạn phát triển năng lượng hạt nhân * – giai đoạn sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích quân sự (các vụ nổ hạt nhân, thử vũ khí,…); – Three Mile Island; – Chécnôbưn Giai đoạn I – Hiroshima, Nagashaki, thử vũ khí hạt nhân, xây dựng cơ sở hạ tầng các tổ hợp hạt nhân, các lò phản ứng và cụm thiết bị lò phản ứng công nghiệp cho các mục đích quân sự; Giai đoạn II – khởi động và thử nghiệm các lò phản ứng năng lượng đầu tiên, hình thành các cách tiếp cận ban đầu đối với an toàn nhà máy điện hạt nhân; Giai đoạn III –xây dựng ồ ạt các cơ sở hạt nhân với các lò phản ứng dạng khác nhau; Giai đoạn IV – tiếp tục tăng trưởng công suất năng lượng hạt nhân và sự cố bất ngờ ở Three Mile Island (TMI) ở Mỹ (năm 1979), bắt đầu nhìn lại cách tiếp cận đối với đảm bảo an toàn năng lượng hạt nhân, nhịp độ tăng trưởng năng lượng hạt nhân chậm lại; Giai đoạn V – tiếp tục nghiên cứu các bài học của sự cố TMI, sự cố ở NMĐHN Chécnôbưn (năm 1986), nhìn nhận sâu sắc hơn đối với việc phân tích các sự cố trầm trọng, nâng cao độ an toàn cho các cơ sở đang hoạt động, thực tế chấm dứt tăng trưởng công suất; Giai đoạn VI – giai đoạn không xác định sự phát triển tiếp theo của năng lượng hạt nhân (sau năm 2000).   5
  6. Giáo trình trình bày về các nguyên lý cơ bản để đảm bảo an toàn nhà máy điện hạt nhân Như đã nói, giáo trình này sử dụng phương pháp hình thức luận đến các nguyên lý cơ bản để đảm bảo an toàn các nhà máy điện hạt nhân. Sau đây có một số ý kiến nhận xét: Thứ nhất, không nên thảo luận vấn đề an toàn nhà máy điện hạt nhân theo cách tách rời khỏi quan niệm chung của sự phát triển sử dụng an toàn năng lượng hạt nhân. Vì vậy chúng ta sẽ đề cập đến các vấn đề tổng quát của một đặc trưng có tính pháp lý, tính pháp quy và thuộc luận điểm. Các vấn đề này vốn phổ biến đối với việc sử dụng năng lượng hạt nhân. Thứ hai, an toàn nhà máy điện hạt nhân không phải là vấn đề duy nhất đảm bảo an toàn của các quan điểm đa diện sử dụng năng lượng hạt nhân. Không phủ định tính nghiêm túc của vấn đề đảm bảo an toàn nhà máy điện hạt nhân, do hàm lượng các sản phẩm phóng xạ trong lò phản ứng rất cao và các điều kiện làm việc của các thiết bị trong điều kiện nhiệt độ, áp suất, bức xạ cao, cũng cần thiết phải có khái niệm cả về các vấn đề trong các công đoạn khác của chu trình nhiên liệu hạt nhân. Thứ ba, giáo trình này không có kỳ vọng làm sáng tỏ mọi vấn đề đảm bảo an toàn nhà máy điện hạt nhân. Nếu muốn vậy, cần xuất bản tài liệu chi tiết gồm nhiều tập. Giáo trình này góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản và ở một mức độ nào đó, làm hướng đạo về lĩnh vực hoạt động rộng lớn có liên quan đến vấn đề an toàn hạt nhân.   6
  7. Chương 1. CÁC VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN CHU TRÌNH NHIÊN LIỆU HẠT NHÂN Nước Nga, một trong số không nhiều các cường quốc hạt nhân có tất cả các công đoạn của chu trình nhiên liệu hạt nhân (CTNLHN) – từ khai thác urani và sản xuất năng lượng ở các cơ sở hạt nhân (Nhà máy điện hạt nhân), tái xử lý nhiên liệu đã cháy của các nhà máy điện hạt nhân và tách các vật liệu phân hạch và các nuclit phóng xạ, thích hợp cho việc sử dụng trong công nghiệp, y tế,… đến tái xử lý các phế thải phóng xạ và chôn giữ chúng trong lớp địa chất ở dưới sâu. Điều đó yêu cầu giải quyết vấn đề an toàn CTNLHN như là một nhiệm vụ duy nhất, có hệ thống, với cách tiếp cận thỏa đáng cho mọi công đoạn của chu trình. Cái khó là ở chỗ, các cơ sở sản xuất nằm trong CTNLHN lại rất đa dạng về công nghệ và thuộc các ngành công nghiệp khác nhau (khai khoáng, chế tạo máy, năng lượng hóa học,…), cũng như yêu cầu nghiên cứu triển khai các nguyên lý khoa học khác nhau. Phần lớn các cơ sở sản xuất của CTNLHN có liên quan trực tiếp với việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình và với ngành công nghiệp nguyên tử quốc phòng. Vì vậy mà ảnh hưởng từ phía công đồng xã hội quốc tế và quốc gia đến các cơ sở sản xuất của CTNLHN bị hạn chế, cả ở nền tảng định mức tương xứng, cả ở các nguyên tắc và các cách tiếp cận đảm bảo an toàn khi thiết kế, xây dựng và vận hành chúng. Trong bảng 