intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Pháp luật - Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình

Chia sẻ: Conbongungoc09 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:153

68
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của giáo trình là giúp các bạn có thể trình bày được các kiến thức cơ bản về lý luận Nhà nước và Pháp luật, nội dung của những ngành luật thông dụng. Vận dụng được những kiến thức pháp luật vào ứng xử trong cuộc sống, công việc, phù hợp với quy định của pháp luật. Biết viết các văn bản thông thường đúng quy định. Xây dựng được ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tích cực vận động mọi người cùng thực hiện pháp luật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Pháp luật - Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình

  1. GIỚI THIỆU HỌC PHẦN PHÁP LUẬT Đối tượng: Cao đẳng - Số tín chỉ: 02 (2/0) - Phân bố thời gian: - Lên lớp: 30 tiết (2 tiết/tuần) + Giảng lý thuyết: 18 tiết + Thảo luận: 10 tiết + Kiểm tra/ đánh giá: 02 tiết - Tự học: 60 giờ - Trình độ: Sinh viên năm thứ nhất MỤC TIÊU HỌC PHẦN 1. Trình bày được các kiến thức cơ bản về lý luận Nhà nước và Pháp luật, nội dung của những ngành luật thông dụng. 2. Vận dụng được những kiến thức pháp luật vào ứng xử trong cuộc sống, công việc, phù hợp với quy định của pháp luật. Biết viết các văn bản thông thường đúng quy định. 3. Xây dựng được ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tích cực vận động mọi người cùng thực hiện pháp luật. NỘI DUNG HỌC PHẦN STT Tên bài Trang số 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước 3 2 Những vấn đề cơ bản về Pháp luật 25 3 Luật nhà nước 64 4 Luật hành chính 77 5 Luật hình sự 85 6 Luật Lao động 94 7 Luật dân sự 104 8 Luật hôn nhân và gia đình 117 9 Pháp luật Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân 128 10 Pháp luật phòng chống tham nhũng 133 11 Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi 145 người tiêu dùng Việt Nam 12 Thảo luận 13 Kiểm tra TỔNG 153 1
  2. ĐÁNH GIÁ: - Hình thức thi: Trắc nghiệm - Thang điểm: 10 - Cách tính điểm: + Kiểm tra thường xuyên: 01 bài kiểm tra, tính hệ số 1 (Kiểm tra bằng hình thức tự luận. Dự kiến thời gian kiểm tra: tuần thứ 8) + Kiểm tra định kỳ: 01 bài kiểm tra, tính hệ số 2 (Kiểm tra bằng hình thức tự luận. Dự kiến thời gian kiểm tra: tuần thứ 15) + Thi kết thúc học phần: 01 bài thi trắc nghiệm, trọng số 70% Công thức tính:: ÐKTTX  (ÐKTÐK x 2) x 30% + Điểm KTHP x 70% 3 2
  3. BÀI 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC MỤC TIÊU 1. Trình bày được những lí luận cơ bản về nhà nước như : Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng, bộ máy nhà nước và Nhà nước pháp quyền. 2. Vận dụng đươc kiến thức để tìm hiểu về Nhà nước CHXHCN Việt nam NỘI DUNG I. NGUỒN GỐC NHÀ NƯỚC Nhà nước và pháp luật là những hạt nhân chính trị pháp lý của thượng tầng kiến trúc xã hội, có mối quan hệ mật thiết, tồn tại không thiếu nhau. Nhà nước ban hành pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực thi trong đời sống thực tiễn. Pháp luật thể hiện ý thức của nhà nước, là công cụ quản lý xã hội hữu hiệu nhất của nhà nước. Do vậy, muốn hiểu được những vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật, trước hết chúng ta phải làm sáng tỏ các vấn đề lý luận liên quan đến nhà nước. Tiếp cận các vấn đề lý luận liên quan đến nhà nước, điều cần lý giải đầu tiên chính là nguồn gốc nhà nước - các nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Bởi vì, có nhận thức một cách đúng đắn và khoa học về nguồn gốc nhà nước, chúng ta mới có thể nhận thức đúng về bản chất, vai trò và những quy luật vận động, phát triển của nhà nước. Về nguồn gốc nhà nước, không riêng gì khoa học pháp lý, có nhiều ngành khoa học cũng nghiên cứu về nó, chẳng hạn như triết học, chính trị học… Mỗi một nghành khoa học nghiên cứu sự ra đời của nhà nước ở những góc độ khác nhau, trên những lập trường và phương pháp luận khác nhau. Ngay trong khoa học pháp lý cũng có nhiều cách lý giải khác nhau về sự xuất hiện của nhà nước, tuy nhiên tựu chung lại, chúng ta có thể khái quát chúng trong hai trường phái cơ bản: quan điểm phi mác xít và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Với phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật (bao gồm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng), trên cơ sở xem xét toàn bộ tiến trình hiện thực của lịch sử xã hội loài người từ chế độ cộng sản nguyên thủy không có nhà nước cho đến khi nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển cũng như xem xét mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước với những sự vật hiện tượng xung quanh, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khắc phục được những hạn chế của các quan điểm phi mác - xít và lần đầu tiên đã giải thích một cách đúng đắn, khoa học về nguồn gốc nhà nước. Những luận điểm khoa học về sự xuất hiện nhà nước được Ph.Ănghen trình bày trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” ( Mác-Ănghen toàn tập - Tập 21) và được Lê nin phát triển thêm trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”. 3
  4. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên của loài người. Ở đó xã hội chưa có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật, nhưng những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước và pháp luật lại nảy sinh trong chính xã hội này. Do vậy, tìm hiểu về xã hội cộng sản nguyên thủy là cơ sở để giải thích nguyên nhân ra đời của nhà nước. 1. Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc Khi tìm hiểu về chế độ cộng sản nguyên thủy cũng như tìm hiểu bất kỳ một chế độ nào, chúng ta cần xem xét cơ sở kinh tế và tổ chức xã hội với quyền lực của nó. - Cơ sở kinh tế của chế độ cộng sản nguyên thủy. Thời kỳ cộng sản nguyên thủy tồn tại chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp kém, cộng cụ lao động thô sơ, nhận thức và kinh nghiệm của con người vô cùng hạn chế, con người sống phụ thuộc và hoàn toàn bất lực trước những tai họa của thiên nhiên nên năng suất lao động thấp, sản phẩm tạo ra trong xã hội chỉ đủ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của con người, không có của cải dư thừa. Địa vị kinh tế của con người trong xã hội nguyên thủy là ngang nhau, mọi người cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thụ thành quả lao động. Nguyên tắc phân phối sản phẩm lao động đặc trưng cho thời kỳ này là nguyên tắc bình quân. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, không ai có tài sản riêng, không có kẻ giàu người nghèo, chưa có sở hữu tư nhân, xã hội chưa có hình thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp. - Hình thức tổ chức xã hội và quyền lực xã hội của chế độ cộng sản nguyên thủy. Tế bào cơ sở của xã hội cộng sản nguyên thủy là thị tộc. Do bất lực trước thiên nhiên, con người luôn sống trong tình trạng mềm yếu, hoảng sợ, vì vậy họ không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào nhau, sống thành bầy đàn để có đủ sức mạnh chống chọi với thiên nhiên và sự tấn công của thú dữ từ đó hình thành nên thị tộc. Sự xuất hiện của thị tộc là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài và nó là bước tiến trong lịch sử phát triển nhân loại, đặt nền móng cho việc hình thành hình thái kinh tế xã hội cộng sản nguyên thủy. Thị tộc đơn thuần là một cộng đồng lao động và sản xuất, được tổ chức theo quan hệ huyết thống (lúc đầu là chế độ mâu thuẫn, sau chuyển sang chế độ phụ hệ). Công cụ điều chỉnh giữa quan hệ các thành viên trong thị tộc là những quy tắc trong xã hội mà chủ yếu là tập quán và tín điều tôn giáo. Các quy tắc xã hội trên thể hiện ý chung của các thành viên trong thị tộc, được thực hiện trên cơ sở thói quen và niềm tự nhiên, đôi lúc bằng cả những biện pháp cưỡng chế do cộng đồng đặt ra và cùng thực hiện. Trong thị tộc, tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động thuộc sở hữu chung, mọi người đều tự do, bình đẳng, không ai có quyền đặc lợi. Điều chỉnh quan hệ hôn nhân giữa các thành viên trong thị tộc là tập quan quần hầu. Thị tộc đã có sự phân công lao động, nhưng là sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông - đàn bà, giữa người già - người trẻ để thực hiện các loại công việc khác nhau mà chưa mang tính xã hội. 4
  5. Với tổ chức đơn giản và quyền lực xã hội như vậy là biểu hiện rõ nét nhất của chế độ tự quản nguyên thủy hay nền dân chủ nguyên thủy và nó phù hợp với một xã hội mà ở đó chưa có sự xuất hiện của chế độ tư hữu, chưa có sự phân hóa giàu nghèo, sự phân hóa giai cấp. Lúc đó “ không có một hạng người riêng biệt, hạng người chuyên môn để thống trị”. 2. Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước Lịch sử phát triển của xã hội loài người luôn là lịch sử phát triển đi lên và xã hội cộng sản nguyên thủy không nằm ngoài quy luật đó. Gắn liền với sự phát triển của xã hội cộng sản nguyên thủy, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, công cụ lao động không ngừng được cải tiến, nhận thức và kinh nghiệm sản xuất của con người ngày càng được nâng cao, sản phẩm tạo ra trong xã hội ngày càng nhiều… Tất cả những yếu tố đó đã làm thay đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy và đòi hỏi phải có sự phân công lao động xã hội thay thế cho sự phân công lao động tự nhiên. Lịch sử cổ đại trải qua ba lần phân công lao động xã hội, mỗi lần tạo ra những tiền đề mới dẫn đến sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. - Lần phân công lao động xã hội đầu tiên: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Với kinh nghiệm tích lũy và sự cải tiến về công cụ săn bắt dẫn đến sản phẩm săn bắt ngày càng nhiều và đã có dư thừa. Những đàn gia súc là sản phẩm dư thừa của săn bắt làm nảy sinh trong xã hội nhu cầu thuần dưỡng chúng thành vật nuôi trong thị tộc. Và từ nhu cầu về nhân lực lao động này, chiến tranh giữa các thị tộc nổ ra, tù binh bị bắt không bị giết nữa mà trở thành lực lượng sản xuất. Việc con người thuần dưỡng được động vật đã mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của xã hội loài người. Chính những đàn gia súc được thuần dưỡng là nguồn tích lũy tài sản quan trọng và là mầm mống làm xuất hiện chế độ tư hữu. Tù trưởng, thủ lĩnh quân sự, tăng lữ lợi dụng vị trí và uy tín của mình đã chiếm đoạt sản phẩm dư thừa đó của thị tộc biến nó thành tài sản riêng. Trong đời sống bầy đàn của thị tộc, khi đã có tài sản riêng, những vị trí tù trưởng, thủ lĩnh quân sự, tăng lữ đã chọn những người phụ nữ từng có quan hệ hôn nhân với mình để quản lý tài sản đó. Và từ đây, gia đình cá thể cũng bắt đầu hình thành. Mặt khác, hoạt động kinh tế theo hướng chuyên môn không nhất thiết đòi hỏi phải có lao động tập thể của cả cộng đồng nữa. Các gia đình nhỏ đã tách ra khỏi gia đình phụ hệ lớn và trở thành một đơn vị kinh tế độc lập. Chăn nuôi theo đó cũng phát triển mạnh và xuất hiện ngày càng nhiều gia đình chuyên làm nghề chăn nuôi. Dần dần chăn nuôi trở thành một ngành kinh tế độc lập tách khỏi trồng trọt. Hệ quả của lần phân công lao động xã hội này đã làm biến đổi sâu sắc xã hội, cộng sản nguyên thủy: tư hữu hình thành và gia đình cá thể xuất hiện trở thành “một lực lượng đe dọa thị tộc”, hôn nhân một vợ một chồng dần thay thế chế độ quần hôn, chăn nuôi và trồng trọt đều có những bước phát triển mới, năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm tạo ra trong xã hội ngày càng nhiều, xã hội đã phân chia thành người giàu, kẻ nghèo, nộ lệ bắt đầu hình thành nhưng có tính chất lẻ tẻ. 5
  6. - Lần phân công lao động thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Chuyển biến quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội bắt đầu diễn ra khi kim loại tham gia vào thế giới gỗ, đá của người nguyên thủy. Việc con người tìm ra kim loại đã tạo khả năng có thể trồng trọt những diện tích rộng lớn hơn và tạo khả năng nâng cao năng suất lao động. Sắt mang lại cho người thợ thủ công những công cụ lao động có giá trị. Đến lúc này, con người cũng đã ý thức về bản ngã của mình nên từ việc ăn hang ở lỗ, họ đã biết tạo ra những mảnh che thân từ vỏ cây, lá cây rừng. Nghề dệt, nghề chế tạo đồ kim loại, đồ gốm và những nghề thủ công khác hình thành và ngày càng được chuyên môn hóa. Chúng phát triển thành một ngành độc lập tách khỏi nông nghiệp. Hệ quả của lần phân công lao động xã hội lần thứ hai này là: sự tăng trưởng không ngừng của sản phẩm lao động và điều đó đã nâng cao sức lao động của con người; nô lệ ngày càng phát triển và trở thành một lực lượng xã hội phổ biến với số lượng ngày càng tăng, họ không còn là kẻ phụ giúp đơn thuần nữa, “họ đã bị đẩy đi làm ở ngoài đồng ruộng và trong xưởng thợ, thành những đoàn người mười; mười hai mười một”; sự phân hóa giàu nghèo giữa chủ nô và nô lệ cũng ngày càng sâu sắc; nền kinh tế đã phát triển với những nghành nghề khác nhau; sản phẩm tạo ra trong xã hội ngày càng phong phú, đa dạng. - Lần phân công lao động thứ ba: sự xuất hiện của hoạt động thương nghiệp. Sự hình thành và phát triển của các ngành sản xuất khác nhau đã làm xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm giữa các ngành sản xuất này. Xã hội đã hình thành một lớp Người chuyên làm nhiệm vụ trung gian cho quá trình trao đổi đó. Lớp người này không trực tiếp tham gia vào quá trình lao động sản xuất nhưng lại có khả năng chi phối nền sản xuất. Ban đầu sự trao đổi được thực hiện theo phương thức hàng lấy hàng. Nhưng nhận thức của con người ngày càng được nâng cao, con người nhận thấy phương thức