intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình thủy sinh đại cương - Đại học An Giang - part 6

Chia sẻ: Nguyễn Thị Ngọc Huỳnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

98
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhóm cá tự nhiên sống trong sông (cá trắng) bao gồm các loài cá có kích thước lớn và có giá trị kinh tế cao như cá hô, cóc, bông lau, duồng … Bên cạnh đó có loài cá kích thước thân thể nhỏ nhưng quần đàn lớn và có giá trị kinh tế như cá linh, thiểu, cơm…

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình thủy sinh đại cương - Đại học An Giang - part 6

  1. Nhóm cá tự nhiên sống trong sông (cá trắng) bao gồm các loài cá có kích • thước lớn và có giá trị kinh tế cao như cá hô, cóc, bông lau, duồng … Bên cạnh đó có loài cá kích thước thân thể nhỏ nhưng quần đàn lớn và có giá trị kinh tế như cá linh, thiểu, cơm… Di cư của cá ở hạ lưu sông Cửu Long theo các dạng sau Di cư sinh sản : Gồm có hai nhóm, nhóm di cư ngược dòng để đẻ ở các • vùng trung và thượng lưu sông Mékông như cá tra, duồng, ba sa, hô, tra dầu, hú…. Nhóm di cư từ sông vào vùng trũng ngập nước vào mùa mưa để đẻ như cá lăng, leo, mè lúi, he … Di cư vỗ béo : Vào đầu mùa lũ, cá từ sông di cư vào các vùng đồng ruộng • trũng ngập nước để kiếm ăn. Đến cuối mùa lũ , nước rút, cá lại theo dòng nước di cư ra sông để tìm mồi. Ngoài ra, còn có một số loài cá nước mặn, lợ di cư vào sông để tìm mồi trong mùa khô. Di cư thụ động : Dạng di cư nầy thường gặp ở cá bột của một số loài cá • như cá tra, ba sa, vồ đém, hú, bông lau … Những loài cá nầy đẻ ở vùng trung và thượng lưu sông Mékông. Vào đầu mùa lũ, cá bột trôi theo dòng nước chảy về phía hạ lưu sông và các vùng ngập nước ven sông. - Vùng sinh thái trũng phèn Vùng Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên nhận nước từ hai nguồn chính là nước từ sông Cửu Long chảy qua hệ thống kênh rạch và nguồn nước mưa tại chỗ. Vào mùa lũ ( từ tháng 8 -11), Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên là vùng sinh trưởng, đẻ trứng của nhiều loài cá di cư từ sông vào. Khi nước rút, hầu hết các loài cá nầy lần lượt di cư ra sông, chỉ có các loài cá đen chịu được khô hạn và phèn, còn lưu lại trong các đìa, bàu láng trũng nước cạn và bị nhiễm phèn ở các mức độ khác nhau. Đây là những vùng lưu giữ nguồn gen của tập đoàn cá đen nổi tiếng như cá lóc, rô, trê, sặc, lươn, trạch … và nhóm cá kích thước nhỏ điển hình là cá trâm - sinh vật chỉ thị cho thuỷ vực phèn nặng, có thể chịu được môi trường nước pH từ 2 -3. - Vùng sinh thái cửa sông ven biển Các cửa sông ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long thuộc hệ thống sông Mékông và một số cửa sông khác có nguồn gốc tại chỗ. Phần lớn các cửa sông chảy ra biển Đông và chịu ảnh hưởng thuỷ triều biển Đông. Một số cửa sông đổ ra khu vực biển Tây và chịu ảnh hưởng thuỷ triều biển Tây. Một số cừa sông thuộc khu vực mũi Cà Mau thuộc vùng chuyển giữa biển Đông và biển Tây. Các cửa sông chịu ảnh hưởng thuỷ triều biển Đông thuộc hệ thống sông Cửu Long có lưu lượng nước đổ ra biển hằng năm rất lớn, tạo nên một khu vực cửa sông rộng lớn có sự hoà trộn nước sông và nước biển. Nơi đây sự biến động về môi trường và độ mặn xảy ra rất lớn về mùa khô và mùa mưa.
  2. Cửa sông Mỹ Thanh không thuộc hệ thống sông Cửu Long nhưng do vị trí • gần cửa sông Trần Đề và Bassac của hệ thống sông Cửu Long nên chịu ảnh hưởng về môi trường và chế độ nước giống như các cửa sông thuộc hệ thống sông Cửu Long. Cửa sông Gành Hào không thuộc hệ thống sông Cửu Long và ở xa vị trí • các cửa sông thuộc hệ thống sông Cửu Long nên chế độ nước và môi trường không giống như các các sông thuộc hệ thống đó. Cửa sông Cái Lớn chịu ảnh hưởng thuỷ triều biển Tây. Các cửa sông Ông Đốc, Bảy Hạp chịu ảnh hưởng của cả hai vùng biển Đông và biển Tây. Do đặc điểm sinh thái vùng cửa sông cùng với mối quan hệ về độ mặn và đặc điểm sinh học của tôm cá, nên sự phân bố của chúng trong khu vực có thể chia tành bốn nhóm sinh thái cá. Nhóm I - Nhóm cá biển Nhóm cá nầy đời sống phần lớn ở vùng nước có độ mặn cao. Chúng có quan hệ với vùng cửa sông thông qua chuổi thức ăn và mùn bã hữu cơ từ cửa sông đưa ra biển. Đây là các loài thích nghi rộng muối và hẹp muối. Có thể gặp cá thích nghi với độ muối thấp 5%o , nhưng đa số gặp cá thích nghi với nồng độ muối từ 18 - 25%o . Nhóm cá nầy gồm các loài cá sống khơi, điển hình như các họ Trigonidae, Scombridae, Clupeidae, Engraulidae… Nhóm cá biển thường gặp ở phần cuối các cửa sông, nơi nước có nồng độ muối cao và ít biến động, nhất là vào mùa khô khi lượng nước sông giảm. Nhóm II - Nhóm cá nước lợ cửa sông Nhóm cá nầy sống chủ yếu ở vùng nước lợ cửa sông, có nồng độ muối biến động từ 0,4 - 25%o, thích nghi với sự biến động mạnh của các yếu tố môi trường và ít di cư. Thức ăn của chúng là mùn bã hữu cơ và thực vật. Cá nước lợ cửa sông thuộc nhiều nhóm khác nhau thuộc họ Clupeidae, Engraulidae, Harpadonthidae, Bregmacerotidae, Belonidae, Ariidae, Polynemidae, Apogonidae, Carangidae, Sciaenidae, Lutjanidae, Sparridae… Phần lớn các loài cá