1.1 đưa ra một số chỉ tiêu đối với các công đoạn khác nhau của CTNLHN, đặc trưng cho ảnh hưởng của chúng đến độ an toàn [1]. Chúng ta bình luận về các chỉ tiêu này. Số cơ sở ở Nga quyết định mức độ nguy hiểm tiềm ẩn đối với đất nước từ các cơ sở sản xuất CTNLHN. Khi có ít cơ sở (hàng đơn vị) thì các khu vực riêng biệt phải chịu nguy hiểm, vì vậy, quan trọng là vị trí địa lý. Khi có nhiều cơ sở (hàng chục) thì ảnh hưởng lan rộng đến nhiều khu vực của đất nước. Chỉ có các nhà máy điện hạt nhân và các phương tiện vận chuyển nhiên liệu hạt nhân đã cháy là có chỉ số hàng chục, còn lại – hàng đơn vị. Số lượng chất phóng xạ ở cơ sở sản xuất trong CTNLHN cụ thể thể hiện mối nguy hiểm tiềm ẩn của cơ sở đó. Dải hoạt hóa phóng xạ được chia thành các bậc. Theo chỉ tiêu đó thì các nhà máy điện hạt nhân và các nhà máy hóa phóng xạ là đứng đầu. Mối nguy hiểm thực sự ở đó là phát thải phóng xạ lớn có thể có khi sự cố nghiêm trọng, cũng như các hợp chất chứa phóng xạ.   7
  8. Bảng 1.1. Các thông số của các cơ sở sản xuất CTNLHN đặc trưng cho mối nguy hiểm tiềm ẩn của chúng Vận Nhà Bãi Tổ hợp Chế tạo Nhà Nhà chuyển máy chôn giữ mỏ- nhiên máy Thông số máy nhiên hóa- thải luyện liệu hạt điện hạt làm giàu liệu hạt phóng phóng kim nhân nhân nhân xạ xạ Số cơ sở ở Nga Hàng Hàng Hàng Hàng Hàng Hàng Hàng đơn vị đơn vị đơn vị chục chục đơn vị đơn vị Hoạt hóa phóng xạ 0,3 1,0 1,0 108 – 104 – 109 – trên nằm trong cơ sở Ci/t.U* Ci/t.U* Ci/t.U* 109 Ci 105 Ci 1010 Ci 108 Ci Các thông số công – P П Р,Т,В,П – Т,В,П – nghệ chịu tải lớn Diện tích nhiễm – – 10 100 10 50 10 bẩn khi sự cố, km2 Tính dễ bị tổn – ДЧ – С, Г,М ДЧ С, Г,М С, Г,М thương do tác động ДЧ ДЧ bên ngoài Tính dễ bị tổn Yếu Yếu Yếu Mạnh Trung Mạnh Mạnh thương do sai lầm bình của nhân viên Bảo vệ thực thể các Không Cần Cần Cần Cần Cần Cần nuclit phóng xạ cần thiết thiết thiết thiết thiết thiết phân hạch * Hoạt độ tính theo các nguồn bức xạ γ Ghi chú: P – áp suất; T – nhiệt độ; П – hỏa hoạn; B – nổ; C, Г – địa chấn và địa chất; ДЧ – hoạt động của con người; M – hiện tượng thời tiết; СЦР – phản ứng dây chuyền tự duy trì.   8
  9. Khả năng phát triển phản ứng dây chuyền tự duy trì (СЦР) đã và vẫn là vấn đề cơ bản đảm bảo an toàn cơ sở sản xuất CTNLHN (an toàn hạt nhân). Ở phần lớn các cơ sở sản xuất CTNLHN, việc xuất hiện phản ứng dây chuyền hạt nhân ở mức độ tiềm ẩn là có thể. Cường độ các thông số công nghệ. Mối nguy hiểm tiềm ẩn do sự có mặt của các sản phẩm phóng xạ ở các cơ sở phụ thuộc rất nhiều vào cường độ các thông số của các quá trình công nghệ bình thường và các hiện tượng hóa lý đồng hành. Thuộc các thông số đó, trước hết là áp suất P và nhiệt độ T, ở đó các rào cản đang hoạt động, các rào cản này lưu giữ các vật liệu phóng xạ trong vùng biên giới đã định. Thiết bị đang hoạt động dưới áp suất tự nó cần được chú ý và có định mức đặc biệt, nhất là khi hoạt động cùng với các vật liệu phóng xạ. Các quá trình công nghệ, diễn ra gần vùng mất điều khiển, kèm theo tỏa nhiệt bổ sung và tăng áp suất ở dạng nổ, sẽ tạo ra nguồn nguy hiểm bổ sung và cần có, một mặt, nghiên cứu bổ sung các quá trình biên (giới hạn) và các điều kiện rơi vào vùng đó, mặt khác – các biện pháp ngăn ngừa các hiện tượng này và làm giảm đến tối thiểu hậu quả của chúng (xem bảng 1.1, ký hiệu B). Nguy hiểm cháy nổ ngụ ý không phải khả năng cháy nói chung ở một cơ sở nào đó, mà là các vụ hỏa hoạn có thể dẫn đến phá hủy các rào cản trên đường lan truyền các sản phẩm phóng xạ (xem bảng 1.1, ký hiệu П). Tính dễ bị tổn thương do tác động bên ngoài. Chúng ta coi hoạt động địa chấn và các điểm đặc biệt của mặt bằng địa chất (C và Г), các hiện tượng khí tượng (M), kể cả bão lốc, mưa tuyết nhiều,… và các tác động do con người gây ra (ЧД), trong đó có máy bay rơi, các vụ nổ ở các cơ sở sản xuất lân cận, phá hoại,…thuộc các tác động từ bên ngoài có khả năng dẫn đến phá hủy các rào cản trên đường phát thải các chất phóng xạ. Tính dễ bị tổn thương do sai lầm của nhân viên. Chúng ta bị hạn chế bởi đánh giá có tính giám định và định tính của chỉ tiêu phức tạp này khi đưa ra các tiêu chí yếu, trung bình, mạnh, và một lần nữa cũng ngụ ý các sai sót trong các hành động của nhân viên, có khả năng dẫn đến sự cố kèm theo hậu quả nặng nề. Diện tích nhiễm bẩn khi sự cố đặc trưng cho quy mô các hậu quả có thể có của các sự cố đối với môi trường xung quanh và quyết định sự cần thiết và quy mô thực hiện các kế hoạch bảo vệ cư dân.   9