trao đổi đó vừa cồng kềnh, vừa khó thực hiện lại nhiều rủi do nên họ đã nghĩ ra một vật làm trung gian cho quá trình trao đổi sản phẩm dẫn đến sự xuất hiện của đồng tiền . Đồng tiền ra đời từ những hệ luỵ của nó như nạn cho vay nặng lãi, nạn đầu cơ tích trữ, cầm cố, tư hữu ruộng đất... đã đẩy nhanh quá trình bần cùng hoá của những người lao động, tăng cường sự tích tụ, tập trung của cải vào tay một thiểu số người trong xã hội. Số nô lệ tăng lên rất đông cùng vớ sự cưỡng bức bóc lột ngày càng nặng nề của chủ nô đối với họ. Hệ quả của lần phân công lao động xã hội này đã lần đầu tiên xuất hiện một giai cấp tuy không tham gia sản xuất nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và bắt người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế; Xã hội phân chia thành hai giai cấp có lợi ích mâu thuẫn và đối kháng là chủ nô - nô lệ; mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên gay gắt và không thể điều hoà. Như vậy, qua ba lần phân công lao động xã hội, hệ quả của nó đã làm đảo lộn đời sống thị tộc. Xã hội thị tộc với tổ chức đơn giản và quyền lực xã hội vốn dĩ chỉ thích hợp với một xã hội không biết đến mâu thuẫn nội tại, chưa có tư hữu, chưa có sự phân hoá 6
  7. giai cấp đã tỏ ra bất lực. Lợi ích của những người lớp người khác nhau không những xa lạ với chế độ thị tộc hoặc có đối lập với chế độ đó về mọi phương diện. Những xung đột về lợi ích giữa người giàu kẻ nghèo, giữa chủ nợ và con nợ diễn ra ngày càng gay gắt không thể điều hoà. Để điều hành và quản lí xã hội mới đòi hỏi có một tổ chức cao hơn đủ sức dập tắt xung đột công khai giữa các giai cấp trong xã hội. Để điều hoà các mối quan hệ xã hội. Tổ chức đó chính là nhà nước. Và nhà nước ra đời chỉ đại diện cho quyền lợi cho giai cấp nắm ưu thế về kinh thế, nhằm thực hiện sự thống trị giai cấp, dập tắt xung đột công khai giữa các giai cấp hoặc giữ cho chúng ở trong vòng trật tự. Như vậy, theo quan điểm Mác-Lê Nin nhà nước không phải là hiện tượng nảy sinh một cách tự nhiên trong xã hội. Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước càng không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trên những điều kiện, tiền đề đảm bảo cho sự ra đời và tồn tại của nó xuất hiện: điều kiện, tiền đề về kinh tế là sự xuất hiện của chế độ tư hữu; điều kiện, tiền đề về xã hội là sự phân hoá giai cấp. Thực tiễn với hình thức ra đời của các nhà nước, một mặt vừa chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, mặt khác vừa làm phong phú thêm cho quan điểm này về nguồn gốc nhà nước. Cụ thể: Sự ra đời của các nhà nước phương Tây cổ đại như nhà nước Aten, Rôma, Hy lạp cổ đại, Giéc-Manh... đều từ nguyên nhân của sự xuất hiện tư hữu và sự phân hóa giai cấp, tuy nhiên, các nhà nước phương đông cổ đại, do vị trí địa lí thường tập trung ở các lưu vực các con sông lớn như sông Mê Kông, sông Hoàng Hà...nên nguyên nhân ra đời của nhà nước chủ yếu xuất phát từ nhu cầu hoặc là liên kết cộng đồng trị thuỷ làm nông nghiệp, hoặc liên kết cộng đồng chống giặc ngoại xâm. Ngày nay, nhà nước còn ra đời từ những nguyên nhân khác do tính chất thời đại như từ sự hợp nhất của một số nước thành viên, hay từ sự tách một bộ phận lãnh thổ của một nhà nước để thành lập thành một nhà nước độc lập được cộng đồng quốc tế công nhận (ví dụ: Liên minh Châu Âu, Đông - ti - mo). II. BẢN CHẤT, ĐẶC TRƯNG, CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC 1. Bản chất nhà nước Bản chất nhà nước là những mặt (những phương diện) cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Nếu thiếu những phương diện cơ bản đó, nhà nước sẽ không tồn tại và phát triển được. Bản chất nhà nước thể hiện tập trung ở hai phương diện: tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước. 1.1. Tính giai cấp của nhà nước Tìm hiểu về tính giai cấp của nhà nước cho phép chúng ta lý giải nhà nước là của giai cấp nào, do giai cấp nào và vì giai cấp nào. 7
  8. Đưa ra những giải thích khác nhau về nguồn gốc nhà nước, các nhà tư tưởng cổ đại và sau này là các nhà tư tưởng tư sản đều không chỉ ra được hoặc cố tình che dấu bản chất nhà nước. Họ đã cố gắng chứng minh rằng nhà nước hoặc là một thiết chế phải có của mọi xã hội, một lực lượng cần thiết cho phép mọi người có thể tồn tại được một trọng tài công minh từ ngoài áp đặt vào xã hội, hoặc là kết quả phát triển tất yếu từ gia đình - tế bào không thể thiếu trong mọi xã hội hoặc là cơ quan điều hoà lợi ích giai cấp khi nhà nước ra đời là sản phẩm của một khế ước xã hội...và với sự giải thích như vậy thì đương nhiên đã loại trừ tính giai cấp của nhà nước, không coi nhà nước là công cụ thống trị của một giai cấp. Một số học giải tư sản về sau (trong các học thuyết: học thuyết nhà nước phúc lợi chung, Thuyết hội tụ, Thuyết hậu công nghiệp...) đã thừa nhận xung đột giai cấp là nguyên nhân xuất hiện và là lí do tồn tại của nhà nước, nhưng họ lại cho rằng nhà nước tư sản hiện nay đã khắc phục được những “thiếu sót” của các nhà nước trước đây và trở thành nhà nước phi giai cấp, phục vụ lợi ích cho mọi thành viên trong xã hội. Mục đích cuối cùng của những tư tưởng này cũng là nhằm xoá mờ bản chất giai cấp của nhà nước để biện hộ cho sự thống trị của giai cấp tư sản. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin xuất phát từ sự giải thích một cách đúng đắn, khoa học về nguồn gốc nhà nước đã đi đến khẳng định: nhà nước xét về bản chất, trước hết là bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, là bộ máy để duy trì sự thống trị giai cấp. “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà”. Nghĩa là, nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất giai cấp của nhà nước thể hiện nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt của giai cấp thống trị, là công cụ hữu hiệu để giai cấp thống trị thực hiện sự thống trị của mình đối với giai cấp khác trong xã hội. Ở xã hội có giai cấp đối kháng, sự thống trị của giai cấp này với giai cấp khác thể hiện trên ba mặt: kinh tế, chính trị, tư tưởng. Để đạt được hiệu quả thống trị, giai cấp thống trị không thể không sử dụng nhà nước như một công cụ sắc bén nhất. Bản thân giai cấp thống trị trước hết là giai cấp nắm trong tay quyền lực kinh tế. Quyền lực kinh tế có ý nghĩa quan trọng vì nó tạo cho giai cấp sở hữu nó khả năng bắt giai cấp khác phải phụ thuộc mình về kinh tế. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể giúp cho giai cấp nắm giữ nó có thể duy trì được các quan hệ bóc lột đối với giai cấp khác. Phải thông qua nhà nước, sử dụng nhà nước như một bộ máy cưỡng chế đặc biệt, giai cấp nắm quyền lực kinh tế mới có thể bảo vệ được lợi ích kinh tế của mình, đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột và duy trì quan hệ bóc lột. Và như vậy, nhờ có nhà nước, giai cấp nắm quyền lực kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Quyền lực chính trị, như Mác- Ănghen đã chỉ rõ: “thực chất là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác”. Chính nhà nước là công cụ cơ bản của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp bởi nó thực hiện chức năng trấn áp các giai cấp đối địch thông qua một bộ máy cưỡng chế đặc 8
