intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Tài chính học

Chia sẻ: Trần Tú | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:249

684
lượt xem
86
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với kết cấu nội dung gồm 6 chương, giáo trình "Tài chính học" giới thiệu đến các bạn những nội dung những vấn đề cơ bản về tài chính, ngân sách nhà nước, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm trong nền kinh tế,... Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn đang học chuyên ngành Tài chính ngân hàng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Tài chính học

  1.  LỜI NÓI ĐẦU Giáo trình tài chính học được biên soạn những vấn đề  lý thuyết và  thực tiễn mới về  tài chính của kinh tế  thị  trường trong nước và quốc tế  để  người học và người đọc dễ hình dung những vấn đề tài chính của nền kinh tế  Việt Nam đang trong quá trình phát triển, mở cửa và hội nhập.  Giáo trình tài chính học được biên soạn nhằm cung cấp những vấn đề  lý luận cơ bản về tài chính, hệ thống tài chính, thị trường tài chính và những   nội dung chủ yếu ở các lĩnh vực khác nhau của hoạt động tài chính như: Ngân  sách nhà nước, bảo hiểm, tín dụng, tài chính doanh nghiệp, tài chính quốc tế.   Qua đó giúp cho người học và người đọc có phương pháp tiếp cận dễ  dàng  về vấn đề  lý thuyết và thực tiễn mới về tài chính của nền kinh tế thị trường   ở  Việt Nam đang trong quá trình phát triển, mở  cửa và hội nhập. Đồng thời   giúp cho người học có nền tảng kiến thức cơ sở để tiếp cận học các môn học  thuộc chuyên ngành kinh tế.  Do đó, Tập thể  tác giả  đã tiến hành biên soạn “ Giáo trình tài chính   học”, nhằm phù hợp với mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo của  Trường Cao đẳng Kinh tế  ­ Kế  hoạch Đà Nẵng là phục vụ  chủ  yếu cho   giảng dạy của giáo viên và việc học tập của sinh viên trong trường. Giáo trình tài chính học có 6 chương. Tham gia trực tiếp biên soạn các  chương gồm có: NCS. Ths. Nguyễn Văn Huỳnh biên soạn chương 3 và chương 4 NCS.Ths. Nguyễn Thị Quỳnh Nhi biên soạn chương 1 và chương 2 TS. Nguyễn Thị Thu Đông biên soạn chương 5 và chương 6 Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng sưu tầm   tài liệu, tổng hợp và chắt lọc toàn bộ  nội dung liên quan đến tài chính trong   thời đại mới. Tuy nhiên vấn đề  tài chính là một vấn đề phức tạp, chứa đựng  nhiều nội dung phong phú vì vậy, thiếu sót trong quá trình biên soạn là khó   1
  2. tránh khỏi. Nhóm tác giả  mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn   đọc để tiếp tục hoàn thiện. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn! 2
  3. Chương I  NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH I. Khái quát sự ra đơi và phát triên cua tài chính ̀ ̉ ̉ Tài chính ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế  xã hội, lịch sử  nhất định khi mà ở đó xuất hiện nền sản xuất hàng hóa – tiền tệ và xuất hiện  Nhà nước.  Kinh tế  chính trị Mác­LêNin đã chỉ rõ, tài chính là một phạm trù kinh tế  khách quan, thuộc phạm trù phân phối. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm 4  khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Tài chính thuộc về phạm trù  phân phối, các quan hệ phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị. Như  mọi phạm trù kinh tế khách quan khác, tài chính có lịch sử phát sinh, phát triển   của nó. Như vậy, tài chính cũng đồng thời là một phạm trù lịch sử. Qua việc   tổng kết các quá trình phát sinh, phát triển của tài chính gắn liền với nhiều   hình thái kinh tế­ xã hội khác nhau cho phép xác định tài chính ra đời, tồn tại   và phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, tiền tệ  và hoạt động của  Nhà nước. Nói cách khác, tài chính ra đời và phát triển dựa trên hai tiền đề, đó  là tiền đề nền sản xuất hàng hoá ­ tiền tệ và tiền đề Nhà Nước. 1. Tiền đề sản xuất hàng hoá và tiền tệ Trước khi nền kinh tế  hàng hóa xuất hiện, nền kinh tế  hoạt động theo   mô hình tự  cung tự  cấp, do vậy không có hoạt động trao đổi các sản phẩm   tạo ra, phạm trù tài chính chưa xuất hiện. Khi có sự  phân công lao động xã hội,  chế độ tư hữu xuất hiện, quá trình chuyên môn hóa trong sản xuất đã dẫn đến sự  hình thành nền kinh tế hàng hóa từ đó nẩy sinh hoạt động trao đổi các sản phẩm  tạo ra. Quá trình trao đổi đầu tiên được thực hiện dưới hình thức trực tiếp ­   hàng đổi hàng, tức phân phối bằng hiện vật.  Khi nền kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển, thì hình thức trao đổi trực   tiếp không còn phù hợp. Hoạt động trao đổi hàng hóa đòi hỏi phải có vật đơn  3