  10. Chương 2 CÁC CẤU THÀNH CƠ BẢN CỦA VẤN ĐỀ AN TOÀN NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN 2.1. Các khái niệm chủ quan và khách quan “an toàn” Cái gì được coi là nguy hiểm và cái gì không nguy hiểm – câu hỏi không phải là vô tích sự. Nó không chỉ có sắc thái khoa học kỹ thuật mà còn có sắc thái triết học. Các yếu tố khách quan cho phép xác nhận một cách đơn nghĩa và đầy đủ ưu thế của một thiết bị này so với một thiết bị khác, theo quan điểm an toàn. Ví dụ, đối với một Nhà máy điện hạt nhân, đó là thiết bị có chất lượng, có các hệ thống an toàn được phân nhánh và được nhân đôi, các nhân viên chuyên nghiệp,… Cách tiếp cận chủ quan của một cá nhân khi đánh giá an toàn của một cơ sở này hoặc một cơ sở khác không phải bao giờ cũng liên quan đến cách tiếp cận chính thống đối với đảm bảo an toàn. Những sự kiện như Hiroshima, Chécnôbưn nhất định còn lưu dấu trong nhận thức của con người, trình độ học vấn có ảnh hưởng đến sự tiếp nhận hay không tiếp nhận lời tuyên bố của những nhà bác học về mức độ nguy hiểm thấp do cơ sở này so với các yếu tố khác. Các yếu tố lợi ích xã hội từ việc xây dựng cơ sở này trong khu vực (mà không chú ý đặc biệt đến các vấn đề an toàn) được chọn làm giải pháp thay thế. Cách tiếp cận đang thịnh hành hiện nay tiến tới việc định giá độ an toàn, ở một mức độ nào đó đã hướng vào giải quyết các vấn đề này, nhưng nó vẫn chưa toàn diện. 2.2. Các định nghĩa có thể có về khái niệm “an toàn nhà máy điện hạt nhân” Điều mong muốn tự nhiên của con người là định nghĩa được khái niệm “an toàn”, nói chung và “an toàn nhà máy điện hạt nhân”, nói riêng. Tác giả vẫn giữ cho mình ý kiến rằng, về nguyên tắc không thể có một định nghĩa duy nhất, bao hàm mọi mặt, và không cần thiết làm rõ định nghĩa của ai tốt hơn. Khái niệm đó còn đa diện và đa phương bao nhiêu, sẽ còn được đánh giá bằng việc kết hợp chừng đó những yếu tố khác nhau, mọi cố gắng đều quy về một định nghĩa chung, ví dụ như trong các tài liệu của IAEA [2]: “Cơ sở hạt nhân được coi là an toàn, nếu như cư dân không phải chịu rủi ro quá mức”, hoặc giả ở một thái cực khác, vốn tồn tại trong giới chuyên môn ở Nga: “Cở sở hạt nhân được coi là an toàn, nếu như nó thỏa mãn các nguyên tắc và các định mức hiện hành”. Trong khi đó có thể xuất phát từ các văn bản pháp quy khác nhau và mọi cái đều tùy thuộc vào việc, điều gì được viết ra trong đó và điều đó được lấy ra từ đâu. Về điều này sẽ tiếp tục nói đến, nhưng ở đây chỉ muốn hướng sự quan tâm đến tính cấp thiết của cách tiếp cận có trí tuệ đối với vấn đề.   10
  11. Sự tiến hóa được hình thành có tính lịch sử của các khái niệm như vậy ở Liên Xô, và sau đó là ở Nga như “an toàn hạt nhân”, “an toàn phóng xạ”, “an toàn kỹ thuật”, những cố gắng của các cơ quan quản lý nhà nước gán cho chúng những ranh giới chính thức, những lý giải khác nhau cho các thuật ngữ đó trong tiếng Nga và tiếng Anh – tất cả các việc đó đều dẫn đến một điều, mà ngày nay có thể là minh chứng của các cuộc bàn luận trong cộng đồng các nhà chuyên môn thuộc các thế hệ khác nhau, của các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau, của các trường học khác nhau, do đã hiểu các thuật ngữ đó theo các cách khác nhau. Lúc đầu, thuật ngữ “an toàn hạt nhân” xuất hiện ở nước ta với một ý nghĩa nhất định, sau đó giống như dịch từ tiếng Anh khái niệm nuclear safety. Ở nước ngoài, an toàn được hiểu là mọi điều có liên quan với việc sử dụng năng lượng hạt nhân (nguyên tử). Như vậy, từ rất nhiều các khía cạnh của an toàn (chính trị, quân sự, kinh tế, hỏa hoạn, biển đảo, giao thông,…) chỉ tách riêng an toàn ra khi sử dụng năng lượng của hạt nhân. Ở Nga, khái niệm “an toàn hạt nhân” từ buổi đầu đã có ý nghĩa khác và sau khi chuyển hóa nhiều lần, nó đã mang sức nặng ngữ nghĩa khác. Ở