  9. biệt, bởi ở đó ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung nhất và hợp pháp hoá thành ý chí nhà nước, có sức mạnh bắt buộc các giai cấp khác phải tuân theo một trật tự do giai cấp thống trị đặt ra, phải phục vụ trước hết cho lợi ích giai cấp thống trị. Nhà nước như Mác-Ănghen viết “là hình thức mà trong đó những cá nhân của giai cấp thống trị thực hiện lợi ích chung của giai cấp mình”. Cũng thông qua nhà nước, giai cấp thống trị xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng của thống trị trong xã hội, bắt buộc các giai cấp khác phải lệ thuộc mình về tư tưởng. Như vậy, nhà nước là một bộ máy đặc biệt của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ địa vị kinh tế, thực hiện quyền lực chính trị và sự tác động về tư tưởng đối với các giai cấp khác trong xã hội. Nó củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy, nhà nước bao giờ cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trên thực tế, lịch sử xã hội loài người đã trải qua bốn kiểu nhà nước: chủ nô, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa. Kiểu nhà nước về bản chất cũng là bộ máy thực hiện sự thống trị giai cấp. Tuy nhiên, mức độ thể hiện tính giai cấp trong bản chất mỗi kiểu nhà nước, hay trong từng giai đoạn phát triển khác nhau của một kiểu nhà nước có sự khác nhau. Nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản có đặc điểm chung đều là công cụ thực hiện sự thống trị của một số ít bóc lột với số đông những người lao động chân chính trong xã hội, là công cụ thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột, do vậy tính giai cấp trong bản chất những kiểu nhà nước này thể hiện rõ nét hơn. Trái lại, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ thực hiện sự thống trị của số đông những công nhân và những người lao động chân chính với thiểu số những kẻ phản cách mạng trong xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn là công cụ để xây dựng một xã hội mới, xã hội vì con người, hướng tới con người. Do vậy, kiểu nhà nước này không còn là nhà nước nguyên nghĩa nữa mà là “nhà nước nửa nhà nước”. chính tính nhân dân, tính con người đậm nét và sự thống nhất cơ bản về lợi ích của giai cấp cầm quyền với giai tầng khác trong xã hội đã làm cho tính giai cấp trong bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa khó nhận biết hơn, mờ nhạt hơn. 1.2 Tính xã hội của nhà nước Bản chất của nhà nước thể hiện không chỉ thông qua tính giai cấp mà còn thể hiện ở vai trò và giá trị xã hội của nhà nước. Thực tiễn đã chứng minh một nhà nước sẽ không tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích, nguyện vọng, ý chí của các giai tầng khác trong xã hội. Vì vậy, bên cạnh tính giai cấp, nhà nước còn là một tổ chức quyền lực công cộng, là phương thức tổ chức đảm bảo lợi ích chung của xã hội, nói cách khác, bản chất nhà nước còn bao gồm tính xã hội của nhà nước. Tính xã hội của nhà nước thể hiện trước hết, nhà nước là tổ chức chính trị rộng lớn có tư cách đại diện chung cho toàn xã hội. Do vậy, nhà nước nào cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề mang tính xã hội mà cá nhân công dân không thể giải quyết được như xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, trường học, bệnh viện, công viên, đường xá, bảo vệ môi trường, phòng chống dịch bệnh, thiên tai…Bên cạnh đó, nhà 9
  10. nước đảm bảo cho các lợi ích chung, các giá trị chung của xã hội như giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống…,đảm bảo xã hội trật tự, ổn định và phát triển, thực hiện các chức năng phù hợp với yêu cầu của xã hội như chức năng quản lí kinh tế, trấn áp tội phạm, bảo vệ trật tự pháp luật, thiết lập các mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với các nhà nước khác …Thông qua đó, nhà nước đương nhiên cũng đảm bảo lợi ích nhất định của các giai tầng lớp khác trong chừng mực lợi ích đó không mâu thuẫn cơ bản với lợi ích của giai cấp thống trị. Tính xã hội là một thuộc tính khách quan, phổ biến của nhà nước, nhưng cũng giống như tính giai cấp, biểu hiện cụ thể và mức độ thực hiện đặc tính này không giống nhau ở các kiểu nhà nước hay ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi kiểu nhà nước. Trong các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản, nhà nước trước hết là bạo lực có tổ chức của giai cáp thống trị đối với các giai cấp khác, nên chỉ trong một số lĩnh vực cụ thể, vai trò xã hội của nhà nước mới thể hiện rõ ràng .Ví dụ, nhà nước chủ nô và phong kiến đóng vai trò quan trọng trong chính sách khuyến nông, chống giặc ngoại xâm; nhiều nhà nước tư sản giải quyết tốt vấn đề phúc lợi và an sinh xã hội …đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, vai trò và giá trị xã hội của nhà nước biểu hiện rất rõ nét. Ở kiểu nhà nước này, lợi ích của giai cấp cầm quyền và các giai tầng khác trong xã hội về cơ bản là thống nhất với nhau, và trong nhiều trường hợp giai cấp thống trị có thể “hy sinh” những lợi ích cụ thể của giai cấp mình vì lợi ích chung của cộng đồng . Như vậy, bản chất nhà nước là một thể thống nhất bao gồm tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước. Đây là hai thuộc tính, là hai mặt của một vấn đề mà giữa chúng có mối liên hệ bổ sung cho nhau trong quá trình điều hành, quản lý của nhà nước. Trước đây, chúng ta thường tuyệt đối hóa tính giai cấp của nhà nước và cho rằng nói đến bản chất của nhà nước là nói đến công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Đây là quan niệm hết sức phiến diện. Sẽ là sai lầm trong nhận thức và hoạt động nếu chỉ nhấn mạnh một chiều đến bản chất giai cấp của nhà nước mà không thấy vai trò và giá trị xã hội của nhà nước. Không thấy được vai trò và giá trị xã hội của nhà nước sẽ không giải thích được chức năng và hoạt động thực tiễn của nhà nước. Đặc biệt, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một nhà nước của dân, do dân và vì dân thì việc chú ý đúng mức tới giá trị xã hội của nhà nước là hết sức cần thiết. Điều đó là cơ sở để thiết lập chế độ trách nhiệm của nhà nước đối với công dân, phục vụ nhân dân. Thực tiễn đã chứng minh, càng phát triển, vai trò xã hội của nhà nước càng được gia tăng, mở rộng (thậm chí trào lưu phương Tây hiện nay cho rằng nên chăng bỏ tính giai cấp trong bản chất nhà nước). Tuy nhiên, dù phát triển đến đâu, tính giai cấp cũng không thể mất đi trong bản chất nhà nước. Tùy từng giai đoạn phát triển lịch sử khác nhau của nhà nước, từng kiểu nhà nước, thậm chí một kiểu nhà nước trong từng giai đoạn phát triển khác nhau thì tương quan giữa tính giai cấp và tính xã hội có sự thay đổi, có mức độ đậm nhạt thể hiện khác nhau . 10