  4. nhất, đồng nhất đóng vai trò đo lường giá trị của tất cả hàng hóa. Ban đầu để  trao đổi hàng hóa được dễ  dàng thì con người đã biết chọn thứ gì đó để  làm  vật ngang giá chung. Chính yêu cầu đó đã làm xuất hiện tiền tệ. Ban đầu   người ta sử dụng các loại hàng hóa thông thường như vỏ sò, vỏ  hến, hay bộ  lông thú, sau đó sử dụng các kim loại như đồng, chì, kẽm, bạc và vàng…làm   vật ngang giá, đóng vai trò là tiền tệ. Nói cách khác, trao đổi hàng hóa gắn   liền với sự phát triển của các hình thái giá trị đã dẫn tới sự xuất hiện của tiền   tệ. Tiền tệ ra đời nhanh chóng thúc đẩy các hoạt động giao lưu kinh tế, đồng  thời làm nên cuộc cách mạng trong phân phối từ phân phối hiện vật sang phân  phối giá trị. Trên cơ sở trao đổi hàng hoá gắn liền với sự phát triển của các hình thái  giá trị, tiền tệ  trở  thành phương tiện không thể  thiếu cho sự  tồn tại và phát   triển của nền sản xuất đó. Với chức năng thước đo giá trị  của thế  giới hàng  hoá, tiền tệ  giúp các sản phẩm sản xuất ra được mang đi trao đổi một cách  dễ  dàng, thông qua giá cả. Sản phẩm được trao đổi liên tục nên dẫn đến sự  vận động của tiền tệ  làm phát sinh thu nhập của người sản xuất hàng hoá,   các khoản thu nhập là nguồn hình thành các quỹ tiền tệ của các chủ thể kinh  tế.  Sự  phát triển liên tục của quá trình sản xuất hàng hoá đòi hỏi các quỹ  tiền tệ phải được tạo lập, phân phối, sử dụng và đây chính là cơ sở làm nảy  sinh phạm trù tài chính. Tiền đề  sản xuất hàng hóa và tiền tệ  là tiền đề  đầu  tiên cho sự ra đời của tài chính. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng   hóa và sự đa dạng các hình thái tiền tệ, hoạt động phân phối tài chính diễn ra   thường xuyên hơn, rộng hơn ở các chủ thể trong nền kinh tế, thỏa mãn nhiều   lợi ích, nhu cầu khác nhau của các chủ thể đó đã thúc đẩy tài chính phát triển.  Vì vậy, tiền đề nền sản xuất hàng hóa ­ tiền tệ là tiền đề khách quan cho sự  ra đời và phát triển phạm trù tài chính của mỗi quốc gia. 2. Tiền đề Nhà nước 4
  5. Lịch sử phát triển của xã hội còn cho thấy rằng, khi chế độ tư hữu xuất   hiện, xã hội loài người có sự  phân chia giai cấp và có sự  đấu tranh giai cấp,   chính sản xuất và trao đổi hàng hóa – tiền tệ  là nguyên nhân thúc đẩy mạnh  mẽ sự phân chia giai cấp và từ đó phạm trù Nhà nước xuất hiện. Nhà nước ra  đời đã làm nảy sinh quan hệ kinh tế gắn với việc hình thành, phân phối và sử  dụng các quỹ  tiền tệ  riêng có của mình để  thực hiện các chức năng, nhiệm  vụ  của mình, hình thành lĩnh vực hoạt động tài chính theo nguyên tắc bắt   buộc hay tự  nguyện. Bằng các chính sách, cơ  chế, luật pháp luôn tác động,  thúc đẩy kinh tế  hàng hoá ­ tiền tệ  phát triển, tác động tới sự  vận động độc   lập của các nguồn tài chính và tạo ra môi trường thuận lợi cho sự hình thành  và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội. Ngoài ra, Nhà nước   xuất hiện với tư  cách là người có quyền lực chính trị, Nhà nước nắm lấy   việc in tiền, đúc tiền và lưu thông đồng tiền, đã tạo ra môi trường pháp lý cho  việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động  phân phối dưới hình thức giá trị của tài chính. Như vậy có thể nói, đây là tiền  đề  chủ  quan có tính chất định hướng, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động  phân phối của tài chính gắn với việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của chủ  thể kinh tế ­ xã hội. Sự  ra đời và tồn tại của nền sản xuất hàng hoá ­ tiền tệ  và Nhà nước   được coi là những tiền đề phát sinh và phát triển của tài chính, tài chính cũng   đã phát triển từ  thấp đến cao, từ  đơn giản đến phức tạp. Các quan hệ  tài  chính ngày càng phát triển đa dạng, biểu hiện dưới nhiều hình thức và bắt rễ  sâu rộng trong đời sống kinh tế  xã hội. Nhà nước bằng chính sách, văn bản,  cơ  chế, luật pháp luôn tác động tới sự  vận  động của tiền tệ  và tạo môi  trường thuận lợi cho sự  hình thành và sử  dụng các quỹ  tiền tệ  của các chủ  thể trong xã hội, từ đó thúc đẩy các quan hệ tài chính nẩy sinh, tồn tại và phát  triển.  II. Ban chât cua tài chính ̉ ́ ̉ 5