nầy có kích thước nhỏ, sống đáy. Nhiều loài sống ổn định trong vùng, nhưng cũng có nhiều loài di cư giữa sông và biển. Một số loài ở vùng cửa sông là nơi bắt buộc trong một giai đoạn của chu trình sống, khi sinh sản phải di cư đến vùng sinh thái khác. Nhóm các nước lợ cửa sông và nhóm cá biển di nhập vào là cơ cấu chủ yếu của nghề khai thác cá cửa sông và vùng nước nông ven biển. Nhóm III - Nhóm cá di cư giữa nước mặn và nước lợ theo mùa Đây là nhóm cá có nguồn gốc từ biển thường di cư vào vùng nước lợ dể sinh sản và kiếm ăn theo các mùa trong năm. Có một số loài di cư qua vùng nước lợ cửa sông, đến vùng nước ngọt trong sông theo mùa. Các loài cá thường gặp thuộc họ Clupeidae, Engraulidae, Plotosidae, Leiognathidae, Polynemidae, Sciaenidae, Cynoglossidae, Soleidae, Ariidae… Nhóm IV - Nhóm cá nước ngọt
  3. Gồm các loài cá phần lớn đời sống ở vùng nước ngọt, nồng độ muối dưới 4%o. Một số loài có thể xuống vùng cửa sông, nước có nồng độ muối 10%o để kiếm ăn. Chúng thường được gặp ở cửa sông vào mùa nước lũ và nước ròng. Nhóm nầy có những loài thuộc họ Anabantidae, Bagridae, Pangasidae … Đánh giá nguồn lợi thủy sản Mục tiêu của việc đánh giá trữ lượng cá Khái niệm: Trữ lượng là một nhóm động vật cùng một nòi hoặc loài có cùng quỹ gen • chung và có cùng một gới hạn phân bố địa lý nhất điịnh. Mục tiêu của việc đánh giá trữ lượng: Đưa ra cơ sở khai thác tối ưu nguồn lợi thuỷ sản: mức khai thác cho phép • để đảm bảo năng suất tối đa về trọng lượng một cách bền vững. Dự báo sự biến đổi trong tương lai về năng suất, sản lượng, giá trị đánh • bắt trong các mức độ khai thác khác nhau. Phương pháp khảo sát đánh giá nguồn lợi thuỷ sản Đây là phương pháp khảo sát, đánh giá nguồn lợi thuỷ sản ven biển và nội đồng. Trên cơ sở các bước khảo sát, ta tập hợp nguồn số liệu đã thu thập để phân tích, xử lý và đánh giá nguồn lợi trong vùng nghiên cứu. 1. Số liệu khảo sát tại hiện trường Khảo sát cụ thể trên tất cả các loại ngư cụ đang khai thác trong vùng nghiên cứu và đặc điểm như : Ngư trường khai thác • Loại ngư cụ (mô tả) • Tên ngư cụ • Thời gian khai thác • Thành phần loài khai thác • Sản lượng khai thác • 2. Số liệu thu thập từ ngư dân Chọn ngư dân tiêu biểu cho từng loại ngư cụ đặc trưng trong vùng nghiên cứu. Qua phiếu điều tra ta sẽ thu thập những số liệu sau: Tên ngư cụ •
  4. Ngày khai thác • Thời gian khai thác • Thành phần loài khai thác chính • Sản lượng khai thác: kg/ ngày, kg/ tháng, kg/mùa, tấn/năm • Phân loại sản lượng khai thác/ một mẻ khai thác. • 3. Số liệu thống kê từ cơ quan quản lý thuỷ sản tại địa phương Qua phiếu điều tra đã thiết kế sẳn, gửi đến cơ quan quản lý ngành thuỷ sản địa phương, những số liệu cần thiết được cung cấp: Tổng số dân cư trong vùng nghiên cứu • Bao nhiêu người dân trong vùng có liên quan đến nghề khai thác thuỷ sản • o Bán chuyên nghiệp o Chuyên nghiệp Thống kê chi tiết các ngư cụ trong vùng nghiên cứu • Thống kê chi tiết ngư dân sử dụng từng loại ngư cụ cụ thể • Thời gian khai thác của từng loại ngư cụ • Mùa vụ khai thác cuả từng loại ngư cụ • 4. Xử lý và đánh giá nguồn lợi trong vùng nghiên cứu Với ba nguồn số liệu đã thu thập trên, chúng ta thiết kế phần mềm Exel đơn giản để xử lý. Từ ba góc độ nhìn khác nhau, chúng ta có thể đánh giá một cách tương đối về nguồn lợi thuỷ sản trong vùng nghiên cứu. Những nét tổng quát về đánh giá trữ lượng đàn cá Số liệu thu thập càng nhiều thì mức độ chính xác của việc đánh giá trữ lượng đàn cá càng cao. Khả năng nầy tương quan với sự phát triển nghề cá. Trong trường hợp đàn cá chưa bị khai thác, cách đánh giá phải dựa trên cơ sở sinh thái chung hoặc các chuyến khảo sát nghiên cứu nghề cá. Ngay khi khai thác bắt đầu, chính nghề cá có thể cung cấp cơ sở số liệu để có thể đánh giá phức tạp hơn. Ở một nghề cá phát triển cao, phần lớn thuộc về đàn cá đã bị khai thác. Như thế sẽ dễ dàng cho việc thu mẫu hoặc thu thập số liệu. Phương pháp luận đánh giá và dự báo đàn cá thay đổi tương ứng với số liệu thu được tăng lên. Trong khi những đánh giá sơ bộ có thể chỉ dựa vào mối quan hệ giữa năng suất sơ cấp và thứ cấp hoặc so sánh vùng chưa được khai thác và vùng đã được khai thác có cùng đặc điểm chung về môi trường. Những đánh giá về trữ lượng đàn cá sống đáy hoặc sống nổi chưa bị khai thác có thể thực hiện bằng phương pháp đơn giản là dùng lưới kéo. Các vấn đề chung về đánh giá trữ lượng Có hai loại số liệu chính theo thứ tự ưu tiên: 1. Số liệu thu từ nghề cá thương phẩm Tổng sản lượng (theo loài, khu vực và ngư cụ khai thác). •