  11. Từ việc xem xét nguồn gốc, bản chất nhà nước, có thể đi đến định nghĩa chung về nhà nước như sau : nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ trước hết địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội. 2. Đặc trưng của nhà nước Nhà nước là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội. Trong xã hội có giai cấp, để bảo vệ và thực hiện những lợi ích của mình, ngoài nhà nước giai cấp thống trị còn thiết lập nhiều tổ chức chính trị, xã hội khác nữa. Tuy nhiên, nhà nước đóng một vai trò đặc biệt, giữ vị trí trung tâm giữa các tổ chức chính chị xã hội trong kiến trúc thượng tầng, có thể tác động một cách mạnh mẽ, toàn diện đến đời sống xã hội, thể hiện và thực hiện lợi ích giai cấp thống trị một cách tập trung nhất. Tìm hiểu về những đặc trưng cơ bản của nhà nước là tìm hiểu những nét riêng của nhà nước, qua đó giúp chúng ta phân biệt một cách rõ nét của nhà nước với các tổ chức xã hội khác và cho phép chúng ta lí giải tại sao nhà nước lại giữ vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị - xã hội. Nhà nước có năm đặc trưng cơ bản: 2.1. Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt không còn hòa nhập với dân cư. Quyền lực công cộng là quyền lực chính trị chung. Chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng. Để thực hiện quyền lực công cộng đặc biệt đòi hỏi nhà nước phải có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lí. Họ tham gia vào các cơ quan nhà nước, hình thành nên bộ máy cưỡng chế để duy trì và bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị. Và như vậy, đã là nhà nước, trước hết phải có tổ chức bộ máy nhà nước và một lớp người chuyên trách trong tổ chức bộ máy đó. Chính điều này đã làm cho quyền lực công cộng đặc biệt mà nhà nước thiết lập “dường như” tách rời và đứng lên trên xã hội, không còn hoà nhập với dân cư nữa. Và quyền lực này mang đậm tính giai cấp bởi trước hết nó phục vụ và đảm bảo quyền lực cho giai cấp thống trị và nó được thực hiện thông qua một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế như quân đội, toà án, cảnh sát, nhà tù…(khác với quyền lực trong cộng đồng thị tộc, do cộng đồng nắm giữ và cùng thực hiện, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng). 2.2. Nhà nước có lãnh thổ riêng, phân chia và quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ Không có một tổ chức nào trong xã hội có giai cấp lãnh đạo và lãnh thổ riêng. Trong công ước Montevidio ngày 26/12/1933 đã chỉ rõ những dấu hiệu để xác định tư cách của nhà nước là một chủ thể của luật quốc tế được cộng đồng thế giới thừa nhận, đó là: phải có một cộng đồng dân cư, có lãnh thổ riêng xác định, có một chính quyền tồn tại và có năng lực xúc tiến quan hệ với các quốc gia, các dân tộc khác. Như vậy có thể khẳng 11
  12. định, lãnh thổ là dấu hiệu đặc trưng riêng có của nhà nước. Mỗi nhà nước có một lãnh thổ riêng và trong phạm vi lãnh thổ đó, nhà nước thực thi quyền lực chính trị của mình. Biên giới quốc gia của mỗi nhà nướclà sự phân định về mặt vật chất lãnh thổ của nhà nước này với lãnh thổ của nhà nước khác và đồng thời là sự phân định về quyền lực chính trị của mỗi nhà nước. Cũng trong phạm vi lãnh thổ của mình, nhà nước phân chia và quản lý dân cư theo các đơn vị hanh chính lãnh thổ (như tỉnh, huyện, xã ở Việt Nam ) mà không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hay giới tính (trong các tổ chức thị tộc tập hợp và quản lý các thành viên của mình theo huyết thống; các tổ chức xã hội chỉ phân cấp quản lý mà không dựa vào đợn vị hành chính lãnh thổ). Việc phân chia này quy định và dẫn đến việc hình thành các cơ quan trong bộ máy nhà nức tương ứng với mỗi đơn vị hành chính lãnh thổ - các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. 2.3. Nhà nước chủ quyền quốc gia. Nhà nước là một tổ chức quyền lực có chủ quyền. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị pháp lý riêng có và không thể tách rời của nhà nước. Đây là yếu tố cơ bản quyết định trung tâm của nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội. Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao trong đối nội và là sự độc lập trong đối ngoại. Quyền tối cao trong đối nội thể hiện: nhà nước có quyền tối cao trong việc lựa chọn phương hướng phát trển đất nước, chế độ chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội; tối cao trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự độc lập trong đối ngọai thể hiện: nhà nước tự mình quyết định chính sách đối ngoại của mình mà không chịu sự can thiệp của quốc gia khác. Cụ thể, nhà nước thiết lập hay không thiết lập quan hệ ngoại giao với một nhà nước khác, nếu thiết lập thì thiết lập ở mức độ nào (đại sứ hay lãnh sự), nhà nước có tham gia vào tổ chức quốc tế nào đó hay không. Như vậy trong phạm vi lãnh thổ của mình, chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tối cao, như trong quan hệ đối ngoại, chủ quyền quốc gia thể hiện ở sự độc lập, bình đẳng giữa các quốc gia với nhau, dù đó là quốc gia lớn hay nhỏ. Trong lĩnh vực đối ngoại, chủ quyền quốc gia không thể được hiểu theo nghĩa của sự tuyệt đối trong hành động bởi trong quan hệ đối ngoại, chủ quyền quốc gia bị ràng buộc bởi yếu tố cơ bản: chủ quyền của quốc gia khác, các cam kết quốc tế và quyền con người. Trong lĩnh vực đối nội, quyền tối cao của nhà nước có hiệu lực trên toàn lãnh thổ, trong mọi tầng lớp dân cư xã hội. 2.4. Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với công dân. Với tư cách đại diện chính thức cho toàn xã hội, nhà nước là tổ chức duy nhất có thẩm quyền ban hành pháp luật - hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho toàn xã hội (các tổ chức xã hội chỉ có quyền ban hành những quy định riêng cho tổ chức của mình và chỉ áp dụng đối với các thành viên tham gia tổ chức đó mà thôi). Pháp luật chuyển tải các quy định mang tính bắt buộc của nhà nước đối với công 12
