intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình văn học phương tây III - 1

Chia sẻ: Nguyễn Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:37

207
lượt xem
67
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Marquez sinh ngày 6 tháng 3 năm 1928 là một nhà văn người Colombia nổi tiếng. Ông còn là nhà báo và một người hoạt động chính trị. Nổi tiếng với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả (El amor en los tiempos del cólera), Mùa thu của vị trưởng lão (El otoño del patriarca), Tướng quân giữa mê hồn trận (El general en su laberinto) và hơn cả là Trăm năm cô đơn (Cien años de soledad), García Márquez là một đại diện tiêu biểu của nền văn học Mỹ La tinhh. Tên tuổi của ông gắn liền với chủ nghĩa hiện thực huyền...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình văn học phương tây III - 1

  1. ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM Phùng Hoài Ngọc VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY 3 (thế kỉ XX) Mã số học phần: HOL 516 LƯU HÀNH NỘI BỘ AN GIANG 1. 2010 1
  2. MỤC LỤC VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY 3 [Mã số học phần: HOL 516] Lời giới thiệu (trang 2) PHẦN 1. VĂN HỌC TÂY ÂU THẾ KỈ 20 (trang 4) 1.1 Văn học hiện sinh chủ nghĩa (trang 5) 1.1.1. Nhà văn Albert Camus (trang 6) 1.1.2. Nhà văn Frank Kafka (trang 21) 1.2. Nhà thơ, nhà soạn kịch Bertolt Brecht (trang 37) 1.3. Nhà viết kịch Bernard Shaw (trang 63) 1.4. Nhà thơ, nhà tiểu thuyết Louis Aragon (trang 93) PHẦN 2. VĂN HỌC MỸ THẾ KỈ 20 (trang 117) 2.1. Khái quát văn học Mỹ thế kỉ 20 và một số tác giả (trang 117) 2.2.Vài nét văn học Mỹ sau Thế chiến II và một số tác giả (trang 132) 2.3. Nhà văn Ernest Hemingway (trang 143) PHẦN 3. VĂN HỌC MỸ LA TINH (trang 171) 3.1. Khái quát sự hình thành châu Mỹ và Mỹ La tinh (trang 172) 3.2. Hai dòng văn học Mỹ La tinh (trang 175) 3.3. G.G Marquez và 2 tác phẩm tiêu biểu (trang 184) PHỤ LỤC 1. Về ảnh hưởng của văn học Mỹ La tinh ở Việt Nam (trang 199) 2. Về “chủ nghĩa hiện đại” (trang 202) 3. “Cụ già có đôi cánh khổng lồ” truyện ngắn của G.G Marquez (210) Tài liệu tham khảo (trang 216) 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Văn học Âu-Mỹ thế kỉ 20 phát triển rất đa dạng phong phú, bên cạnh những thành tựu được công nhận còn có nhiều thể nghiệm. Mặt khác, văn học Âu Mỹ lại phát triển theo những khuynh hướng chính trị đa dạng, thậm chí đối lập nhau để rồi đến cuối thế kỉ mới đi vào sự hoà nhập. Nền văn học Liên Xô và các nước Đông Âu, Cuba…theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh sự khô cứng trì trệ cũng đóng góp cho lịch sử văn học nhân loại những thành tựu mới mẻ, tiến bộ, có ảnh hưởng nhất định đến chân dung nền văn học nhân loại. Phần đóng góp cơ bản của Văn học Nga Xô viết được trình bày riêng trong Giáo trình Văn học Nga với một học phần. Văn học Pháp với Louis Aragon, nhà văn cộng sản tiền phong ở Tây Âu bên cạnh các nhà văn hiện sinh Jean P.Sartre, Albert Camus… Văn học Đức với nhà thơ, nhà soạn kịch cộng sản Bertolt Brecht. Văn học Ailen có nhà tiểu thuyết “mới” James Joyce, nhà soạn kịch Samuel Beckett Văn học Tiệp có Frank Kafkaz (hiện sinh chủ nghĩa & hiện thực phê phán) Văn học Anh có nhà soạn kịch Bernard Shaw, chủ yếu viết hài kịch và phúng thích Văn học Mỹ La tinhh có G.G.Macquez dẫn đầu dòng văn học “hiện thực huyền ảo”. Văn học Hoa Kỳ với Ernest Hemingway, J.London, O’Henry là