  6. 1. Biểu hiện bên ngoài của tài chính Đó là sự  vận động độc lập tương đối của các nguồn tài chính gắn liền  với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.  Tài chính luôn gắn liền với sự vận động của các quỹ tiền tệ. Hoạt động   phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận động của vốn tiền tệ  và có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính. Nguồn tài chính là  một yếu tố cơ bản của phạm trù tài chính. Đó là toàn bộ của cải xã hội được  biểu hiện dưới hình thức giá trị. Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các  chủ thể trong xã hội có thể khai thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích  của mình. Nguồn tài chính không chỉ biểu hiện bằng tiền toàn bộ  giá trị  của   cải xã hội mà còn biểu hiện toàn bộ  tài sản quốc gia, tổng sản phẩm quốc   dân  ở  dạng vật chất tiềm năng có khả  năng tiền tệ  hoá. Nguồn tài chính  thường xuyên vận động trong nền kinh tế quốc dân giúp cho các chủ thể thực  hiện quan hệ  tài chính và tạo nên các dòng vật chất và sự  vận động này là  độc lập, mang tính tất yếu khách quan.  Khi vận động, các nguồn tài chính đó được hình thành ở các chủ thể kinh   tế và Nhà nước dưới hình thức các quỹ tiền tệ, các khoản thu nhập. Các quỹ  tiền tệ, khoản thu nhập này lại tiếp tục được sử  dụng cho những mục đích  nhất định của các chủ thể để đáp ứng nhu cầu của mình. Nói cách khác, việc  hình thành và sử  dụng các nguồn tài chính được thực hiện về  cơ  bản thông   qua các quỹ tiền tệ có những mục đích nhất định. Bởi vậy, dấu hiệu đặc biệt quan trọng của phạm trù tài chính, khác biệt   với các phạm trù phân phối khác là ở chỗ, các quan hệ tài chính luôn luôn gắn  liền với sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định.  Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ  tiền tệ  gắn liền với sở hữu và   tính mục  đích  của  các chủ  thể  trong nền kinh tế, như: Nhà  nước,  doanh   nghiệp, hộ gia đình, các ngân hàng và các công ty tài chính, tổ  chức chính trị,  xã hội ... Chính các chủ thể  đó đã tham gia trực tiếp vào quá trình phân phối  6
  7. các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền, thông qua đó  hình thành các quỹ  tiền tệ  gắn liền với chủ  sở  hữu nhất định và được sử  dụng theo mục đích riêng của chủ sở hữu đó. Trong một xã hội bao gồm các  quỹ tiền tệ như sau:  Quỹ tiền tệ của Nhà nước Quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, cung ứng dịch vụ.   Đây là quỹ tiền tệ của khâu trực tiếp sản xuất kinh doanh Quỹ tiền tệ của các tổ chức tài chính trung gian Quỹ tiền tệ của hộ gia đình và cá nhân Quỹ tiền tệ của các tổ chức chính trị, xã hội … Các quỹ tiền tệ có các đặc trưng sau: Một là, Các quỹ tiền tệ luôn luôn biểu hiện quan hệ sở hữu.  Sự vận động của các quỹ tiền tệ có thể diễn ra trong phạm vi một hình   thức sỡ hữu hoặc giữa các hình thức thức sở hữu nhưng khi kết thúc quá trình  tạo lập và sử dụng thì mỗi chủ thể của hình thức sở hữu này hay hình thức sở  hữu khác sẽ nhận được cho mình một phần nguồn lực tài chính, được xem là  kết quả tất yếu của quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.   Còn quá trình phân phối bao giờ  cũng chịu sự  chi phối quyền sở  hữu như là  yếu tố cơ bản của quan hệ sản xuất xã hội. Việc sử  dụng quỹ  tiền tệ  cũng  phụ thuộc quyền sở hữu, phụ thuộc vào quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý  chí chủ quan của người sở hữu trong quá trình phân phối.  Hai là, Các quỹ tiền tệ luôn mang tính mục đích của nguồn tài chính. Đây là đặc điểm chủ yếu của các quỹ tiền tệ, phần lớn các quỹ  tiền tệ  đều có mục đích sử dụng cuối cùng là tích luỹ hay tiêu dùng. Việc hình thành  các quỹ tiền tệ của các chủ  thể trong nền kinh tế là nhằm thõa mãn các nhu  cầu khác nhau của từng chủ thể. Ví dụ: Đối với Nhà nước, tài chính được sử  dụng để  huy động các nguồn thu   cho Chính phủ và chi tiêu để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế­xã hội.  7
  8. Các doanh nghiệp huy động các nguồn thu tài chính để  đầu tư  cho các  hoạt động sản xuất kinh doanh hay dịch vụ để tạo ra thu nhập tăng thêm. Các hộ gia đình cũng cần các khoản thu nhập tài chính để  thõa mãn nhu  cầu tiêu dùng về vật chất và tinh thần. Như  vậy, có thể  thấy tài chính là cách thức phân bổ  nguồn lực của các   chủ thể trong nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu. Ba là,  Các quỹ  tiền tệ  thường xuyên vận động. Biểu hiện của sự  vận  động là các quỹ tiền tệ luôn được tạo lập, bổ sung và sử dụng. Sự vận động  của quỹ tiền tệ chủ yếu gắn với việc thực hiện chức năng phương tiện lưu   thông của đồng tiền, còn việc thực hiện chức năng phương tiện cất trữ  của  đồng tiền chỉ mang tính chất tạm thời.  Sự vận động của các quỹ  tiền tệ  luôn gắn với mục đích cụ  thể  của nó,  các quỹ  lớn được chia thành các quỹ  nhỏ  hơn hoặc các quỹ  nhỏ  hơn có thể  được khuếch trương nhờ  tập trung các quỹ  tiền tệ  nhỏ  tương  ứng. Ví dụ  ngân sách Nhà nước được chia thành các quỹ dùng cho phát triển kinh tế, văn  hoá, giáo dục, y tế  xã hội, quốc phòng an ninh…; các quỹ  tập trung của các   tổng công ty được tạo nên từ các quỹ tương ứng của các xí nghiệp trực thuộc   hạch toán kinh tế độc lập.  