  5. Cường lực khai thác (theo khu vực và ngư cụ). • Tần số chiều dài (theo loài và giới tính). • Số liệu sinh học (độ chín sinh dục, mối quan hệ chiều dài và trọng lượng). • Số liệu về ngư cụ khai thác (kích thước mắt lưới và các ngư cụ khai thác). • 2. Số liệu từ khảo sát nghiên cứu Sản lượng và cường lực (ví dụ: số lượng khai thác trong một giờ, theo • từng loài). Sản lượng trên một đơn vị diện tích (để tính theo phương pháp diện tích • lưới quét qua). Tần số chiều dài (theo loài và giới tính). • Số liệu sinh học (độ chín sinh dục, mối quan hệ chiều dài - trọng lượng). • Số liệu về ngư cụ khai thác (ví dụ kích thước mắt lưới). • Phương pháp đánh giá Có rất nhiều phương pháp đánh giá trữ lượng đàn cá từ đơn giản đến phức tạp, từ cổ điển đến hiện đại. Việc đánh phụ thuộc vào nguồn số liệu chúng ta có thể thu thập được từ nghiên cứu, từ thống kê nghề cá ở những vùng chưa được khai thác hoặc vùng đang khai thác. Phương pháp đanhs giá trữ lượng đơn giản: • Khảo sát bằng lưới kéo (giã cào, lưới vây, lưới kéo) Lưới: có kích thước mắt tương đối dày, để thu được mẫu đại diện cho toàn bộ kích thước của loài đang nghiên cứu. 1. Các thông tin vùng khảo sát Gồm những thông tin về độ sâu, nền đáy, chế độ gió theo mùa và các kiểu di cư của các đàn cá. 2. Mục tiêu và kế hoạch khảo sát Đây là một số việc quan trọng cần phải xem xét trước khi tiến hành khảo sát. Ước lượng tổng sinh khối và tốc độ đánh bắt. • Ước lượng sinh khối cho loài được chọn. • Thu thập các số liệu sinh học và môi trường. • Chọn ngư cụ khảo sát Lưới kéo phải phù hợp với điều kiện nền đáy. Kích thước mắt lưới sử dụng nghiên cứu thường nhỏ hơn nhiều so với kích thước mắt lưới sử dụng trong
  6. khai thác. Vì cá nhỏ có ý nghĩa quan trọng cho các phương pháp đánh giá dựa vào tần số chiều dài. 1. Thiết kế khảo sát Nên quyết định một qui trình chọn lựa các trạm. Một hệ thống các trạm kiểu kẻ ô sẽ đảm bảo cho việc thu được các thông tin tối đa về phân bố trên toàn bộ khu vực. 2. Phân bố các mẻ lưới Nên phân bố các mẻ lưới tương ứng với mật độ phân bố của cá, sao cho phân tích được các vùng có mật độ cao, trung bình và thấp. Như vậy trước khi khảo sát phải thu thập thông tin. Thiết kế khảo sát đầu tiên phải hoàn toàn ngẫu nhiên, hoặc các mẻ lưới kéo phải được phân bố đều. Trong giai đoạn tiếp theo của chương trình, khi đã có được một số thông tin về mật độ và độ lệch tiêu chuẩn của cá có giá trị ước lượng mật độ thì sử dụng thông tin nầy cho phân bố cấu trúc mẻ lưới khai thác. 3. Số lượng các mẻ lưới Để ước tính bao nhiêu mẻ lưới có thể thực hiện được trong một khoảng thời gian nào đó, thì cần có những thông tin sau: Tổng số ngày có thể có N. • Thời gian đi và về từ bãi cá t1. • Thời gian 1 mẻ lưới t2. • Thời gian thả và kéo lưới t3. • Thời gian phủ kín khoảng cách giữa các trạm t4. • Số giờ có được trong một ngày, tập tính của loài nghiên cứu, hằng hải .. • T. Thời gian cho các công việc chuẩn bị (ngư cụ và trang thiết bị) t5. • Trừ ngày đầu tiên và cuối cùng của chuyến khảo sát, khi T không tính đến t1, thì số mẻ lưới trong ngày có thể tính được từ: Số mẻ lưới trong ngày = T/(t2 + t3 + t4). • Tổng số mẻ lưới = (N – t1 – t5) x số mẻ lưới trong ngày + số mẻ lưới kéo • trong ngày đầu và ngày cuối cùng x số chuyến biển. Việc tiêu chuẩn hoá thời gian một mẻ lưới trong suốt chuyến khảo sát có ý nghĩa quan trọng. Vì khả năng đánh bắt của loài và kích thước cá thường phụ thuộc vào khoảng thời gian của mẻ lưới. 4. Ghi chép số liệu Các thông tin cần ghi nhận trong chuyến khảo sát: Một nhật ký ghi tóm tắt toàn bộ hành trình trên biển. • Nhật ký khai thác cá: chi tiết về từng trạm như vị trí, thời gian bắt đầu và • kết thúc từng mẻ lưới, sản lượng, thành phần trọng lượng của từng loài.
  7. Các thông tin chi tiết về sản lượng, chiều dài, trọng lượng, giới tính, độ • thành thục sinh dục … theo từng các thể hoặc các mẫu phân bố tần số chiều dài. Chương 8: Đối Tượng Nuôi, Các Hệ Thống Và Mô Hình Canh Tác Thuỷ Sản Đặc điểm sinh học của một số đối tượng nuôi tại Việt Nam Môi trường nước ngọt 1. Cá 1.1. Cá Tra (Pangasius hypophthalmus) Phân bố: Cá tra phân bố ở Bornéo, Sumatra, Java, Thai lan, Mã lai, • Campuchia và đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam. Cá sống ở các tầng nước, nhưng thường sống ở tầng đáy cả nơi nước tĩnh và nước chảy. Cá có khả năng sống nơi ao tù có nhiều chất hữu cơ. Tính ăn: Cá tra là loài ăn tạp thiên về động vật. • Sinh trưởng : Cá tra là loài lớn nhanh trong điều kiện nuôi bình thường cá • có thể đạt 0,8 -1 kg sau một năm nuôi và 1,5 - 2 kg sau 2 năm nuôi. Sinh sản : Cá tra thành thục sinh dục ở điều kiện sống ngoài tự nhiên. • Trong ao nuôi cá thành thục sinh dục ở tuổi 3 - 4 với chế độ dinh dưỡng đầy đủ. 1.2. Cá Ba sa (Pangasius bocourti) Cá ba sa là loài được nuôi phổ biến trong bè trên sông Tiền và sông Hậu của hai tỉnh An giang và Đồng Tháp. Phân bố : Cá ba sa phân bố ở India, Myanma, Thailand, Java, Campuchia • và Đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam. Cá sống ở thuỷ vực nước chảy và hồ lớn, chịu đựng được nồng độ oxy tương đối thấp. Tính ăn: Cá ba sa ăn tạp thiên về động vật. • Sinh trưởng: Cá lớn nhanh từ năm thứ nhất đến năm thứ ba, đạt trung • bình 1 -1,2 kg sau một năm nuôi ở bè. Sinh sản: Cá ba sa thành thục sinh dục ở điều kiện sống ngoài tự nhiên. • Trong bè hay ao nuôi vỗ cá thành thục sinh dục ở tuổi 3 - 4 với chế độ dinh dưỡng thích hợp. 1.3. Cá Trôi Ấn Độ (Cirrhinus mrigala, Labeo rohita, Catla catla) Gồm ba loài được di nhập từ India vào Việt nam là cá trôi trắng Mgrigal (Cirrhinus mrigala), cá trôi đen Rohu (Labeo rohita) và cá Catla (Catla catla).