Nga, vào những năm 1950 – 1970, an toàn hạt nhân đã được hiểu là không cho phép phản ứng dây chuyền mất điều khiển (kiểm soát độ tới hạn) ở các cụm thiết bị hạt nhân (lò phản ứng, làm giàu nhiên liệu, chế tạo và lưu giữ nhiên liệu, xử lý nhiên liệu đã qua bức xạ,…) các dạng khác nhau. Ủy ban Giám sát an toàn quốc gia (Госатомнадзор) thuộc Bộ Chế tạo máy Hạng trung (Минсредмаш) trước đây, đã chuyên hoạt động về các vấn đề ngăn ngừa sự cố hạt nhân coi mất an toàn hạt nhân là mất kiểm soát độ tới hạn. Song song với việc đó, Bộ Chế tạo máy Hạng trung của CCCP (Nga) dưới ngọn cờ an toàn phóng xạ đã tiến hành các nghiên cứu tác động của bức xạ lên cấu trúc cơ thể người và môi trường xung quanh, cũng như nghiên cứu triển khai, dưới sự kiểm soát của Ủy ban Giám sát an toàn quốc gia, các phương pháp ngăn ngừa bức xạ quá liều đối với nhân viên và cư dân nhờ các biện pháp vệ sinh phòng bệnh và các phương tiện bảo vệ cá nhân. Thực tế ở phương tây, các hoạt động tương tự thuộc khái niệm “an toàn phóng xạ” (“radiation protection”). Vào đầu những năm 1980, do nâng cao hiểu biết không chỉ về ngăn ngừa phản ứng hạt nhân mất điều khiển, mà còn về mức độ cần thiết làm nguội vùng hoạt, khái niệm “an toàn hạt nhân” đã được mở rộng. Bổ sung vào sự cố hạt nhân còn có có các vấn đề ngăn ngừa hư hại các thanh nhiên liệu do các biến cố và các hiện tượng khác nhau. Có điều ở đây chỉ nói về các nhà máy điện hạt nhân.   11
  12. Sự hiểu biết ở tầm quốc gia, rằng mối nguy hiểm ở ПТЦ CTNLHN xuất phát không chỉ từ phản ứng dây chuyền mất điều khiển mà còn do nhiều yếu tố khác nhau, đáng tiếc là đến muộn hơn nhiều, khi đã xảy ra các sự cố nghiêm trọng và thời hạn hoạt động của CTNLHN đã kết thúc. Kết quả là đã xuất hiện những vấn đề về đảm bảo an toàn cơ sở sản xuất ПТЦ với cách tiếp cận tương tự như đối với Nhà máy điện hạt nhân. Đồng thời với khái niệm an toàn hạt nhân và an toàn phóng xạ, tồn tại khái niệm “an toàn kỹ thuật”. Từ cuối những năm 70 nó bao gồm chế tạo có chất lượng các thiết bị cho Nhà máy điện hạt nhân. Việc kiểm soát nó trong thời gian chế tạo và vận hành, trước hết là kiểm soát các thiết bị hoạt động dưới áp suất, được trao cho Ủy ban Giám sát kỹ thuật quốc gia CCCP. Sau khi thành lập Ủy ban Giám sát an toàn quốc gia Liên Xô (sau này là Ủy ban Giám sát công nghiệp nguyên tử quốc gia, Nga), mọi vấn đề về kiểm soát chất lượng chế tạo và hoạt động của thiết bị đều chuyển sang cơ quan này. Kết quả là, những định nghĩa đó, như nằm ở vạch giới giữa các chức năng của hai cơ quan quản lý nhà nước, đã không còn đóng vai trò gì nữa, mặc dù về ý nghĩa, vấn đề này đã và vẫn còn là một trong số những vấn đề quan trọng nhất trong việc đảm bảo an toàn. Trong bộ luật về sử dụng năng lượng hạt nhân [3] vẫn còn khái niệm “an toàn kỹ thuật” nhưng nó được gắn vào Ủy ban Giám sát công nghiệp nguyên tử quốc gia, mặc dù được áp dụng chủ yếu cho các thiết bị bậc hai vốn không ảnh hưởng đáng kể đến an toàn (cầu trục, thang máy, cấp nhiệt,…). Ngày nay việc kiểm soát an toàn phóng xạ do Ủy ban Giám sát an toàn quốc gia Bộ Y tế thực hiện. Để phân vùng hoạt động, trong các văn bản chính thống đã mở ngoặc sau an toàn phóng xạ là chữ các vấn đề kỹ thuật cho Ủy ban Giám sát an toàn quốc gia và các vấn đề vệ sinh phòng bệnh cho Bộ Y tế 2.3. Những bên tham gia quá trình sử dụng năng lượng hạt nhân Cần phải giới thiệu những “gương mặt” có tác động và bị động chạm đến của quá trình sử dụng năng lượng hạt nhân, cũng như các tổ chức đảm bảo an toàn nhà máy điện hạt nhân: những cơ quan cấp nhà nước điều hành các cơ sở sử dụng năng lượng hạt nhân (bởi vì quá trình sử dụng năng lượng hạt nhân chủ yếu thuộc sở hữu nhà nước); các tổ chức vận hành (nhà nước hoặc tư nhân); các tổ chức khoa học, thiết kế và chế tạo; các nhà cung cấp thiết bị và dịch vụ; ban giám đốc của cơ sở và nhân viên phục vụ; cư dân và các cơ quan chính quyền địa phương; cơ quan điều tiết;   12