  13. dân của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách triệt để. Pháp luật chính là công cụ hữu hiệu của nhà nước để nhà nước thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với công dân. 2.5. Nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc. Bất kỳ một nhà nước nào cũng đều quy định và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc. Và chỉ có nhà nước mới có thẩm quyền quy định và thực hiện thu thuế do nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách đại diện chính thức của toàn xã hội (trong xã hội có nhà nước, không một thể chế chính trị nào có quyền quy định về thuế và thu thuế). Nhà nước thu các loại thuế đối với các cá nhân và tổ chức trong phạm vi lãnh thổ của mình để bổ sung vào nguồn ngân sách, làm kinh phí nuôi dưỡng bộ máy nhà nước với những con người chuyên trách làm công tác quản lí, xây dựng và duy trì cơ sở vật chất của bộ máy nhà nước, đảm bảo cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, giải quyết các công việc chung của xã hội, đảm bảo an ninh xã hội...Thiếu thuế, bộ máy nhà nước không thể tồn tại và hoạt động được. Vấn đề quan trọng đặt ra cho một nhà nước là phải xây dựng một chính sách và hệ thống văn pháp luật về thuế công bằng, hợp lí, đơn giản, tiện lợi. Như vậy, với những đặc trưng riêng, đặc biệt là sở hữu chủ quyền quốc gia, công cụ pháp luật và thuế, nhà nước có thể triển khai, thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách trên mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội một cách nhanh, mạnh, hiệu quả trên phạm vi lãnh thổ, với mọi cá nhân và tổ chức. Điều đó góp phần quan trọng trong việc quyết định đến vị trí trung tâm của nhà nước trong hệ thống chính trị xã hội và thể hiện vai trò to lớn của nhà nước trong phạm vi đối ngoại. 3. Chức năng của nhà nước. 3.1. Khái niệm. Bản chất và vai trò của nhà nước thể hiện trực tiếp trong nhiệm vụ và chức năng của nhà nước. Do đó, để hiểu sâu hơn về bản chất, vai trò của nhà nước, không thể không tìm hiểu nhiệm vụ và chức năng nhà nước. - Chức năng nhà nước là những phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. - Nhiệm vụ của nhà nước là những mục tiêu mà nhà nước cần đạt tới, là những vấn đề đặt ra mà nhà nước cần giải quyết. Nhiệm vụ của nhà nước ở mỗi một giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước có sự khác nhau. Tuỳ thuộc vào nội dung hay tính chất, nhiệm vụ nhà nước bao gồm nhiệm vụ chung, cơ bản, lâu dài, chiến lược như nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc…và nhiệm vụ cụ thể, ngắn hạn, trước mắt như nhiệm vụ bình ổn giá cả, đẩy mạnh xuất khầu lương thực, hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước…Nhiệm vụ cụ thể, trước mắt nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược, lâu dài của nhà nước. 3.2. Phân loại chức năng nhà nước 13
  14. Có nhiều cách phân loại chức năng khác nhau. Tuy nhiên, cách phân loại thông dụng nhất là cách phân loại căn cứ vào phạm vi tác động của chức năng và chức năng nhà nước bao gồm: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại… - Chức năng đối nội: là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong phạm vi lãnh thổ của nhà nước. Ví dụ: chức năng đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp tội phạm, bảo vệ chế độ kinh tế… - Chức năng đối ngoại: là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ các nhà nước, các dân tộc khác. Ví dụ: chức năng phòng thủ đất nước, chống chiến tranh xâm lược, thiết lập các mối quan hệ hoà bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với các nhà nước, các dân tộc khác… Giữa chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có mối quan hệ mật thiết với nhau. việc xác định và thực hiện chức năng đối ngoại luôn xuất phát từ tình hình hiện thực chức năng đối nội và phục vụ cho chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả thực hiện chức năng đối ngoại có sự tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội. Và ngược lại, thực hiện tốt các chức năng đối nội sẽ tạo thuận lợi và môi trường tốt cho việc thực hiện chức năng đối ngoại. Chẳng hạn, việc mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội như tiếp thu công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý sản xuất của các nền sản xuất tiên tiến trên thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài… để thúc đẩy nền sản xuất trong nước, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, một xã hội ổn định về chính trị, pháp lý, trật tự sẽ là môi trường tốt để thu hút đầu tư nước ngoài. Từ mối quan hệ đó, chúng ta có thể khẳng định, một nhà nước muốn phát triển vững mạnh thì phải đồng thời hoàn thành tốt cả hai chức năng đối nội và đối ngoại, không thể coi chức năng nào có vai trò quan trọng hơn, cơ bản hơn và cũng không thể xem nhẹ vai trò của chức năng nào. III. NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Bản chất, đặc trưng, chức năng của Nhà Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1.1 Bản chất của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Xác định, bản chất của một nhà nước là vấn đề hết sức quan trọng, quyết định đời sống chính trị của một quốc gia. Việc xác định bản chất nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong các tìm tòi, sáng tạo dựa trên cơ sở của lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lê Nin về bản chất nhà nước. Nhà Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ khi ra đời và trong quá trình phát triển của mình có bản chất luôn gắn bó phục vụ lợi ích của dân tộc, lợi ích của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo Hiến Pháp năm 1946: “ Nước Việt Nam là một nước dân chủ Cộng hoà. Tất cả quyền bình trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Như vậy, Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân ”. 14
  15. Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp 1992 quy định một cách đầy đủ về bản chất Nhà nước ta và Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách đầy đủ và sâu sắc về bản chất Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân, vì nhân dân. Tất cảc quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, tính nhân dân và quyền lực nhân dân là cái cơ bản, xuyên suốt, thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản chất Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện qua các đặc trưng sau đây: 1.2. Đặc trưng của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là một Nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền được hiểu là một hình thức tổ chức xã hội đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập và hoạt động trên cơ sở pháp luật: các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính đáng của nhân dân được pháp luật quy định, đảm bảo thực hiện và không ngừng mở rộng; trong mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, thiết lập được quan hệ trách nhiệm qua lại giữa công dân với Nhà nước, trong đó Nhà nước có trách nhiệm đối với công dân và công dân có nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tính chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta được thể hiện trong các dấu hiệu cơ bản sau: Thứ nhất, mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân (gọi chung là cơ quan tổ chức, cá nhân) đều được đặt trong khuôn khổ pháp luật. Thứ hai, Nhà nước đã và đang xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ ngày càng hoàn thiện nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, các đạo luật có vị trí tối thượng, đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Thứ ba, Nhà nước đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua sự quy định và bảo vệ của pháp luật; sự phát triển của con người là cao nhất, giá trị của con người là quan trọng nhất. Thứ tư, quyền lực Nhà nước là thống nhất, tập trung nhưng các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rõ ràng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực thi các quyền lực đó. - Nhà nước là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết dân tộc Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhiều dân tộc 15