Tóm lại, biểu hiện bên ngoài của nguồn tài chính là gắn liền với việc   tạo lập và sử  dụng những quỹ  tiện tệ  nhất định. Sự  tạo lập và sử  dụng các   quỹ tiền tệ nêu trên cho mục đích tích lũy và tiêu dùng phản ánh kết quả của   quá trình phân phối. Quá trình đó phát sinh hàng loạt các quan hệ kinh tế dưới   hình thức giá trị dựa vào sự vận động độc lập tương đối của đồng tiền trong   phân phối các nguồn tài chính. 2 Nội dung kinh tế  ­ xã hội của tài chính Qua việc phân tích hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính ta thấy,  các nguồn tài chính vận động gắn liền với việc tạo lập và sử  dụng các quỹ  tiền tệ  không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên mà luôn chứa đựng những  8
  9. mối quan hệ kinh tế ­ xã hội nhất định. Nguồn tài chính trong xã hội luôn vận   động một cách liên tục trong mối quan hệ đan xen, đa dạng giữa các chủ thể  trong xã hội dẫn tới việc làm thay đổi lợi ích kinh tế của các chủ thể đó. Các  hiện tượng ­ biểu hiện bên ngoài của tài chính là sự thể hiện và phản ánh các  quan hệ  kinh tế  giữa các chủ  thể  trong quá trình phân phối các nguồn tài  chính, quá trình phân phối của cải dưới hình thức giá trị. Các quan hệ kinh tế  như  thế  được gọi là các quan hệ  tài chính. Các quan hệ  tài chính biểu hiện   mặt bản chất bên trong của tài chính ẩn dấu sau các biểu hiện bên ngoài của   tài chính. Như  vậy, quan hệ  tài chính đó là các quan hệ  phân phối dưới hình thức   giá trị  nảy sinh thông qua việc tạo lập và sử  dụng các quỹ  tiền tệ  liên quan   đến nhiều chủ thể khác nhau trong đời sống kinh tế xã hội. Các mối quan hệ  đó bao gồm: ­ Quan hệ  kinh tế  giữa Nhà Nước với các cơ  quan, đơn vị  kinh tế, dân   cư. ­ Quan hệ  kinh tế giữa các tổ  chức tài chính trung gian với các cơ  quan,   tổ chức kinh tế phi tài chính, dân cư. ­ Quan hệ  kinh tế  giữa các cơ  quan, đơn vị  kinh tế, dân cư  với nhau và   các quan hệ kinh tế trong nội bộ của các chủ thể đó. ­ Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau trên thế giới... 3. Bản chất của tài chính Trên cơ sở phân tích biểu hiện bên ngoài và nội dung bên trong của phạm  trù tài chính, bản chất của tài chính được hiểu như sau: Tài chính là hệ thống  các quan hệ kinh tế gắn với việc phân phối sản phẩm xã hội dưới hình thức   giá trị, thông qua đó tạo lập và sử  dụng các quỹ  tiền tệ  nhằm đáp  ứng yêu  cầu tích luỹ  và tiêu dùng của các chủ  thể  trong nền kinh tế. Tài chính phản  ánh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối giá trị  của cải xã  hội trong những không gian, thời gian cụ thể. 9
  10. Từ bản chất có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của các quan hệ  tài chính: ­ Các quan hệ  tài chính luôn luôn gắn liền với sự  vận động độc lập  tương đối của đồng tiền để tiền hành phân phối các nguồn tài chính. ­ Các quan hệ  tài chính luôn luôn gắn liền với quá trình tạo lập và sử  dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội. Để hiểu rõ hơn bản chất của tài chính, cần phân biệt phạm trù tài chính  với một số phạm trù giá trị khác như phạm trù tiền tệ, giá cả, tiền lương. Thứ  nhất: Phân biệt phạm trù tài chính với phạm trù tiền tệ. Nhìn bề  ngoài, tài chính được người ta cảm nhận như những quỹ tiền tệ của các chủ  thể khác nhau trong xã hội. Nhưng giữa phạm trù tài chính và phạm trù tiền tệ  có sự khác biệt cơ bản. Về bản chất tiền tệ là vật ngang giá chung trong trao   đổi hàng hoá. Tài chính là sự  vận động độc lập tương đối của tiền tệ  trong   lĩnh vực phân phối nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Thứ hai: Phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù giá cả.  Giá cả cũng là một phạm trù giá trị, ở giá cả việc chuyển dịch giá trị không   xảy ra vì giá cả xuất hiện trong quan hệ trao đổi, mua bán theo nguyên tắc ngang  giá. Giá trị mà người mua và người bán có được đều bảo tồn chỉ thay đổi hình   thái biểu hiện từ tiền biến thành hàng và ngược lại. Điều này có ý nghĩa trong  quan hệ  trao đổi mua bán ngang giá của phạm trù giá cả  không diễn ra hoạt  động phân phối dưới hình thức giá trị.  Trong thực tế  nếu việc trao đổi mua bán diễn ra không theo nguyên tắc   ngang giá thì cũng diễn ra sự chuyển dịch giá trị từ chủ thể này sang chủ thể  khác, biểu hiện  ở  phần chênh lệch giá này chuyển dịch từ  người bán sang  người mua, người mua được hưởng lợi và ngược lại.  Trong phân phối dưới hình thức giá trị  của phạm trù giá cả  đều được  thực hiện kèm theo quá trình trao đổi mua bán với sự  vận động ngược chiều   của các hình thái giá trị khác đó là giá trị và giá trị  sử  dụng, không giống như  10