  13. hiệp hội quốc tế. Bộ luật về sử dụng năng lượng hạt nhân [3], ở một mức độ nào đó, đã xác định tất cả các bên tham gia. Quyết định của Chính phủ Liên bang Nga quy định những quyền lợi và trách nhiệm của các bên. Danh mục các “gương mặt” đó và vai trò của họ khác nhiều so với tình hình trước đây. Ví dụ, trước đây có ai hỏi cư dân về việc xây dựng các cơ sở hạt nhân? Ngày nay việc trưng cầu dân ý ở Novgorot, Roctov, Koctrom về việc xây dựng Nhà máy điện hạt nhân đã cho thấy vai trò của yếu tố đó. Nhân thể nói thêm rằng, có vấn đề khó nói có tính khoa học và tính đạo lý trong việc tiến hành các cuộc trưng cầu như vậy trong công đồng cư dân. Đa số áp đảo dân chúng không hiểu rõ những vấn đề đặc biệt này. Tiến hành các cuộc trưng cầu dân ý và núp sau lưng các quyết định của họ – cái đó, đằng nào chẳng thế, như đề nghị người không biết chơi cờ đi nước quyết định trong lúc chung cuộc, rồi sau đó đổ hết cho họ là thành công hoặc không thành công. Phải chăng đó chẳng là tấm bình phong của các nhà chính trị và những người chạy chọt giải quyết công việc của mình? Nghĩ rằng, cần có cách ứng xử mới đối với các cuộc trưng cầu dân ý kiểu này và đối với hình thức tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý. 2.4. Các cấu thành cơ bản của vấn đề an toàn nhà máy điện hạt nhân Chúng ta sẽ thống kê các cấu thành cơ bản đảm bảo an toàn nhà máy điện hạt nhân (các cụm thiết bị hạt nhân). Chúng bao gồm: nền tảng pháp lý; các hệ thống: điều khiển việc sử dụng năng lượng hạt nhân; điều tiết (giám sát) việc sử dụng an toàn năng lượng hạt nhân; các định mức và các nguyên tắc, thể chế hóa các khía cạnh khác nhau của việc sử dụng năng lượng hạt nhân và, trước tiên là các vấn đề an toàn; cơ sở khoa học của các giải pháp kỹ thuật được áp dụng và những nghiên cứu khoa học tương xứng; đảm bảo chất lượng và văn hóa an toàn; sự tham gia của các cơ quan chính quyền địa phương; công tác dân vận Việc phân loại như vậy không kỳ vọng vào tính duy nhất và một định nghĩa đa năng, bởi lẽ có thể tiếp cận theo cách khác nhau với việc phân chia và tính ưu tiên của các cấu thành khác nhau. Tuy nhiên, tất cả chúng đều đặc trưng cho tính tổng hòa của các vấn đề đảm bảo an toàn. Loại trừ một cấu thành bất kỳ nào trong số đó là khó có thể có sự thành công của mục đích cuối cùng. Và điều đó lý giải sự khó khăn của các cố gắng đưa ra một định nghĩa toàn diện về an toàn nhà máy điện hạt nhân, điều đã nói ở trên.   13
  14. Chương 3 HỆ THỐNG ĐIỀU KHIỂN VÀ ĐIỀU CHỈNH ĐỘ AN TOÀN SỬ DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ 3.1. Nền tảng pháp lý và vai trò của chính phủ Nền tảng pháp lý trong lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân cần xác định những vấn đề nền móng như, vai trò các bên tham gia quá trình sử dụng năng lượng hạt nhân, tác động của lập pháp đến các cơ sở và các dạng hoạt động của chúng, các vấn đề quyền sở hữu các vật liệu hạt nhân và phóng xạ và các cụm thiết bị hạt nhân chức năng khác nhau, mối quan hệ qua lại giữa các bên liên quan và trách nhiệm (pháp lý, kinh tế,…), việc đảm bảo an toàn và bảo vệ các quyền lợi cư dân, đền bù thiệt hại (trong và ngoài),… Vào năm 1999, ở Nga, Luật sử dụng năng lượng hạt nhân [3] và Luật về an toàn phóng xạ cho cư dân [4] đã có hiệu lực. Luật về phế thải phóng xạ và Luật về bồi thường thiệt hại hạt nhân hiện đang trong quá trình xem xét của Duma Quốc gia. Vai trò của chính phủ trong việc xây dựng nền tảng pháp lý, hệ thống điều hành và điều tiết an toàn sử dụng năng lượng hạt nhân có tính quyết định và đảm bảo: soạn thảo các văn kiện pháp lý cần thiết; xây dựng cơ sở pháp lý cần thiết và hệ thống tương tác giữa các bên; xác lập hệ thống điều hành sử dụng năng lượng hạt nhân đối với các dạng sở hữu khác nhau, sử dụng các vật liệu hạt nhân và phóng xạ, các cụm thiết bị hạt nhân cho các dạng sở hữu khác nhau; xây dựng và hỗ trợ các hoạt động của cơ quan điều tiết; hệ thống đền bù thiệt hại bằng vật chất cho sức khỏe nhân viên, cư dân và môi trường xung quanh khi có các tác động phóng xạ không lường trước và các tác động khác; tham gia và phối hợp hành động của chính quyền địa phương các cấp và cư dân trong quá trình sử dụng năng lượng hạt nhân. 3.2. Các cơ quan điều hành sử dụng năng lượng hạt nhân cấp nhà nước Theo Luật về sử dụng năng lượng hạt nhân [3], nhà nước là chủ sở hữu các vật liệu hạt nhân và các cụm thiết bị hạt nhân. Nhiệm vụ của chính phủ Liên bang Nga – thành lập các cơ quan điều hành cấp nhà nước, toàn quyền lãnh đạo lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân, phê chuẩn chính sách kinh tế, kỹ thuật, khoa học cần thiết. Trong chức trách   14