  8. Phân bố: Cá Rohu phân bố ở miền Trung và Bắc Ấn độ, Bangladesh, • Nepal, Myanma. Hiện cá được di giống sang nuôi ở nhiều nước trên thế giới. Cá phân bố rộng trong các loại hình mặt nước ngọt nơi tầng giữa và tầng đáy. Khả năng thích ứng : Cá trôi Ấn độ thích ứng với nhiệt độ từ 11 - 42oC, • nồng độ muối từ 4 -5 %o. Tính ăn : Khi còn nhỏ cá ăn thực vật và động vật phù du. Khi trưởng • thành cá trôi đen và cá trôi trắng ăn tạp, cá catla ăn động vật phù du và mùn bã hữu cơ lắng đọng ở đáy ao. Sinh trưởng: Cá trôi Ấn độ có thể nuôi ở nhiều loại hình thuỷ vực khác • nhau và tốc độ tăng trưởng ở từng thuỷ vực cũng khác nhau. Nhìn chung cá trôi Ấn độ lớn nhanh trong hai năm đầu , sau đó tốc độ tăng trưởng giảm dần. đặc biệt cá catla tăng trưởng nhanh nhất , sau một năm nuôi có thể đạt 1, 5kg/con. Sinh sản: Ở đồng bằng sông Cửu Long, cá trôi đen và cá trôi trắng thành • thục sinh dục ở độ tuổi 15 tháng, còn catla thì thành thục ở độ tuổi 20 tháng. Khi sinh sản phải dùng các biện pháp kích thích để cá đẻ. Một năm cá có thể đẻ từ 4 -5 lần. 1.4. Cá Chép (Cyprinus carpio Linaeus) Phân bố : Cá chép phân bố rộng khắp các nước trên thế giới. Cá sống • chủ yếu ở nước ngọt nhưng cũng có thể sống ở vùng nước lợ nhạt và vùng cao 1500m so với mặt biển. cá chép có thể nuôi trong ao và ở trong bè. Khả năng thích ứng : cá chép thuộc loài rộng nhiệt, chúng có thể sống • dưới lớp nước đóng băng vào mùa đông ở châu Âu và mùa hè ở vùng nhiệt đới. Nhiệt độ thích hợp để cá phát triển tốt là 20 -28oC. Độ pH thích hợp : 7-8 nhưng cũng sống được ở pH 5,5 - 8,5. cá có thể sống nơi nước tĩnh có nồng độ oxy hoà tan thấp hay nơi có dòng nước chảy. Tính ăn: Lúc còn nhỏ cá ăn động vật phù du như Rotifera, Cladocera, sau • đó chuyển sang ăn động vật đáy. Trong nuôi thuỷ sản cá chép ăn được thức ăn viên công nghiệp, thức ăn chế biến. Sinh trưởng: Cá chép nuôi ở đồng bằng sông Cửu long trong mô hình ao • hồ, năm đầu tăng trọng trung bình 0,3 - 0,5 kg/con. Năm thứ hai đạt 0,7 - 1kg/con. Năm thứ ba đạt 1 - 1,5kg/con. Nuôi trong ruộng lúa kết hợp có thể đạt 0,5 -0,8 kg/con sau 8 - 9 tháng nuôi. Sinh sản: Ở Việt nam cá chép thành thục sinh dục sau 1 năm nuôi. nếu • nuôi với thức ăn đầy đủ, cá thành thục sinh dục sau 8 - 9 tháng. Cá chép có thể đẻ tự nhiên trong môi trường ao nuôi. Cá đẻ nhều lần trong năm, tập trung vào đầu và giữa mùa mưa với nhiệt độ từ 25 -29oC. Trong sinh sản nhân tạo cá chép đẻ quanh năm. 1.5. Cá Lóc (Ophicephalus strriatus)
  9. Phân bố: Giống cá lóc có khoảng 30 loài trên thế giới. Phân bố ở Việt nam • và một số nước vùng Đông Nam Á có 5 loài: Ophiocephalus striatus (cá lóc, cá sộp), O.maculatus (cá chuối: miềm Bắc Việt Nam), O.micropeltes (cá lóc bông), O.marulius , O.punstatus. cá lóc có thể sống ở ao, hồ, kênh, rạch, mương vườn, đìa, lung, bàu. Khả năng thích ứng: Cá lóc hoạt động bắt mồi vào lúc sáng sớm và chiều • tối khi nhiệt độ nước trên 25oC. Nhiệt độ thích hợp cho cá phát triển 20 - 35oC. Cá có thể sống lâu trên cạn với điều kiện da luôn ẩm ướt, vì cá có khả năng hô hấp khí trời. Dinh dưỡng: Khi mới nở cá sống nhờ noãn hoàng, tập trung thành đàn • với mật độ cao ở tầng mặt (cá đóng khói đèn). Sau 5 - 6 ngày cá sử dụng thức ăn bên ngoài như sinh vật phù du cỡ nhỏ như luân trùng (Rotifera), trứng nước (Moina). Cá lóc mẹ có tập tính bảo vệ trứng và con. Khi chiều dài thân cá được 2 - 3cm, (30 - 45 ngày tuổi) chúng có thể bơi phân tán để tìm mồi. Khi chiều dài thân cá khoảng 5 - 6cm cá con có thể tự tìm mồi. Thức ăn của chúng là các loại tép và cá nhỏ khác. Khả năng bắt mồi của chúng tuỳ thuộc vào mật độ và kích thước con mồi. Khi cá có chiều dài thân trên 10cm, cá hoàn toàn chủ động bắt mồi và sống độc lập cho đến trưởng thành. Sinh trưởng: Trong điều kiện nuôi, cá lóc tăng trọng trung bình từ 0,4 - • 0,8kg/con/năm. Cá thường sống nơi nước tĩnh hoặc nơi có dòng nước chảy yếu, mực nước sâu trung bình từ 0,5 - 1m, nơi có nhiều thực vật thuỷ sinh để rình và bắt mồi. Cá lóc sống được những vùng nước ngọt, nhưng cũng sống được ở vùng nước lợ nhạt với nồng độ muối 5%o. Cá cũng có thể sống ở những vùng nước nhiễm phèn nhẹ với pH: 5,5. Nhưng cá phát triển tốt ở vùng nước pH: 6,5 - 7,5 như đa số cá loài cá khác làm thức ăn cho chúng. Sinh sản: Cá lóc thành thục sinh dục từ 8 -12 tháng tuổi. Cá có thể đẻ • trứng quanh năm, nhưng tập trung nhất vào đầu mùa mưa khoảng tháng 6 -7dl và thường đẻ rộ sau những cơn mưa lớn. Sức sinh sản bình quân từ 15.000 - 20.000 trứng/tổ ở cá có trọng lượng 1 -1,5kg/con và 5.000 - 10.000 trứng/tổ ở cá có trọng lượng 0,4 -0,8kg/con. Khi cá thành thục thường tự ghép đôi và tìm nơi yên tĩnh, thích hợp để làm tổ như các buội cỏ nước ven bờ, gốc rạ … Những cây cỏ thuỷ sinh giữ trứng không cho trôi nổi khi mưa gió. Trứng cá lóc là loại trứng nổi có màu vàng rơm hoặc vàng trong. Cá cái và đực luôn canh giữ tổ và tấn công bất cứ sinh vật xâm phạm tổ trong khu vực có bán kính khoảng 1 -1,5m. 1.6. Cá Lóc bông (Ophicephalus micropeltes)
  10. Phân bố : Cá lóc bông phân bố ở khu vực Nam và Đông Nam Á trong các • loại hình thuỷ vực nước ngọt như sông, kênh, rạch, đồng ruộng, lung bàu …Cá cũng có thể sống và phát triển ở vùng nước lợ nhạt. Cá được nuôi trong bè và trong ao đất. Tính ăn: Cá lóc bông là loài cá dữ, có tập tính bắt mồi. Thức ăn cho cá là • động vật tươi sống : cá, tép, ếch, nhái. Sinh trưởng: Cá dễ nuôi, lớn nhanh. Nuôi trong bè có thể đạt 0,7 -1kg/con • sau 6 tháng nuôi. Hoặc có thể đạt từ 1 -1,5kg/con/năm Sinh sản : Cá lóc bông thành thục sinh dục sau 24 -30 tháng tuổi. Cá • thành thục sinh dục và đẻ tự nhiên. Nguồn giống cá lóc bông được ngư dân vớt nuôi vào đầu mùa lũ. 1.7. Cá Mè trắng Trung quốc (Hypophthalmychthys molitrix) Phân bố: Cá mè trắng Trung quốc phân bố chủ yếu ở lưu vực sông • Trường Giang, Châu Giang, Tây Giâng và Hắc Long Giang. Đây là loài cá đặc trưng của khu hệ đồng bằng Trung quốc. năm 1964, cá mè trắng được di nhập vào Việt nam, có thể cho sinh sản nhân tạo và nuôi phổ biến ở miền Bắc. cá cũng được di nhập vào các nước thuộc châu Á, châu Phi, châu Âu… Cá sống ở tầng mặt và tầng giữa, bay nhảy khỏi mặt nước khi có động. Tính ăn: Sau khi nở 3 ngày, cá ăn động vật phù du vừa với kích cỡ miệng • cá. Sau 4 -5 ngày, cá ăn thêm tảo phù du. Sau đó cá ăn tảo nhiều hơn cho đến khi trưởng thành. Cá trưởng thành ăn thực vật phù du là chính, động vật phù du và chất hữu cơ lơ lững. Ngoài ra cá cũng có thể ăn thêm cám mịn, bột hay sữa đậu nành. Khả năng thích ứng: Cá thích sống trong môi trường nước rộng, sâu, • thoáng, hàm lượng Oxy cao, nhiệt độ thích hợp: 22 - 25oC, pH: 7 - 8. - Sinh trưởng: Cá lớn nhanh. Ở miền Bắc cá nuôi đạt 0,5 - 0,7kg/con, sau • 1 năm. Đạt 1,5 -1,8 sau 2 năm nuôi và 4,6 kg/con sau 3 năm. Ở đồng bằng sông Cửu Long, trong những ao rộng sâu hay ruộng lúa ngập nước sâu vào mùa lũ, cá đạt 0,8 -1kg/con sau 1 năm nuôi. Sinh sản: Cá thành thục sinh dục sau 2 năm. Trong điều kiện nuôi tốt, một • số cá thành thục sinh dục sau 1 năm. Cá đực thành thục sớm hơn cá cái về thời gian trong năm và tuổi. Ở đồng bằng sông Cửu Long cá đẻ tập trung vào mùag mưa với nhiệt độ nước 26 -29oC. Sức sinh sản 86.000 trứng/kg cá cái. Bình quân 1 con cá có thể sinh sản 4 -5 lần/mùa sinh sản. Trứng cá thuộc loại bán trôi nổi, lơ lững trôi theo dòng nước chảy. 1.8. Cá Mè hoa (Aristichthys nobilis) Phân bố: Cá mè hoa ở Việt Nam được tìm thấy tại sông Kỳ Cùng (Lạng • Sơn) nhưng với số lượng không nhiều. Năm 1958, cá mè hoa được nhập
  11. từ Trung quốc, sau đó cho đẻ nhân tạo thành công và được nuôi rộng rãi nhiều nơi. Đây cũng là loài cá điển hình của khu hệ cá đồng bằng Trung quốc. Lúc đầu chúng phân bố ở sông Ngọc Giang, Trường Giang sau đó là Hắc Long Giang. Khả năng thích ứng: Cá sống ở tầng trên và tầng giữa, trong môi trường • nước rộng, thoáng, độ sâu thấp hơn cá mè trắng. Cá mè hoa không nhảy hay vùng vẫy nhiều, chúng thường bơi thành đàn, hoạt động chậm chạp dễ đánh bắt. Cá ưa sông trong nước có hàm lượng Oxy cao trên 2 -3mg/l, nhưng chịu đựng hàm lượng Oxy thấp tốt hơn cá mè trắng. Nhiệt độ thích hợp: 30 - 31oC. Tính ăn: Cá mè hoa khi còn nhỏ ăn động vật phù du. Lúc trưởng thành • cũng ăn động vật phù du là chính. Ngoài ra còn ăn thực vật phù du cám mịn, bã đậu, bột mì … Sinh trưởng: Cá mè hoa thường lớn nhanh hơn cá mè trắng. Tăng trưởng • cực đại về chiều dài từ năm thứ nhất đến năm thứ ba, sau đó giảm nhanh vào năm thứ tư. Về trọng lượng, cá lớn tương đối nhanh từ năm thứ hai đến năm thứ bảy, nhưng tăng nhanh nhất vào năm thứ ba. Trong ao nuôi với mật độ thưa, cá lớn nhanh sau 1 năm nuôi cá đạt 1 -1, 5kg/con. Cá biệt có con nặng 2 -2,5kg/con. Cá