  11. sự vận động của tài chính không kèm theo sự vận động ngược chiều nào của   giá trị. Thứ ba: Phân biệt phạm trù tài chính với phạm trù tiền lương.  Tiền  lương   cũng là  phạm trù  phân  phối  dưới   hình thức   giá  trị.  Tiền  lương phân phối theo nguyên tắc phân phối theo lao động được tính tương  đương với giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động.  Tiền lương được thực hiện thông qua phân phối của tài chính để  hình  thành nên quỹ  tiền lương của các tổ  chức kinh tế    xã hội, các cơ  quan nhà  nước trước khi trả cho người lao động. Tiền lương được biểu hiện bằng một  lượng giá trị  được chuyển dịch từ  quỹ  tiền lương của các chủ  thể  chi trả  khác nhau đến các quỹ tiền tệ cho người được hưởng. Đây chính là biểu hiện  của hoạt động phân phối tài chính. Giữa tiền lương và tài chính có mối quan  hệ  gắn bó chặt chẽ, tài chính là phương tiện để  thực hiện nguyên tắc phân   phối theo lao động của tiền lương trong lĩnh vực bù đắp sức lao động. Phạm   vi tác động của tiền lương hẹp hơn so với tài chính.  III. Chưc năng cua tài chính ́ ̉ 1. Chức năng phân phối của tài chính 1.1. Khái niệm Phân phối của tài chính đó là sự phân chia tổng sản phẩm quốc dân theo   những tỷ  lệ  và xu hướng nhất định cho tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ  tập trung vốn để đầu tư phát triển kinh tế và thoả mãn các nhu cầu chung của  Nhà nước, xã hội và các cá nhân. Hoạt động của tài chính là hoạt động phân phối ­ phân phối các nguồn   giá trị. Do vậy, chức năng phân phối là chức năng vốn có của tài chính, thể  hiện bản chất của tài chính trong đời sống kinh tế, xã hội khi phân phối giá trị  của cải xã hội. Nhờ vào chức năng này mà các nguồn lực đại diện cho những   bộ  phận của cải xã hội được đưa vào những mục đích sử  dụng khác nhau,  đảm bảo những nhu cầu khác nhau và những lợi ích khác nhau. 11
  12. Người ta dễ dàng nhận diện thấy tác động hiện thực của chức năng phân   phối tài chính thông qua các hoạt động thu, chi tài chính, qua đó tài chính thực   hiện huy động một phần thu nhập của các tổ  chức, các hộ  gia đình, các cá  nhân để  hình thành các quỹ  tiền tệ  nhằm thực hiện những mục tiêu đã định  của các chủ thể. 1.2. Đối tượng của phân phối  Đối tượng phân phối của tài chính là toàn bộ  của cải xã hội được biểu  hiện dưới hình thức giá trị, là tổng thể  các nguồn tài chính có trong xã hội,  bao gồm: * Nếu xét về thời gian, nguồn tài chính bao gồm: + Bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra trong kỳ. Đó là tổng sản  phẩm trong nước (GDP). + Bộ  phận của cải xã hội còn lại từ  thời kỳ  trước, đó là phần tích luỹ  quá khứ của cải xã hội và dân cư. * Nếu xét về phạm vi, nguồn tài chính bao gồm: + Nguồn tài chính tạo ra từ trong nước + Nguồn tài chính di chuyển từ nước ngoài vào  * Nếu xét về hình thức biểu hiện:  + Nguồn tài chính hữu hình là nguồn tài chính tồn tại dưới hình thái giá   trị  hoặc hiện vật. Dưới hình thái giá trị, nguồn tài chính có thể  tồn tại dưới   hình thức tiền, vàng và ngoại tệ. Dưới hình thái hiện vật, nguồn tài chính có   thể tồn tại dưới dạng bất động sản, tài nguyên, đất đai. + Nguồn tài chính vô hình là nguồn tài chính không có hình thái vật chất  cụ  thể như: phần mềm, dữ  liệu, thông tin, hình ảnh, phát minh, sáng chế, bí   quyết kỹ  thuật, thương hiệu...Những sản phẩm kể  trên, bản thân chúng có  giá trị  và trong điều kiện kinh tế  thị  trường chúng có thể  chuyển thành tiền   thông qua mua bán. Do đó, chúng được coi là một bộ phận cấu thành của tổng  thể các nguồn tài chính trong xã hội. 12
  13. 1.3. Chủ thể phân phối:  Chủ thể phân phối của tài chính là những người có thể tham gia trực tiếp   vào quá trình phân phối các nguồn lực tài chính trong xã hội. Các chủ thể phân phối phải thoả mãn một trong các tiêu thức sau: + Có quyền sở  hữu các nguồn tài chính: Chủ  thể   ở  đây là những người   chủ “đích thực” của vốn tiền tệ. Vì là người có quyền sở hữu nguồn tài chính  nên họ  có quyền chủ  động trong quá trình sử  dụng nguồn tài chính để  đáp  ứng yêu cầu hoạt động của mình. + Có quyền sử  dụng nguồn tài chính: Chủ  thể   ở  đây là những người  không có quyền sở hữu vốn tiền tệ nhưng họ đươc trao quyền sử  dụng vốn   tiền tệ. Ví dụ  họ  là người đi vay vốn tín dụng để  hoạt động. Quyền sở  hữu  nguồn tài  chính  thuộc về  người  cho vay nhưng  quyền sử  dụng thuộc về  người đi vay nên người đi vay có thể  trực tiếp tham gia vào quá trình phân   phối. + Có quyền lực chính trị: Đây là tiêu thức biểu hiện chủ thể phân phối