  15. của các cơ quan điều hành có việc xây dựng hệ thống các chủ thể đủ tính pháp lý, được trao quyền kiểm soát hoạt động của các cơ sở sản xuất CTNLHN. Ở Nga, cơ quan điều hành trong lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân lớn nhất, nhưng không phải duy nhất, là Bộ Nguyên tử (Минатом). Các cơ quan quản lý nhà nước khác, như các bộ Quốc phòng, Kinh tế, Đại học, Y tế, Giao thông,…cũng thuộc các cơ quan điều hành cấp nhà nước. 3.3. Tổ chức vận hành Theo thực tế thế giới [2], tổ chức vận hành (ЭО) – đó là tổ chức chịu toàn bộ trách nhiệm an toàn nhà máy điện hạt nhân (cụm thiết bị hạt nhân) và được cơ quan điều tiết (PO) cho phép đầu tư và vận hành các cụm thiết bị hạt nhân. Cơ quan điều hành cấp nhà nước tương ứng bổ nhiệm tổ chức vận hành PO, cấp giấy chứng nhận (cho phép) hoạt động ở một dạng đã định. Tổ chức vận hành có thể bao gồm một số Nhà máy điện hạt nhân (trong trường hợp này không nên đồng nhất ЭО với ban giám đốc Nhà máy điện hạt nhân), hoặc một Nhà máy điện hạt nhân (chức năng ЭО và Nhà máy điện hạt nhân trùng nhau). Trách nhiệm chủ yếu của ЭО: tiến hành các quá trình công nghệ trong các điều kiện đã định; phân cấp trách nhiệm và quyền hạn trong tổ chức; nghiên cứu triển khai cơ cấu và chương trình điều hành hành chính và kiểm soát việc thực hiện nhiệm vụ; đảm bảo trình độ cần thiết trong việc đào tạo nhân viên; phối hợp hành động với cơ quan điều tiết; thiết lập quan hệ với các nhà máy cung cấp; ủng hộ ban giám đốc Nhà máy điện hạt nhân (khi ЭО gồm một số Nhà máy điện hạt nhân); thiết lập quan hệ với các cơ quan chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội; đảm bảo đền bù thiệt hại cho nhân viên, cư dân và môi trường xung quanh trong khuôn khổ luật định. Ở nước ta, khái niệm “tổ chức vận hành” kèm theo bổn phận và trọng trách của nó xuất hiện lần đầu tiên trong chính lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân. Nó cho phép hiện thực hóa hệ thống, đang hiện hành ở phương tây, thực hiện trọng trách đảm bảo an toàn và đền bù thiệt hại. Các ngành nguy hiểm tiềm ẩn khác của nền kinh tế quốc dân ở Nga vẫn còn chưa có hệ thống và thủ tục ràng buộc pháp lý như vậy và đang dựa vào cách diễn đạt chung của Luật dân sự. 3.4. Tổ chức điều tiết   15
  16. Thuật ngữ “tổ chức điều tiết” được du nhập từ từ vựng thuật ngữ phương tây, xuất hiện ở Nga vào những năm 90, sau khi thay cho khái niệm “giám sát” trong lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân. “Giám sát” được dùng ở Nga và được giữ lại trong các lĩnh vực khác (giám sát an toàn quốc gia, giám sát hàng không, giám sát năng lượng, giám sát cháy nổ,…). Ở nước ngoài PO đi vào các thứ bậc cơ cấu khác nhau của các công sở chính phủ (từ các cơ quan trực tiếp chính phủ hoặc các phòng ban dưới bộ), nối kết các lĩnh vực hoạt động khác nhau, sử dụng các hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau. Ở mọi nơi, mục đích chính xây dựng và tác động của PO vẫn giữ nguyên – kiểm soát việc thực hiện các yêu cầu về an toàn công nghiệp và con người thực thể. Theo quy chế và tình trạng thực tại của mình, PO cần phải được độc lập, không chịu trách nhiệm phát triển công nghiệp nguyên tử ở đất nước, có nguồn dự trữ vật chất đầy đủ để thực hiện nghề nghiệp của mình. Ba nhiệm vụ cơ bản của PO: tổ chức nghiên cứu và đưa ra các quy tắc và định mức để đảm bảo an toàn nhà máy điện hạt nhân (các cụm thiết bị hạt nhân); thẩm định các tài liệu, vốn làm cơ sở cho an toàn nhà máy điện hạt nhân (các cụm thiết bị hạt nhân); thanh tra quá trình thực hiện các yêu cầu về an toàn Quyền hạn của PO: cấp phép (giấy chứng nhận) cho hoạt động liên quan đến bất kỳ giai đoạn nào của vòng đời Nhà máy điện hạt nhân; liên hệ trực tiếp với cơ quan nhà nước cấp trên; hợp tác với