các nhà văn hiện thực lớn Theo khuynh hướng tự do, các nước Tây Âu và Mỹ bung ra nhiều khuynh hướng văn học trong đó phần lớn “sớm nở tối t àn”. Tuy vậy, nó cũng để lại một số thành tựu nghệ thuật đáng kể mang dấu ấn thế kỉ XX. Giới nghiên cứu văn học đã khái quát tư tưởng nghệ thuật của khu vực này là CHỦ NGHĨA HIỆN ĐẠI. Đây là thuật ngữ để chỉ chung các trường phái văn học nghệ thuật phương Tây hiện đại như: chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa t ượng trưng, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, tiểu thuyết dòng ý thức, tiểu thuyết mới… Chủ nghĩa hiện đại là một trào lưu triết học-mỹ học-văn nghệ của thế kỉ 20 phản ánh sự khủng hoảng hệ ý thức tư bản và sự t ìm tòi thể nghiệm. Cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa hiện đại là triết học Nietche, Bergson, Hussell, Freud, Kierkegor, Heideger…Cuối thế kỷ một số khuynh hướng mới hợp thành chủ nghĩa hậu hiện đại biểu hiện sự trăn trở bức xúc về phương pháp trong văn học Tây Âu… Tất cả những “chủ nghĩa” và học thuyết này đều mang tính chất chủ quan chủ nghĩa nhằm đối lập với chủ nghĩa duy lí của t ư duy tư sản trong việc nhận thức thực tiễn. Về nguyên tắc mỹ học, chủ nghĩa hiện đại đã phủ nhận chủ nghĩa hiện thực trong văn học nghệ thuật. Nó cho rằng chủ nghĩa hiện thực đã bị vượt qua và không còn phù hợp với thế giới hiện đại. Nó gạt bỏ việc t ìm hiểu nhận thức cuộc sống qua sự nghiên cứu các quan hệ hiện thực giữa con người với xã hội và giữa con người với nhau. Ở phương Tây, “chủ nghĩa hiện đại” được đồng nhất với khái niệm “cách mạng nghệ thuật” dù sao cũng đã làm phong phú thêm hệ thống phương pháp sáng tạo hình tượng như “dòng ý thức, độc thoại nội tâm”, sự lắp ghép các liên tưởng, sự tương giao của kí ức… 3
  4. Tuy nhiên, những phương tiện mới ấy đã manh nha từ thế kỉ 19 do các nhà văn hiện thực và đến nay họ vẫn tiếp tục thể nghiệm ở thế kỉ 20. Chỉ khác nhau ở chỗ, các nhà văn hiện thực thì dùng những cái đó để nghiên cứu, thể hiện con người một cách sâu sắc, đa dạng hơn, còn các nhà văn hiện đại chủ nghĩa lại dùng chúng để thể hiện tư tưởng về sự tuần hoàn vô nghĩa của kinh nghiệm đời sống, sự bất lực của cá nhân trong việc đối lập với số phận của mình - thực chất là cách tiếp cận hình thức chủ nghĩa với cuộc sống. Họ quan niệm thi pháp chỉ là cách xây dựng một hiện thực nghệ thuật không có liên hệ với hiện thực khách quan. Thực chất là họ chối bỏ trách nhiệm của nghệ thuật trong mối quan hệ với xã hội và lịch sử. Trong tài liệu này, chúng tôi giới thiệu một số tác gia Tây Âu tiêu biểu. Riêng nền văn học Mỹ thế kỷ này được giới thiệu toàn cảnh với trung tâm là Ernest Hemingway. Phần văn học Mỹ La tinh cũng được đưa vào theo yêu cầu học phần mới, cung cấp một hiện tượng văn học mới (nửa sau thế kỷ XX) đã từng gây ảnh hưởng khá mạnh đến văn học toàn thế giới trong đó có văn học Việt Nam đương đại. Biên giả 4