là  Nhà nước. Vì có quyền lực chính trị, Nhà nước có thể huy động, phân phối và  sử  dụng một phần các nguồn lực tài chính từ các chủ  thể khác nhau trong xã   hội để đáp ứng yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. + Có sự ràng buộc của các quan hệ xã hội: Chính sự ràng buộc các quan   hệ  xã hội làm nảy sinh nhu cầu huy động, phân phối và sử  dụng các nguồn  lực tài chính của các chủ thể phân phối. Sự ràng buộc của các quan hệ xã hội  là tiền đề  cho sự  vận động của các nguồn tài chính từ  chủ  thể  này sang chủ  thể khác trong quá trình phân phối của tài chính. Chủ thể muốn đề cập ở đây  là các tổ  chức chính trị, các tổ  chức xã hội...khi họ  nhận được sự  đóng góp,  ủng hộ  của các cá nhân, tổ  chức trong xã hội thì họ  sẽ  trực tiếp phân phối   nguồn tài chính đó. Như  vậy, chủ  thể phân phối có thể  là Nhà nước, các doanh nghiệp, các  tổ chức tài chính trung gian (ngân hàng, Bảo hiểm, tổ chức tín dụng khác…),  các tổ chức xã hội, các hộ gia đình và cá nhân dân cư. 13
  14. Khi thực hiện chức năng phân phối tài chính các chủ  thể  phải đảm bảo   các yêu cầu sau: + Phân phối tài chính phải xác định quy mô tỷ  trọng của đầu tư  trong  tổng sản phẩm quốc dân phù hợp với khả  năng và sự  tăng trưởng kinh tế   ở  mỗi thời kỳ nhất định. + Phân phối tài chính phải giải quyết thỏa đáng các quan hệ  về  lợi ích  kinh tế của những chủ thể tham gia phân phối.  + Phân phối tài chính giải quyết thoả đáng các mối quan hệ cân đối trong  nền kinh tế quốc dân cũng nhưng trong từng khâu tài chính riêng biệt. + Phân phối tài chính đảm bảo giải quyết thoả  đáng mối quan hệ  giữa   tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. + Phân phối tài chính phải đảm bảo tạo lập và chu chuyển nguồn vốn  đảm bảo quá trình tái sản xuất xã hội bình thường. 1.4  Kết quả phân phối Phân phối tài chính luôn làm chuyển dịch giá trị  từ  quỹ  tiền tệ  này sang  quỹ tiền tệ khác. Kết quả phân phối của tài chính là sự hình thành và sử dụng  các quỹ  tiền tệ  nhất định cho những mục đích khác nhau của các chủ  thể  trong xã hội.  1.5.  Đặc điểm phân phối  ­ Phân phối tài chính luôn gắn liền với việc hình thành và sử  dụng các  quỹ tiền tệ nhất định. Phân phối tài chính được biểu hiện bằng sự vận động  của các nguồn tài chính từ  quỹ  tiền tệ  này sang quỹ  tiền tệ  khác. Điều này  liên quan đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ khác nhau: Có thể có   nhiều quỹ  tiền tệ  được tạo lập gắn liền với việc sử  dụng một quỹ  tiền tệ  (Ví dụ  như  doanh nghiệp chi trả  lương cho người lao động) hay ngược lại  việc tạo lập một quỹ  tiền tệ  liên quan đến việc sử  dụng nhiều quỹ  tiền tệ  khác (ví dụ, nhiều doanh nghiệp cùng nộp thuế cho Nhà nước). ­ Phân phối tài chính chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, không kèm theo sự  thay đổi hình thái giá trị. Tài chính ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với  nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ, phân phối tài chính là hoạt động phân phối  14
  15. các nguồn lực tài chính trong xã hội, do đó chỉ thực hiện bằng giá trị thông qua  chức năng phương  tiện thanh toán của tiền tệ. Khác với phân phối trong   phạm trù giá cả, phân phối tài chính làm cho các nguồn lực tài chính vận động  một chiều từ  quỹ  tiền tệ  được sử  dụng sang quỹ  tiền tệ  được tạo lập mà  không kèm theo sự thay đổi các hình thái giá trị hay sự vận động ngược chiều   của các hình thái giá trị. + Phân phối tài chính diễn ra trong một chu trình khép kín bao gồm quá   trình phân phối lần đầu và phân phối lại. Phân phối lần đầu là quá trình phân phối chỉ diễn ra ở lĩnh vực sản xuất,  cho những người có tham gia vào quá trình sản xuất. Chủ thể phân phối lần  đầu bao gồm doanh nghiệp (người sản xuất), người lao động, Nhà nước (đại  diện cho tài sản của Nhà nước mà doanh nghiệp đang sử dụng), các trung gian  tài chính như  Ngân hàng, bảo hiểm, Tổ  chức tín dụng (với tư  cách là người  sở hữu vốn cho doanh nghiệp vay). Thông qua quá trình phân phối lần đầu đã   hình thành nên phần thu nhập cơ  bản của chủ  thể  phân phối. Vì phân phối  lần đầu diễn ra ở lĩnh vực sản xuất nên toàn bộ giá trị sản phẩm xã hội trong   khu vực sản xuất được phân chia thành các quỹ tiền tệ như sau: + Một phần bù đắp những chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản   xuất hay thực hiện các dịch vụ. Phần này bù đắp chi phí khấu hao tài sản cố  định và chi phí mua nguyên, nhiên, vật liệu đã bỏ ra trong quá trình sản xuất,  tiêu thụ hàng hoá và kinh doanh dịch vụ. + Một phần hình thành quỹ tiền lương để trả lương cho người lao động. + Một phần hình thành các quỹ bảo hiểm . + Một phần hình thành thu nhập của những người sở hữu các nguồn lực  tài chính để  phục vụ  sản xuất kinh doanh như  nộp thuế  cho ngân sách nhà  nước, trả nợ tiền vay ngân hàng và các tổ  chức khác, phân chia thu nhập cho   các thành viên góp vốn... * Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ  bản đã hình thành qua phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để  đáp  ứng  15