nuôi 2-3 năm có thể đạt 4-6 kg/con. Sinh sản: Ở Việt nam cá đực thành thục sinh dục sau 2 năm tuổi, cá dài • 53cm, nặng 2,5kg/con. Cá cái thành thục sinh dục sau 3 năm tuổi, dài 60cm, nặng 3,5kg/con. Nếu nuôi tốt có thể cho cá sinh sản khi thành thục sinh dục ở 2 tuôi. Thậm chí có thể cho cá sinh sản ở 1 tuổi. Sức sinh sản 20.000 -25.000 cá bột/kg cá cái. Cá mè hoa sinh sản tập trung từ tháng 3 -6 và chỉ đẻ 1-2 lần trong một năm. Điều kiện cho cá sinh sản pH: 7-8, nhiệt độ thích hợp nhất: 24 -28oC, hàm lượng Oxy hoà tan 5-8mg/l, lưu tốc nước 0,8 -1,2 m/giây. 1.9. Cá Mè Vinh (Puntius gonionotus) Phân bố: Cá mè được tìm thấy ở Indonesia, Lào, Thai lan, Campuchia, • đồng bằng sông Cửu Long Việt nam. Cá sống rộng rãi trong các loại hình thuỷ vực nước ngọt nhưng cũng phát triển bình thường ở thuỷ vực nước lợ với nồng độ muối 7%o. Khả năng thích ứng: Cá sống và hoạt động ở mọi tầng nước, thích sống ở • những thuỷ vực nước ấm, trong sạch có hàm lượng Oxy cao. Cá sống được ở nhiệt độ 15 -33oC, nhưng thích hợp nhất từ 25 -30oC. Cá chịu đựng được pH: 5,5 -9, nhưng pH thích hợp nhất cho cá là 7- 8. Tính ăn: Cá mè vinh có chiều dài thân nhỏ hơn 10cm ăn mùn bã hữu cơ, • thực vật thượng đẳng, tảo khuê, tảo lam, tảo lục, tảo mắt… Cá mè vinh có chiều dài thân lớn hơn 10cm ăn nhiều thực vật thượng • đẳng, vật chất hữu cơ, tảo khuê, tảo lam, tảo lục…Loài cá nầy có thể dùng để diệt cỏ ở ao hồ Sinh trưởng: Cá mè vinh sinh trưởng nhanh vào năm thứ nhất, đến năm • thứ haởntở đi tốc độ sinh trưởng chậm hơn. Cá nuôi trong ao đạt trọng
  12. lượng 150 -250gr/con/năm. Nuôi trong ruộng lúa đạt trọng lượng 500gr/con sau 6 -8 tháng nuôi. Sinh sản: Mùa vụ sinh sản của cá mè vinh ngoài tự nhiên kéo dài từ tháng • 5 -9. Trong sinh sản nhân tạo, cá đẻ quanh năm, tập trung nhất vào các tháng đầu và giữa mùa mưa. một con cá có thể đẻ 4-5 lần/năm. Khoảng cách giữa 2 lần đẻ là 30 - 45 ngày. Sức sinh sản 200.000 - 300.000 trứng/1kg cá cái. Trưng bán trôi nổi . Ở điều kiện nhiệt độ 27 -29oC phôi phát triển trong vòng 12 giờ, thời gian nở hết lứa trứng kéo dài 5 - 6 giờ. 1.10. Cá Rô phi (Tilapia) Phân bố: Cá rô phi là loài đặc trưng của vùng nhiệt đới. Chúng phân bố tự • nhiên ở các thuỷ vực của nhiều nước châu Phi. Hiện nay chúng cũng được nuôi ở nhiều nước Đông nam Á và khắp thế giới. Việt Nam có 3 loài: o Rô phi trắng (rô phi cỏ Oreochromis mosambicus Peter) nhập vào Việt Nam năm 1958 từ Thái Lan. o Rô phi vằn (rô phi Đài Loan O. niloticus Linaeus), nhập vào Việt Nam từ năm 1974 từ Đài Loan. o Rô phi đỏ (Red Tilapia) nhập vào Việt Nam năm 1985 từ Thái Lan. Cả 3 loài rất thích hợp với điều kiện môi trường sống ở Việt Nam và hiện là đối tượng nuôi quan trọng của nhiều loại hình thuỷ vực nội địa và ven biển. Khả năng thích ứng: Cá rô phi có thể sống được ở môi trường nước thiếu • oxy với hàm lượng chất hữu cơ cao. Nhiệt độ cần thiết cho sự phát triển của cá rô phi từ 20 -32oC. Thích hợp nhất là 25oC. Độ pH thích hợp cho cá là 6,5 - 8,5. Cá sống được ở các môi trường nước ngọt, lợ, mặn. Rô phi cũng có thể sống được ở độ mặn tới 40%o. Tuy nhiên ở những môi trường nước lợ, mặn cvá chậm lớn hơn. Dinh dưỡng: Từ khi mới nở đến lúc chiều dài thân 17 -18mm, cá ăn sinh • vật phù du. Sau 20 ngày tuổi cá chuyển dần sang ăn nhiều loại thức ăn khác nhau. Khi trưởng thành cá ăn tạp. Thức ăn gồm: mùn bã hữu cơ, tảo lắng ở đáy, ấu trùng côn trùng, giun, giun, một phần thực vật thượng đẳng mềm, sinh vật phù du, thức ăn nhân tạo, phân gia súc gia cầm… Sinh trưởng: Tốc độ sinh trưởng thay đổi tuỳ theo điều kiện nuôi và thức • ăn. Cá rô phi vằn lớn nhanh bvà kích thước thân thể lớn hơn rô phi cỏ. Cá rô phi cỏ lớn nhanh từ tháng đầu đến tháng thứ 3 - 4, còn cá rô phi vằn lớn nhanh từ tháng đầu đến tháng thứ 5 -6. Trong điều kiện nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long cá rô phi vằn sau 1 năm nuôi có thể đạt trọng lượng 200 - 500 gr/con. Cá đực thường lớn nhanh hơn cá cái, nhất lá sau khi thành thục sinh dục. Do đó cá đực được dùng để nuôi tăng sản. Sinh sản: Cá rô phi thành thục sinh dục rất sớm. Cá rô phi trắng thành • thục sinh dục lần đầu sau 3 - 4 tháng tuổi. Cá rô phi vằn sinh sản sau 5-6 tháng tuổi. Ở đồng bằng sông Cửu Long cá rô phi đẻ quanh năm. Số lần đẻ của cá từ 6 -11 lần/năm và khoảng cách giữa hai đẻ từ 22 - 24 ngày.