  5. PHẦN 1. VĂN HỌC TÂY ÂU THẾ KỈ 20 Một số sự kiện lớn trong bối cảnh thế kỉ 20 Thế kỷ 20 chứng kiến những sự kiện tầ m vóc lớn lao chưa từng có trong lịch sử nhân loại, lần lượt như sau: Cuộc chiến tranh T hế giới thứ 1 (1914-1917) Các nước đế quốc phân chia lại lãnh địa thực dân… Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ (10.1917), Liên Xô ra đời. Phong trào đấu tranh giành độc lập Á, Phi, La… Chiến tranh Thế giới thứ 2 (1939-1945). Hệ thống xã hội chủ nghĩa mở rộng. Tình trạng đối đầu ý thức hệ XHCN và TBCN, gây ra chiến tranh “lạnh” ảnh hưởng toàn thế giới, kéo dài từ 1945 đến khoảng 1990. Chiến tranh Việt Nam trong khoảng 1945 đến 1975. Đầu thập kỷ 90, sự sụp đổ thể chế Liên Xô đưa thế giới vào thời kỳ hòa nhập, giao lưu Trong thế kỷ XX, hai cuộc chiến tranh thế giới đã gây tác động tâm lý mạnh mẽ nhất đến tình hình văn hóa nhân loại, trong đó văn học là loại hình nghệ thuật nhạy cảm và tiên phong nhất. Các sự kiện trên tác động trực tiếp khiến cho văn học nghệ thuật Tây Âu có nhiều trăn trở và thể nghiệm.  5
  6. 1.1 CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ VĂN HỌC HIỆN SINH CHỦ NGHĨA Chủ nghĩa hiện sinh là một triết học duy tâm chủ quan, phát triển mạnh mẽ từ sau Đại chiến thế giới II ở hầu khắp các nước tư bản chủ nghĩa và gây nhiều tác hại về tư tưởng và đời sống thực tiễn. Người khởi xướng triết học hiện sinh là S.A.Kierkegor (1813- 1855)- nhà triết học Đan Mạch, người xây dựng những “phạm trù” hiện sinh, cái phi lý, lo âu, tuyệt vọng… Đầu thế kỉ 20, E.Hussel (1859-1939) nhà triết học Đức, đề ra một phương pháp luận duy tâm, hiện tượng học, phù hợp với quan niệm bi đát về con người của Kieckego. Và nhà triết học Pháp J.P.Sartre với những “phạm trù hiện sinh” và hiện tượng học đã xây dựng một triết học hiện sinh ho àn chỉnh. Triết học hiện sinh từ đó lan tràn sâu rộng khắp “thế giới tự do” Trong tư tưởng triết học của họ, không có được sự thống nhất và nhất quán. Có người hữu thần, có người vô thần, họ chỉ có sự giống nhau là tư tưởng bi quan sâu sắc về con người và cuộc sống. Họ cho rằng trong thế giới ng ày nay, mọi giá trị tinh thần đang mất hết, nghĩa là không thể bù đắp được. Điều đó sẽ dẫn tới tấm t hảm kịch truyền kiếp của “thân phận con người”. Kieckego trong học thuyết về tội lỗi của con người ở “một thời đại mất Chúa”- thực chất là sự mất ý nghĩa cuộc sống- đã cho rằng, con người đang bị bỏ rơi với nỗi cô đơn, giữa cuộc sống đầy thù nghịch, cuộc đời chỉ là sự vô nghĩa. Sự vô nghĩa sinh ra từ sự đối chiếu giữa lời kêu gọi của con người và sự im lặng của cuộc đời” (Albert Camus). Để khắc phục t ình trạng ấy, các nhà hiện sinh chủ nghĩa kêu gọi con người quay về với cá nhân mình, về với cuộc sống con người đích thực (hiện sinh). Mỗi người là một con người cụ thể, một thế giới riêng biệt tách rời khỏi thế giới chung. Con người “bị vứt vào cuộc sống chung” trong t ình thế không có tự do lựa chọn. Con người sinh ra mang lo âu trong mình, nó phải sống, nó phải lựa chọn, phải dấn thân để tạo cho mình cuộc sống con người tự do. Nó phải dựa vào cái mình có để không ngừng nâng mình lên, để tự do sáng tạo ra bản thân mình bằng mỗi hành động của mình, tự do mang đến cho sự sinh tồn của mình một ý nghĩa và để trở thành cái mà trước đây mình không phải như thế (J.P.Sartre). “Dấn thân” và “nhập cuộc” chỉ là quan niệm và hành động tự do sáng tạo ra con đường “riêng” của mình như một sự cần thiết phải lựa chọn bản thân mình trong những tình huống bên bờ vực thẳm đầy bi kịch, bất chấp tiêu chuẩn đạo đức, không tính đến động cơ thôi thúc và hiệu quả cuối cùng. Họ hành động chỉ vì cá nhân mình và sự tự vượt mình. Trong giai đoạn giữa thế kỉ 20, chủ nghĩa hiện sinh có ý nghĩa chống đối chủ nghĩa phát xít, song nó cũng chống lại chủ nghĩa xã hội khá quyết liệt. Thực chất nó là một tư duy siêu hình, phản kháng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phần lớn các