  16. sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước ta ngay từ khi ra đời cũng như trong tất cả các thời kì phát triển của mình đều là Nhà nước của nhiều dân tộc thể hiện nhất quán về mặt tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc Đại đoàn kết dân tộc, đây là nguyên tắc cơ bản để thiết lập chế độ dân chủ, phát huy quyền lực của nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, đồng thời là cơ sở để tạo sức mạnh thống nhất của một nhà nước. Đặc trưng này được thể hiện ở một số điểm sau: Thứ nhất: Nhà nước xây dựng cơ sở vững vàng cho việc thiết lập và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện cho mỗi dân tộc. Thứ hai: Tất cả hệ thống chính trị (Đảng, Đoàn, Mặt trận) đều coi thống nhất dân tộc là mục tiêu chung, là nguyên tắc hoạt động. Thứ ba :Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc sinh sống, chú trọng ưu tiên đối với các dân tộc ít người, các vùng núi, vùng sâu, tạo điều kiện để các dân tộc tương trợ lẫn nhau, cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở hoà hợp, đoàn kết, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Thứ tư :Chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, địa phương, tôn trọng các giá trị văn hoá tinh thần, truyền thống của mỗi dân tộc, xây dựng bản sắc văn hoá riêng của mỗi dân tộc Việt Nam nhưng vẫn đảm bảo sự nhất quán và thống nhất. - Nhà nước thể hiện tính xã hội rộng lớn Nhà nước ta một mặt vẫn thể hiện tính giai cấp của mình, là Nhà nước mà nền tảng chính trị là sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất giai cấp, mang bản chất của giai cấp công nhân, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã qui định tại Điều 4 Đảng Cộng sản Việt Nam, đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuân khổ Hiến pháp và pháp luật. Mặt khác, Nhà nước Việt Nam có tính xã hội rộng lớn, là Nhà nước dân chủ thực sự rộng rãi. Tính xã hội rộng lớn của nhà nước ta thể hiện ở chỗ: + Về kinh tế: Nhà nước thực hiện chủ trương tự do bình đẳng về kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN; các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. + Về chính trị: Nhà nước tạo cơ sở pháp lý đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân được tôn trọng. + Về văn hoá - xã hội: Nhà nước thực hiện chủ trương tự do tư tưởng, quy định các quyền tự do báo chí, hội họp, tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín..., Nhà nước quan tâm giải quyết nhiều vấn đề xã hội như việc làm, người già 16
  17. cô đơn không nơi nương tựa, trẻ mồ côi, phòng chống các tệ nạn xã hội..., phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ...vv. Những đặc trưng cơ bản co tính chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu lên được cụ thể trong chức năng nhiệm vụ của Nhà nước và được pháp luật cụ thể hoá, đồng thời còn được phản ánh trong quá trình tổ chức và hoạt động thực tiễn của Nhà nước ta. Đương nhiên, để đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đòi hỏi thuộc về bản chất của Nhà nước của dân, do dân và vì dân, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần phải tiếp tục đổi mới nhiều mặt, từ cơ cấu tổ chức đến hình thức và phương pháp hoạt động để từng bước xây dựng và phát triển thành Nhà nước pháp quyền, một loại Nhà nước thật sự là của dân, do dân và vì dân. - Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở chức năng đối nội. Nhưng bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn được thể hiện trong chính sách đối ngoại. Chính sách đối ngoại của Nhà nước đã thể hiện khát vọng hoà bình, mong muốn được hợp tác trên tinh thần hoà bình, hữu nghị và cùng có lợi đối với tất cả các quốc gia. Điều 12 Hiến pháp 2013 đã khẳng định: ‘‘Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt nam là thành viên; là ban, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc góp phần vào sưn nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. 1.3. Chức năng của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Thứ nhất: Chức năng đối nội. + Chức năng tổ chức và quản lý nền kinh tế Đây là chức năng cơ bản của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa nói chung. Trong chủ nghĩa xã hội, Nhà nước không những là tổ chức của quyền lực chính trị, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao động mà còn là chủ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội, những công cụ, phương tiện quản lý vĩ mô, tổ chức và quản lý nền kinh tế. Tuy nhiên, do hoàn cảnh, đặc điểm ở mỗi nước không giống nhau cho nên việc thực hiện chức năng này có những điểm khác nhau. Ở Việt Nam, trong thời kỳ nền kinh tế tập trung - chỉ huy, Nhà nước vừa đóng vai trò của người quản lý, người sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thì trong giai đoạn hiện nay, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng tổ chức và quản lý nền kinh tế có những biến đổi theo điều kiện mới. Chức năng tổ chức và quản lý nền kinh tế Nhà nước bao gồm các nội dung sau đây: 17
  18. Xây dựng chương trình, kế hoạch để ổn định và phát triển nền kinh tế thị trường theo dịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua kế hoạch hoá, Nhà nước xác định phương hướng, nhiệm vụ cho từng giai đoạn, từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương; tiến hành phân bổ lực lượng lao động; phân vùng quy hoạch đất đai để phát triển sản xuất; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, tiến hành kế hoạch hoá nền kinh tế phải phù hợp với lợi ích của cộng đồng, tập thể và của Nhà nước. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng đúng các thành phần kinh tế. Xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa làm cho nó thật sự mang bản chất xã hội chủ nghĩa, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xây dựng và đảm bảo các điều kiện chính trị, xã hội, pháp luật, xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo ra sự bình đẳng và khả năng phát triển của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Trong đó làm cho kinh tế Nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã phấn đấu trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng, thực hiện chính sách tài chính tiền tệ phù hợp, chính sách đầu tư hợp lý, xây dựng thị trường hoàn chỉnh thông suốt cả nước và với thị trường quốc tế. Áp dụng các biện pháp khuyến khích, bảo vệ sản xuất trong nước, chống độc quyền, kinh doanh trái phép, làm hàng giả, buôn lậu, tham nhũng. Phương pháp quản lý kinh tế chủ yếu là các biện pháp kinh tế, thông qua đòn bẩy kinh tế. Đồng thời kết hợp với các biện pháp hành chính, giáo dục. Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp; thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước, đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện đầy đủ các quyền; chủ động tổ chức sản xuất kinh doanh; tự chủ về tài chính; tuyển chọn, sắp xếp, trả lương cho lao động; giao dịch với khách hàng trong và ngoài nước; lựa chọn các hình thức liên kết doanh nghiệp...... + Chức năng tổ chức và quản lý văn hoá - xã hội Cùng với thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nền kinh tế, Nhà nước còn thực hiện chức năng tổ chức và quản lý văn hoá - xã hội. Giải quyết các vấn đề xã hội cũng là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản thể hiện bản chất của chế độ mới. Do vậy một phương diện hoạt động của nhà nước ta đó là giải quyết các vấn đề nảy sinh từ xã hội, để xây dựng một xã hội có trình độ phát triển văn hoá, văn minh cao, nhân đạo và vì giá trị cao của con người. Ở Việt Nam, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì chức năng này càng trở nên quan trọng, nhiều vấn đề mới đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết. Nội dung cơ bản của chức năng tổ chức và quản lý - xã hội ở nước ta hiện nay thể hiện: Nhà nước bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam; dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến Việt Nam; tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo của nhân 18
  19. dân. Chăm lo sự nghiệp giáo dục, coi trọng giáo dục và đào tạo, coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc. Nhà nước xác định rõ khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia; xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến; phát triển đồng bộ khoa học. Nhà nước nâng dần mức đầu tư cho các hoạt động khoa học và công nghệ. Nhà nước đầu tư, phát triển và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã hội xây dựng và phát triển nền y học Việt Nam theo hướng dự phòng; kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh; phát triển và kết hợp y dược học cổ truyền với y học hiện đại; kết hợp với y dược học cổ truyền với y dược học hiện đại; kết hợp phát triển y tế Nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân thực hiện chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số. Nghiêm cấm tổ chức và tư nhân chữa bệnh, sản xuất, bán thuốc chữa bệnh trái phép gây tổn hại cho sức khỏe của nhân dân. Nhà nước, xã hội có kế hoạch ngày càng tạo nhiều việc làm cho người lao động, khuyến khích mở rộng sản xuất để thu hút sức lao động, khuyến khích đào tạo nghề... Chăm lo cho người có công với cách mạng, người hưu trí, người già cô đơn, trẻ em lang thang cơ nhỡ..... Nhà nước phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma tuý, mại dâm...bằng cách chủ động thực hiện các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính, pháp luật để: + Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội và bảo vệ quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong điều kiện đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đảm bảo ổn định an ninh, chính trị có vai trò hết sức quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi công cuộc đổi mới. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Nhà nước sử dụng các biện pháp, hình thức để phòng ngừa, ngăn chặn mọi âm mưu gây rối, xâm phạm tới an ninh quốc gia, đến sự ổn định chính trị trong nước, đồng thời loại trừ mọi hình vi chống phá cách mạng của thế lực thù địch. Bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của Nhà nước ta. Nội dung của nó bao hàm nhiều mặt: Hoàn thiện pháp luật quy định về 19
  20. các quyền tự do cơ bản và các quyền tự do khác của công dân; xác lập cơ chế pháp lý bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đảm bảo các điều kiện cho công dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bảo vệ trật tự an toàn xã hội, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng là hoạt quan trọng của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện được đòi hỏi nhà nước phải đổi mới và hoàn thiện pháp luật; đổi mới về tổ chức và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật; đấu tranh ngăn ngừa các loại tội phạm, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật; tuyên truyền giáo dục pháp luật… -Thứ hai: Chức năng đối ngoại + Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là chức năng có tính quy luật. Đối vối tất cả các nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện chức năng này đòi hỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố khả năng quốc phòng của đất nước; phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, thực hiện giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; thực hiện chế độ quân sự, chính sách hậu phương quân đội; dây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang; xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân; đẩy mạnh công tác nghiên cứu phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự việt nam. + Chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại, hoà bình, bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau Đây là chức năng rất quan trọng của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nó xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta và xu hướng phát triển chung của nhân loại. Mục đích của việc thực hiện chức năng này là mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, Nhà Nước Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác với tất cả các nước, hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước, tổ chức quốc tế và khu vực trên tinh thần Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước trên cộng đồng thế giới… 2. Bộ máy Nhà Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.1. Khái niệm, đặc điểm của bộ máy nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân Việt Nam, Nhà nước thay mặt nhân dân quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. để thực hiện nhiện vụ trên nhà nước thiết lập hệ thống các cơ quan của mình. mỗi cơ quan là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước, được tổ chức theo luật định và được trao những chức năng, nhiệm vụ, 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2