  13. Sức sinh sản của cá mỗi lần khoảng 200 -300 trứng. Trứng cá màu vàng, dạng quả lê. Ở nhiệt độ nước 23 -25oC, trứng nở sau 4 -5 ngày. Khi sinh sản, cá cái và cá đực đào tổ để đẻ trứng. Tổ hình lòng chảo, rộng hơn chiều dài thân cá, sâu 10 -15cm. Cá cái đẻ trứng vào tổ, cá đực phóng tinh cùng một lúc. Trứng thụ tinh được cá cái nhặt vào miệng ấp. sau 3 -5 ngày trứng nở. Cá mẹ tiếp tục chăm sóc cá con trong miệng từ 9 -10 ngày, sau đó chúng rời cá mẹ để sống độc lập. 1.11. Cá Sặc rằn (Trichogester pectoralis Regan) Phân bố: Cá sặc rằn được tìm thấy ở các quần đảo ở Ấn Độ, Thailand, • Malaysia, lào, campuchia, Việt nam và di giống sang một số nước khác. Cá sống ở nước ngọt và nước lợ ở cá thuỷ vực như ao, đìa, ruộng lúa, rừng tràm… Khả năng thích ứng: Cá sặc rằn có cơ quan thở khí trời nên có thể sống • được ở môi trường nước thiếu hoặc không có oxy. Cá cũng có thể chịu được môi trường nước bẩn do hàm lượng chất hữu cơ cao hay môi trường có độ pH thấp từ 4 - 4,5. Nhiệt độ thích hợp cho cá từ 24 - 30oC, Nhưng cũng có thể chịu được nhiệt độ từ 11-39oC. Dinh dưỡng: Thức ăn cho cá ặc rằn sau khi nở khoảng 3 ngày là thực vật • phù du, động vật phù du như luân trùng (Rotifera), mùn hữu cơ lơ lững trong nước. Khi cá lớn ăn tạp thiên về thực vật. Sinh trưởng: Nuôi cá sặc rằn trong ruộng lúa hay trong ao có sử dụng • phân hữu cơ cá lớn nhanh. Sau một năm nuôi cá đạt trọng lượng 100 - 150 gr/con. Đây là kích cỡ được thu hoạch. Sinh sản: Cá sặc rằn trưởng thành có thể phân biệt được đực cái rõ ràng. • Cá thành thục sinh dục lần đầu dưới 1 năm tuổi. Mùa sinh sản của cá tại đồng bằng sông Cửu Long tập trung vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9. trong sinh sản nhân tạo cá đẻ từ tháng 2 đến tháng 9. Cá có sức sinh sản cao, từ 200.000 - 300.000 trứng/kg cá cái. Trứng cá sặc rằn thuộc loại trứng nổi. Cá đực gom trứng vào miệng rồi nhả trở lại mặt nước dưới dạng bọt “tổ bọt”. Cá cái và cá đực bảo vệ tổ suốt quá trình phát triển phôi và ấu trùng cá mới nở. 1.12. Cá Tai Tượng (Osphronemus gouramy) Phân bố: Cá tai tượng lá loài cá đặc trưng ở vùng nhiệt đới, phân bố chủ • yếu ở Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Campuchia, Việt Nam. Hiện nay cá được nuôi phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Mô hình nuôi cá tai tượng thường là nuôi cá kết hợp trong ruộng lúa. Khả năng thích ứng: cá tai tượng có thể sống trong ao giàu chất hữu cơ, • thiếu Oxy nhò có cơ quan thở khí trời nằm ở cung mang thứ nhất. Cá cũng có thể sống nơi vùng nước chua phèn pH: 4, nước nhiễm mặn có nồng độ muối từ 6 -8%o và nhiệt độ dao động từ 16 -42oC. Ở điêù kiện nước ấm từ 22 -30oC cá tăng trưởng nhanh. Ở nhiệt độu thấp cá lớn
  14. chậm và hay bị bệnh. So với cá sặc rằn và rô phi cá tai tượng chịu lạnh kém hơn, nhưng sức chịu nóng cao hơn. Dinh dưỡng: Cá tai tượng ăn tạp thiên về thực vật. Sau khi nở và tiêu hết • noãn hoàng cá ăn động vật phù du nhỏ như Moina, Daphnia, Cyclops. Sau 2 tuần tuổi cá ăn được trùng chỉ (Tubefix), cung quăng, sâu bọ, bèo cám... Đến 1 tháng tuổi cá tai tượng ăn tạp thiên về động vật, càng về sau chúng ăn chuyển sang ăn tạp với thành phần thực vật là chính. Sinh trưởng: Cá tai tượng là loài có kích thước lớn. Cỡ cá lớn nhất được • biết là 50 kg. Cá lớn chậm. nuôi trong ao với thức ăn đầy đủ, mật độ thưa, cá đạt trung bình 600 -800gr/con hay 1kg/con/năm. Sinh sản:Cá tai tượng thành thục sinh dục khi ở 1,5 hay 2 năm tuổi, trọng • lượng có thể tham gia sinh sản là 300 - 400gr trong điều kiện nuôi vỗ tốt. Cá đẻ tốt, số lượng trứng nhiều. Cá con có sức sống cao, cá bố mẹ phải đạt từ 3-5 tuổi và trọng lượng phải từ 1 -1,5 kg. Ngoài tự nhiên cá để tập trung vào tháng 2-3 và tháng 8-10 dương lịch. Trong ao nuôi cá đẻ từ tháng 2-7, nhưng tập trung từ tháng 3 -5 dl. Từ tháng 8 trở đi cá tham gia sinh sản giảm rõ rệt. mùa vụ sinh sản của cá còn tùy thuộc vào thời gian nuôi vỗ sơm hay muộn, nếu nuôi vỗ từ tháng 9 -10 năm trước thì cá có thể tham gia sinh sản vào tháng 1 năm sau. 1.13. Cá Hường (Helostoma temmincki) Phân bố: Cá hường phân bố ở