  16. nhiều nhu cầu khác nhau, thoả mãn nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Khi   tiến hành phân phối lại,  đã làm chuyển quyền sở  hữu cũng như  thay đổi  quyền sử dụng nguồn tài chính của các chủ thể.  So với phân phối lần đầu, phân phối lại diễn ra trên phạm vi rộng hơn, ở  tất cả các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, hơn nữa phân phối lại diễn ra   thường xuyên liên tục  ở  tất cả  các chủ  thể  phân phối. Chính phân phối lại   mới là biểu hiện chủ yếu của chức năng phân phối tài chính. Cần chú ý rằng, việc phân biệt giữa phân phối lần đầu và phân phối lại  chỉ  mang tính chất tương đối. Nếu xét trên tổng thể  thì quá trình phân phối   diễn ra liên tục, đan xen vào nhau, khó có thể tách rời hai quá trình phân phối  lần đầu và phân phối lại. 2. Chức năng giám đốc tài chính  Chức năng giám đốc cũng là chức năng vốn có của tài chính, đó là khả  năng khách quan để  sử  dụng tài chính làm công cụ  kiểm tra, giám đốc bằng   đồng tiền với việc sử dụng các chức năng phương tiện thanh toán và phương   tiện cất trữ  tiền tệ. Chức năng giám đốc có quan hệ  biện chứng với chức   năng phân phối tài chính. 2.1. Khái niệm Giám đốc tài chính là quá trình kiểm tra, giám sát, đôn đốc các hoạt động  tài chính nhằm phát hiện các ưu điểm để phát huy và những tồn tại cần khắc   phục trong toàn bộ quá trình phân phối nguồn tài chính. 2.2. Đối tượng giám đốc  Là toàn bộ  quá trình tạo lập và sử  dụng các quỹ  tiền tệ, quá trình vận  động của các nguồn tài chính. Chính sự  vận động của các nguồn tài chính  trong quá trình tạo lập và sử  dụng các quỹ  tiền tệ  thông qua việc thực hiện  chức năng phân phối làm nảy sinh nhu cầu và khả  năng kiểm tra, giám sát   toàn bộ hoạt động này. 2.3. Chủ thể giám đốc 16
  17. Chủ thể giám đốc cũng là chủ thể của phân phối. Trong quá trình tạo lập  và sử dụng các quỹ tiền tệ của mình các chủ sở hữu thực hiện việc kiểm tra,   giám sát bằng đồng tiền một cách thường xuyên, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc  diễn ra hoạt động phân phối của tài chính. Chủ thể giám đốc tài chính có thể  là Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ  chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân,  hộ gia đình. 2.4. Kết quả của giám đốc tài chính Trước hết, giám đốc tài chính đảm bảo tính hợp lý của quá trình phân  phối tài chính, đảm bảo sự  đúng đắn của việc tạo lập và tính hiệu quả  của   việc sử  dụng các quỹ  tiền tệ. Hoạt động phân phối tài chính gắn liền với   hoạt động của con người nên nó mang tính chủ  quan trong một chừng mực  nhất định. Nhờ  chức năng giám đốc, quá trình phân phối được thực hiện phù  hợp với các quy luật kinh tế khách quan do đó vừa đảm bảo tính hợp lý của  quá trình phân phối, vừa nâng cao hiệu quả  sử  dụng chúng theo những mục  đích đã định. Thông qua giám đốc tài chính, phải phát hiện được những mặt   được và chưa được của quá trình phân phối để  điều chỉnh kịp thời việc tạo   lập và sử dụng các quỹ tiền tệ theo mục đích đã định. Ngoài ra, giám đốc tài chính còn góp phần thúc đẩy việc chấp hành các  chính sách, chế độ, pháp luật của Nhà nước. 2.5. Đặc điểm của chức năng giám đốc ­ Chức năng giám đốc của tài chính không đồng nhất với mọi khả  năng  giám đốc bằng đồng tiền nói chung trong xã hội. Ví dụ, giá cả  là một phạm  trù giá trị  có khả  năng giám đốc bằng đồng tiền nhưng hoàn toàn khác biệt  với phạm trù tài chính. Trong quan hệ mua bán, trao đổi của giá cả trước hết   nhờ  vào chức năng thước đo giá trị  của tiền tệ  để  đo lường giá trị  của hàng  hoá nhằm đảm bảo nguyên tắc ngang giá, ngoài ra còn dựa vào nhiều chức   năng khác của tiền tệ.  Ở phạm trù tài chính, chức năng giám đốc được thực  hiện khi tài chính được sử dụng như một công cụ phân phối, gắn với việc tạo  17