nhà triết học hiện sinh đồng thời là các nhà văn với nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch. Như J.P.Sartre, A.Camus, Simon de Bovoir (Pháp)…họ đã viết văn để phát triển, giải thích và tuyên truyền học thuyết hiện sinh, tạo ra một trào lưu văn học có ảnh hưởng ở châu Âu. Văn học hiện sinh chủ nghĩa chứa chất đầy mâu thuẫn nội tại sâu sắc đến mức không thể giải quyết và tất yếu đi đến chỗ bế tắc ở cuối những năm 50. Đề t ài chủ yếu của họ là “cái phi lí, cuộc sống lo âu, tự do, dấn thân, nổi loạn…”. Những tác phẩm tiêu 6
  7. biểu là “Buồn nôn, Bức tường, Ruồ i, Những bàn tay bẩn….” của J.P.Sartre. “Bệnh dịch hạch, Người xa lạ, Ngộ nhận, Lưu đày và Quê nhà…” của A.Camus…, “ Biến dạng, Vụ án” của Frank Kafkaz. Nhà văn Albert Camus (1913 – 1960) 1.1.1 Cuộc đời và sự nghiệp Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một làng ở Constantinois, gần Bône xứ Algérie (thuộc địa Pháp). 1914: Cha là Lucien Camus công nhân làm rượu, đi nghĩa vụ quân dịch trong Đại chiến I, bị thương rồi chết tại nhà thương Saint-Brieuc lúc 28 tuổi, một năm sau khi Camus ra đời. Lớn lên dưới sự chăm sóc của mẹ. Mẹ ông, Cather ine Sintès, người gốc Tây Ban Nha, phải đi giúp việc để kiếm tiền nuôi hai con trai Lucien và Albert. Mẹ thương con nhưng không nói chuyện với nhau vì bà gần như điếc và không biết chữ. 1923-1924: Khi lãnh giải Văn chương năm 1957, ông đã tỏ lời cám ơn thầy Louis Germain dạy lớp 5, nhờ thầy mà ông được tiếp tục học lên. Thầy Louis Germain đã tình nguyện dạy kèm ông và thuyết phục gia đình cho ông thi tuyển học bổng vào trường Trung học Bugeaud d'Alger năm 1924. Camus là một cậu bé vui vẻ sống, yêu biển và phong cảnh Algérie, bơi rất tài và thích đá bóng. 1930: Ông chớm mắc bệnh lao. Học Triết tại trường Ðại học Alger 1932: Giáo sư Jean Grenier quan t âm hướng dẫn Camus nghiên cứu triết học. 1933: Bắt đầu hoạt động chính trị, gia nhập Đảng chống phát xít 1934: Vào Đảng Cộng sản Pháp. Cưới Simone Hié nhưng họ chia tay nhau sau 2 năm. 1935: Albert bắt đầu viết tác phẩm L'Envers et l'Endroit (Mặt trái và mặt phải) và xuất bản hai năm sau đó. Li khai và ra khỏi Đảng, mở đầu cho sự “tự sát triết học” đối với nhà văn. Sau khi ra khỏi Đảng Cộng sản Pháp, ông dần chuyển hướng sang một con đường khác: phê phán nhược điểm của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản. 1936: Sau khi học xong cử nhân Triết, ông chuẩn bị bằng Cao học với đề t ài "Les rapports du néoplat onisme et de la métaphysique chrétienne" (Sự liên quan giữa Thuyết laton mới và tính siêu hình của Ki Tô giáo) 1937: Bệnh lao đã không cho ông lấy bằng thạc sĩ. 1938: Cộng tác với báo Người Cộng hòa Angiê, viết vở kịch Caligula 1940: Cưới vợ lần hai, ở Angiê, ông bị chính quyền thực dân theo dõi nên quyết định trở về nước Pháp, làm việc ở báo Pari buổi chiều, tháng V.1940 viết xong Người xa lạ, 1941: Viết xong Huyền thoại Xiziphơ 1944: Tham gia vào tổ chức cách mạng chiến đấu chống bọn phát xít Đức xâm lược và chính quyền hợp tác với chúng, làm chủ bút và viết xã luận cho báo Chiến đấu. 7