các cơ quan nhà nước khác về bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường xung quanh, an toàn xã hội,…; truyền đạt cách giải quyết các vấn đề cho các tổ chức bên ngoài để thực hiện các nhiệm vụ của PO; đòi hỏi và nhận đủ tất cả các tài liệu cần thiết có liên quan đến đảm bảo an toàn; tự do vào lãnh địa của mọi Nhà máy điện hạt nhân; khi cần sẽ ban hành mệnh lệnh có tính bắt buộc đối với tất cả chủ sở hữu giấy phép Nhà máy điện hạt nhân. Trách nhiệm của PO gồm nghiên cứu các nguyên tắc và các tiêu chí về đảm bảo an toàn. Các giai đoạn sau đây của vòng đời Nhà máy điện hạt nhân (cụm thiết bị hạt nhân) thuộc các nguyên tắc và tiêu chí đó: chọn mặt bằng;   16
  17. thiết kế; xây dựng; đưa vào vận hành; vận hành; ngừng vận hành. Đến lượt mình, những giai đoạn nói trên bao quát các vấn đề, như: đảm bảo chất lượng; sẵn sàng cho trường hợp các tình huống bất thường; nâng cao trình độ chuyên môn và đào tạo nhân viên; giám sát, thử nghiệm và bảo dưỡng kỹ thuật Nhà máy điện hạt nhân; hiện đại hóa Nhà máy điện hạt nhân hoặc thay thế các dạng thiết bị nào đó; an toàn hạt nhân và phóng xạ; bảo vệ thực thể các vật liệu hạt nhân và cụm thiết bị hạt nhân; kiểm tra và thống kê các vật liệu hạt nhân; lưu thông và vận chuyển các chất phóng xạ trong địa giới Nhà máy điện hạt nhân; xem xét và đánh giá các thông tin về đảm bảo an toàn do người đăng ký hoặc người sở hữu giấy phép Nhà máy điện hạt nhân đệ trình; cấp và từ chối cấp giấy phép khi có đơn đề nghị; áp dụng chế tài khi sai phạm các yêu cầu an toàn và các điều kiện của giấy phép. Năm 1999, ở Nga, theo quyết định của chính phủ đã xác định bốn PO trong lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân: 1. Giám sát Nguyên tử Quốc gia (Ủy ban Giám sát an toàn quốc gia) – an hạt nhân và phóng xạ (các khía cạnh kỹ thuật). 2. Bộ Y tế – an toàn phóng xạ (các khía cạnh vệ sinh-phòng bệnh). 3. Bộ Nội vụ – an toàn cháy nổ. 4. Giám sát Kỹ thuật Khai khoáng Quốc gia – an toàn kỹ thuật.* _______________ * Theo ghi chú trang 13, lĩnh vực hoạt động của Giám sát Kỹ thuật Khai khoáng Quốc gia ở Nhà máy điện hạt nhân co hẹp lại nhiều và liên quan đến cái gọi là an toàn “công nghiêp” trong phạm vi NMĐHN.   17
  18. Chương 4 ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG VÀ VĂN HÓA AN TOÀN 4.1. Công tác đảm bảo chất lượng Nên nhớ rằng đảm bảo chất lượng, cũng như văn hóa an toàn là một trong số những cấu thành của vấn đề đảm bảo sử dụng an toàn năng lượng hạt nhân. Mặc dù vấn đề đảm bảo chất lượng không mới, năng lượng hạt nhân và ngành công nghiệp liên quan đến nó đã phát triển và cụ thể hóa khái niệm đó khá rộng rãi. Đã xây dựng các tài liệu định mức quốc gia và quốc tế, vốn quy định hoạt động đảm bảo chất lượng, đã hình thành thứ bậc các nhà chuyên môn chỉ tham gia vào các vấn đề chất lượng. Trong các tài liệu của IAEA [3] khái niệm đảm bảo chất lượng được định nghĩa như sau: “Tất cả các hành động đã được định trước và có tính hệ thống, cần thiết để đảm bảo độ tin tưởng thỏa đáng vào việc, tất cả các đầu mối và các dịch vụ đều thỏa mãn các yêu cầu về chất lượng”. Như vậy, mọi hoạt động đảm bảo chất lượng đều hướng đến khẳng định nguyên tắc, điều cần thiết làm, quả thực sẽ được làm. Đầu tiên, ấn định các quy tắc và các định mức, các tài liệu hướng dẫn, các chỉ dẫn phương pháp,…Để thực hiện điều thứ hai yêu cầu việc tổ chức lao động thích hợp, môi trường cần thiết, tâm huyết cá nhân của tất cả những người tham gia, cũng như sự kiểm soát. Các chương trình đảm bảo an toàn tuân theo nguyên tắc sau đây: ghi chép điều cần làm; làm điều đã ghi chép; ghi chép điều đã làm. Trong thực tế phương tây và trong thời gian gần đây ở Nga, ở các cơ sở công nghiệp nguyên tử xuất hiện các nhóm chuyên gia chuyên nghiên cứu và kiểm soát mọi vấn đề liên quan đến đảm bảo chất lượng theo sơ đồ nêu trên. Nhận thấy rằng, các biện pháp đảm bảo chất lượng được phổ biến không chỉ ở các cơ sở công nghiệp, khi mà PO tiến hành kiểm soát việc thực hiện chúng, mà còn chính hoạt động của PO. 4.2. Hệ thống chung đảm bảo chất lượng trong ngành năng lượng hạt nhân   18