  18. lập hay sử  dụng các quỹ  tiền tệ, do đó chủ  yếu dựa vào chức năng phương   tiện thanh toán và phương tiện cất trữ của tiền tệ. ­ Giám đốc tài chính có tính thường xuyên, liên tục, toàn diện, rộng rãi và   kịp thời. Tính thường xuyên, liên tục được thể  hiện rất rõ nét vì hoạt động  phân phối của tài chính cũng có tính thường xuyên, liên tục. Giám đốc tài  chính mang tính chất rộng rãi vì hoạt động phân phối của tài chính diễn ra  trên phạm vi rất rộng. Tính toàn diện và kịp thời biểu hiện ở chỗ, chức năng  giám đốc được thực hiện trước, trong và sau quá trình phân phối của tài chính. Hai chức năng của tài chính có mối quan hệ  chặt chẽ, hữu cơ  với nhau,  làm tiền đề  và bổ  sung cho nhau. Chức năng phân phối là tiền đề  của chức   năng giám đốc. Hoạt động phân phối tạo ra khả  năng và nhu cầu giám sát  bằng đồng tiền đối với toàn bộ quá trình phân phối. Chức năng giám đốc giúp   cho việc thực hiện chức năng phân phối phù hợp với các qui luật kinh tế  khách quan, nâng cao tính hiệu quả của phân phối. Chức năng giám đốc được   thực hiện trước, trong và sau quá trình phân phối. IV. Hê thông tài chính ̣ ́ 1.Khái niệm và sơ đồ hệ thống tài chính 1.1 Khái niệm hệ thống tài chính Trong nền kinh tế, các quan hệ  tài chính xuất hiện rất đa dạng và phức  tạp, tuy nhiên chúng không hề tồn tại và hoạt động tách biệt nhau, giữa chúng  luôn có mối quan hệ  tương tác qua lại lẫn nhau theo những nguyên tắc, qui  luật nhất định, hình thành nên một hệ thống thống nhất. Hệ  thống tài chính có thể xem xét trên 2 khía cạnh: chủ thể tài chính và  luồng luân chuyển vốn. Tuy nhiên trong giáo trình này, chỉ  đề  cập đến quan  niệm hệ thống tài chính trên góc độ chủ thể tài chính và ở đó có các quỹ tiền  tệ, tạo thành “tụ điểm” từ các nguồn tài chính, thì hệ thống tài chính khái quát  như sau: 18
  19. Hệ thống tài chính là tổng thể các bộ phận khác nhau trong một cấu trúc   tài chính, mà  ở  đó các quan hệ  tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác   nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động khác nhau có những quỹ tiền tệ đặc thù được   hình thành và được sử dụng cho những mục đích khác nhau. Các hoạt động tài  chính ở đó cũng có đặc điểm và vai trò riêng, nghĩa là ở đó hình thành các bộ  phận tài chính độc lập. Tính đa dạng, độc lập đó bắt nguồn từ tính đa dạng,   phong phú của các hoạt động kinh tế xã hội mà hoạt động tài chính là một bộ  phận trong đó. Tuy có sự  đa dạng, khác nhau nhưng các hoạt động tài chính  trong các lĩnh vực, các bộ  phận tài chính lại có mối quan hệ  chặt chẽ, ràng   buộc, phụ thuộc lẫn nhau trong sự vận động không ngừng của các nguồn tài  chính. Điều đó, kết hợp với nhau và cấu thành một hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính của một quốc gia là một thể thống nhất do nhiều bộ  phận tài chính hợp thành. Bộ phận tài chính là nơi hội tụ các nguồn tài chính,  nơi diễn ra việc tạo lập và sử  dụng các quỹ  tiền tệ  gắn liền với việc thực   hiện chức năng, nhiệm vụ  của chủ  thể  trong lĩnh vực hoạt động. Việc xác   định có bao nhiêu bộ phận tài chính của hệ thống đó là tuỳ thuộc vào việc chỉ  ra một cách đúng đắn các căn cứ  lư  thuyết để  xác định thế  nào là một bộ  phận tài chính. Các căn cứ xác định các bộ phận tài chính:  + Bộ  phận tài chính phải là một điểm hội tụ  của các nguồn tài chính là   nơi vừa thu hút các nguồn tài chính (tạo lập quỹ  tiền tệ  từ  các quỹ  tiền tệ  khác) đồng thời cũng là nơi cung ứng nguồn tài chính (sử dụng quỹ tiền tệ để  hình thành các quỹ tiền tệ khác) + Một bộ phận tài chính nếu ở đó hoạt động tài chính, sự vận động của  các nguồn tài chính, việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ luôn gắn liền với  một chủ thể phân phối cụ thể, xác định. 19
  20. + Được xếp vào một bộ  phận tài chính nếu các hoạt động tài chính có  cùng tính chất đặc điểm, vai trò có tính đồng nhất về  hình thức các quan hệ  tài chính và tính mục đích của các quỹ tiền tệ trong lĩnh vực hoạt động.  Từ  những căn cứ  trên có thể  xác định hệ  thống tài chính theo chủ  thể  bao gồm các bộ phận tài chính sau: ­ Tài chính Nhà nước.  ­ Tài chính doanh nghiệp. ­ Tài chính của các tổ chức tài chính trung gian (Bảo hiểm, Tín dụng) ­ Tài chính các tổ chức chính trị ­ xã hội và tài chính hộ gia đình 1.2. Sơ đồ hệ thống tài chính  Hệ thống tài chính bao gồm các bộ phận tài chính và bộ phận dẫn vốn,  được tổ chức theo sơ đồ sau: Tài chính  Nhà nước Tài chính  THỊ  Các trung gian  Doanh nghiệp TRƯỜNG  tài chính TÀI CHÍNH Tài chính hộ gia  đình và  tổ chức xã hội Giữa các bộ phận của hệ thống tài chính có mối quan hệ ràng buộc trong  việc tạo lập và sử  dụng các quỹ  tiền tệ  hợp thành một hệ  thống tài chính  thống nhất. Đây là những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, tác động vào nhau   một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường tài chính. Thêm vào đó,   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2