Indonesia, Malaysia, Thailand và được di • giống sang một số nước khác trong đó có Việt Nam. Cá sống ở nước ngọt, nơi hồ nước tĩnh, hoạt động bắt mồi trên tầng mặt và tầng giữa. Khả năng thích ứng: Cá sống được trong môi trường giàu chất hữu cơ, • thiếu Oxy và ngay trên cạn trong nhiều giờ nên rất dễ vận chuyển. Cá cũng chịu đựng được ở nước có pH:5,5, nhưng pH thích hợp là 6 -7 với nhiệt độ 25 -30oC. Dinh dưỡng: Cá giống và cá trưởng thành ăn tảo phù du. Nuôi trong ao cá • ăn cám mịn, bột ngũ cốc, bột cá ... cá tăng trưởng nhanh. Sinh trưởng: Cá sinh trưởng chậm, đạt 150 -200gr/con sau 1 năm nuôi. • Sinh sản: Cá thành thục và tham gia sinh sản lần đầu sau 12 -18 tháng. • Cá đẻ nhiều lần trong năm. Sau 3 tháng cá đẻ 1lần, không có mùa vụ rõ rệt. Số lượng trứng 1000 - 7000 trứng/1cá cái. Trứng có giọt dầu nên nổi trên mặt nước, đường kính trứng 1-1,5mm, nở sau 20 giở nhiệt độ 26 - 28o C. 1.14. Cá Bống tượng (Oxyeleotris marrmoratus) Phân bố: Cá tai tượng lá loài cá đặc trưng ở vùng nhiệt đới, phân bố rộng • rãi ở các nước Đông nam Á, chủ yếu như Lào, Campuchia, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Campuchia và Việt Nam. Hiện nay cá được nuôi phổ biến ở miền Nam. Cá sống trong thủy vực nước ngọt như sông, ngòi,
  15. kênh, rạch, ao, hồ, có tập tính sống đáy, hoạt động nhiều về đêm, ban ngày thường vùi mình trong bùn. Khi gặp nguy hiểm có thể chúi sâu đến 1m và có thể sống ở đó hằng chục giờ. Tong ao cá thích sống ẩn ven bờ, những nơi có hang hốc, rong cỏ, thực vật thủy sinh thượng đẳng làm giá đỡ. Khả năng thích ứng: Cá sống được trong môi trường nước phèn pH:5 và • nước lợ có nồng độ muối 15%o, sống được trong nước có điều kiện Oxy thấp và ngay khi chui rúc trong bùn nhiều giờ nhờ có cơ quan hô hấp phụ. Nhiệt độ chịu đựng được là 15 - 41,5oC, nhiệt độ thích hợp từ 26 - 32oC. Dinh dưỡng: Cá bống tượng ăn động vật. đây là loài cá dữ điển hình. • Thức ăn chủ yếu là tôm, tép, cá nhỏ, cua, ốc... Khác với cá lóc, cá bống tượng không chủ động bắt mồi mà chỉ rình mồi. Ngoài ra chúng còn ăn được thức ăn chế biến khi nuôi trong lồng và ao. Sinh trưởng: Cá bống tượng có tốc độ tăng trưởng chậm, đặc biệt ở giai • đoạn trọng lượng thân dưới 100gr. Từ 100gr trở lên tốc độ tăng trưởng của cá khá hơn. Sau 1 năm nuôi cá có thể đạt từ 100 -300gr/con. Cá thương phẩm trọng lượng thân đạt từ 400gr trở lên. Cá có trọng lượng thân 100gr cần 5-8 tháng nuôi ở ao và 5 -6 tháng nuôi ở bè để đạt trọng lượng thương phẩm. Sinh sản: Cá bống tượng thành thục sinh dục trên dưới 1 năm. Mùa vụ • sinh sản tự nhiên từ tháng 4-11, tập trung từ tháng 5-8. Sức sinh sản khá cao từ 100.000 - 200.000 trứng/kg cá cái. Tuy sức sinh sản cao, nhưng trong tự nhiên cá bị hao hụt nhiều. 1.15. Cá Trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus) Phân bố: Cá trắm cỏ phân bố tự nhiên ở các sông hồ miền Trung Á, đồng • bằng Trung quốc, đảo Hải Nam, miền trung và hạ lưu sông Amua. Ở Việt Nam đã tìm thấy cá trắm cỏ ở sông Hồng tại Hà Nội và sông Kỳ Cùng (Lạng Sơn). Hiện nay cá trắm cỏ được di giống đến 50 nước trê thế giới. Cá thích sống ở tầng giữa và tầng dưới vùng ven bờ, nơi có nhiều rong cỏ thủy sinh. Khả năng thích ứng: Cá trắm cỏ có thể sống trong môi trường nước lợ với • nồng độ muối 7-11%o. Cá có chiều dài 5-7cm, chịu đựng rất lớn với điều kiện môi trường thay đổi như nhiệt độ tăng 4-22oC từ 2-3 giờ và nồng độ Oxy thấp từ 3-7mg/l thì ít bị ảnh hưởng. Dinh dưỡng: Sau khi nở cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng, 3 ngày sau khi • nở cá ăn động vật phù du như luân trùng, ấu trùng không đốt và một số tảo hạ đẳng, ấu trùng giáp xác, ấu trùng cô trùng cỡ nhỏ. Cá dài 2-3cm bắt đầu ăn một ít mầm non thực vật thượng đẳng, bèo tấm, rong, rau bèo thái nhỏ. Khi đạt chiều dài thân 10cm, cá ăn chủ yếu là thực vật thượng đẳng ở nước và trên cạn như cá trưởng thành. Ngoài ra cá còn ăn cám, bột ngũ cốc, động vật như giun đất... Sinh trưởng: Cá trắm cỏ nếu nuôi tốt sẽ đạt 1kg/con sau 1 năm nuôi, 2 • tuổi có thể đạt từ 2-9kg, 3 tuổi nặng 9 -12kg/con.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2