  19. Khái niệm “các hệ thống đảm bảo chất lượng” trong ngành năng lượng hạt nhân xuất hiện ở Nga chưa lâu và nhiều người đồng nhất khái niệm này với hệ thống chất lượng đã tồn tại từ lâu, với hệ thống kiểm tra chất lượng,… Bộ luật “Về sử dụng năng lượng hạt nhân” [3] và các tài liệu [5] đặt ra nhu cầu thành lập một tổ chức vận hành “Các chương trình đảm bảo chất lượng cho Nhà máy điện hạt nhân” và các chương trình riêng đảm bảo chất lượng cho các giai đoạn riêng. Hiện đang tồn tại một tài liệu định mức phù hợp “Các yêu cầu đối với chương trình đảm bảo chất lượng cho Nhà máy điện hạt nhân”. Trong tài liệu [6] trình bày những khác biệt trong cách tiếp cân hệ thống chất lượng chung trong nước được Tổ chức Tiêu chẩn Nhà nước đưa vào, và cách tiếp cận hệ thống đảm bảo chất lượng trong ngành năng lượng hạt nhân, hơn nữa, ở cùng một nhà máy của tổ hợp hạt nhân các hệ thống này đồng thời tồn tại. Khác biệt đầu tiên là ở sự hiểu biết và ở cách tiếp cận tương ứng. Chương trình đảm bảo chất lượng hướng đến các hệ thống và hoạt động của nhân viên có liên quan đến an toàn. Nhiệm vụ của hệ thống chất lượng chung là nâng cao chất lượng sản phẩm xuất xưởng (đối với Nhà máy điện hạt nhân thì đó là điện năng) và hiệu quả kinh tế các hoạt động của chính nhà máy . Các hệ thống điều khiển các hoạt động của hệ thống này khác nhau cả theo cấp ngang, cả theo ngành dọc. Các kết quả của các dạng hoạt động này thể hiện ở các chỉ số khác nhau về chất lượng và được điều chỉnh bởi các hệ thống nhà nước khác nhau. Nói cách khác, mỗi hệ thống có “sân chơi” riêng với các quy tắc riêng và cần phân biệt chúng. Nhưng điều đó không loại trừ các điểm trùng hợp của hai hệ thống này, ở những mức độ khác nhau, theo cùng một phương pháp kiểm tra chất lượng, cùng các phương pháp luận được sử dụng,… 4.3. Khái niệm “văn hóa an toàn” Khái niệm “văn hóa an toàn” đã xuất hiện trong ngành năng lượng hạt nhân từ sau thảm họa Chécnôbưn. Khái niệm này, theo định hướng của mình, rất gần với khái niệm “đảm bảo chất lượng”, còn theo một số quan điểm, chúng trùng nhau. Có thể chia các cấu thành của văn hóa an toàn làm ba cấp: cấp quốc gia; cấp lãnh đạo các tổ chức; cấp cá nhân. Tài liệu [7] mô tả các điểm chính của văn hóa an toàn như sau:   19
  20. “Văn hóa an toàn – đó là tập hợp các đặc tính và các đặc điểm hoạt động của các tổ chức và cách ứng xử của các cá nhân, nó xác định, các vấn đề an toàn của các cơ sở hạt nhân vốn là ưu tiên cao nhất, dành được mối quan tâm quyết định đến ý nghĩa của các hoạt động và ứng xử này. Ở đây, ngụ ý tính trách nhiệm và sự tận tụy cá nhân của tất cả mọi người đối với công việc, trong mọi hoạt động có ảnh hưởng đến an toàn của cơ sở nguyên tử, cũng như tư duy hướng đến an toàn để tạo ra tâm thế vững vàng, loại trừ tính chủ quan, tiến tới sự hoàn thiện, phát huy tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp và tự điều chỉnh trong mọi vấn đề an toàn. Trong mọi hoạt động quan trọng, các hành động của con người xuất phát từ các yêu cầu được đặt ra ở mức cao. Mức cao nhất có ảnh hưởng đến an toàn các cơ sở nguyên tử là cấp lập pháp, vốn đảm bảo một nền tảng quốc gia đối với văn hóa an toàn. Cách tiếp cận như vậy được áp dụng để tiếp cận các tổ chức khác nhau. Chính sách được thực thi ở cấp cao có khả năng tạo ra môi trường và các điều kiện công tác cho mọi người làm việc. Chính những người lãnh đạo chịu trách nhiệm về việc làm cho thực tế này phù hợp với các mục đích và chính sách của các tổ chức của họ trong các vấn đề an toàn”. Dưới đây đưa ra các cấp thực hiện văn hóa an toàn và các nhiệm vụ tương ứng. Cấp Nhiệm vụ Cấp 1 tuyên bố về chính sách Chính phủ cấu trúc điều hành nguồn dự trữ tự điều chỉnh Cấp 2 xác định trách nhiệm Các lãnh đạo nhà máy xác định và kiểm tra thực tế việc thực hiện công việc đào tạo chuyên môn và huấn luyện cán bộ khen thưởng và kỷ luật kiểm tra, tổng quan và so sánh tạo môi trường cho mọi người làm việc Cấp 3 tâm thế vững vàng Cá nhân tiếp cận thận trọng và tuân thủ nghiêm ngặt hòa hợp cộng đồng 4.4. Các chỉ số văn hóa an toàn   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2