  8. 1945: Vở kịch Caligula được trình diễn, Camus tích cực hoạt động ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, tố cáo nhà cầm quyền Pháp đàn áp dã man các cuộc nổi dậy của nhân dân đảo Mađagaxca. 1947: Cho ra đời tác phẩm Dịch hạch. 1948: Vở kịch Vây hãm 1949: Vở kịch Những bậc chính nhân 1950: Bệnh lao tái phát 1951: Xuất bản Con người nổi loạn 1956: Xuất bản tiểu thuyết Sụp đổ, dựng vở kịch Kinh cầu nguyện cho một nữ tu sĩ 1957: Tập truyện Lưu đày và vương quốc, tiểu luận Suy nghĩ về án tử hình Ngày 10.12.1957: được tặng giải Nobel về văn chương, giải thưởng biểu dương toàn bộ tác phẩm của ông “đã đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra trước ý thức của nhân loại ngày nay” Ngày 4.1.1960: Camus bị thương nặng do tai nạn ô tô và qua đời. Camus đã trải qua một cuộc sống đầy khó khăn bất trắc, có khi ông vượt qua được, nhưng có khi ông cũng đành chịu khuất phục. Sống ở một thời đại có nhiều biến cố phức tạp, trong những thời kì khủng hoảng của một nước tư bản phát triển, Camus thường dao động và thay đổi lập trường chính trị, bộc lộ một sự mâu thuẫn thế giới quan phức tạp. Trong vòng hai mươi năm sau Đại chiến II, Camus và Xactơrơ là “hai người thầy tư tưởng” của nhiều thanh niên Pháp. Họ là những nhà triết học và những nhà văn của một lớp người vừa bàng hoàng ra khỏi cơn bão táp chiến tranh phát xít, mất lòng tin vào con người, khát vọng ảo tưởng về tự do đích thực. Triết luận về cái phi lí Camus và nhiều nhà văn hiện sinh khác ở Pháp đã thể hiện nỗi lo âu, sự sợ hãi của thân phận con người trước bao nhiêu biến động và tai ương trong nửa đầu thế kỉ XX ở phương Tây. Trong số các nhà văn thuộc các khuynh hướng khác nhau của chủ nghĩa hiện sinh, Camus không phải là một nhà triết học, nhưng lại xây dựng một lí thuyết độc đáo, lí thuyết hiện sinh phi lí, nói về ý nghĩa của “hiện sinh” và “thân phận con người” - Đề cao cái tôi bề sâu và thâm nhập thế giới tâm linh bằng trực giác, “thờ phụng cái tôi”. - Tuy đề cao trực giác nhưng không hoàn toàn phủ nhận lí tính, nhờ lí tính mà nhận ra thế giới, cuộc đời là phi lí. - Cái phi lí ấy không phải là lời mời gọi đi vào chủ nghĩa hư vô, mà là lời mời gọi đi tới việc can đảm nhận lãnh trách nhiệm ở đời. Cuộc đời đã phi lí thì con người phải tìm cách chiến thắng nó bằng cách sống hết mình trong sự thụ cảm cái phi lí ấy, bằng cách sống mà không cần hi vọng, hành động mà không cần định rõ động cơ và lường trước hậu quả. - Con người cần thể hiện niềm kiêu hãnh và quảng đại của mình. 8
  9. - Cái phi lí diễn ra giữa bao nhiêu sự việc vây bủa con người, cái phi lí lộ nguyên hình qua sự xung đột giữa cái dơ dáy của cuộc sống và sự mong muốn trong sạch bắt nguồn từ tuổi ấu thơ. Cần can đảm sẵn sàng gợi ra mọi nỗi cùng cực xấu xa của đời sống, nhưng lại nên khước từ mọi hi vọng vì hi vọng chỉ là một ảo ảnh quá dễ dãi. - Ở bên kia điều ảo ảnh, ở bên kia sự tuyệt vọng vẫn ngự trị cái ý chí sinh tồn một sự cao quí nào đó của con người - Camus triết luận về thân phận con người: “Chính trong thế giới này mà tôi đáp lại cái phi lí bằng sự nổi loạn của tôi, tự do của tôi và sự say mê của tôi. Chỉ bằng hoạt động của lương tâm , mà tôi biến đổi cái gì đó mời mọc đến cái chết thành quy tắc sống, và tôi khước từ sự tự vẫn”. - Sự nổi loạn có ý nghĩa chống lại thế giới phi lí, là sự nổi loạn của cá nhân có tính chất siêu hình và vô nguyên t ắc, là sự thách thức cái phi lí cùa đời người. Lí thuyết hiện sinh phi lí của Camus chứa chất đầy mâu thuẫn + Có thể có một số mặt nào đó ít nhiều tích cực với ý nghĩa phê phán sự sa đọa và những bế tắc, sự tàn bạo và những bất công của xã hội tư bản. + Nhưng nhìn tổng quát, nhiều tác phẩm của ông thể hiện một lí thuyết hàm hồ, ngụy biện, phản ánh tâm trạng của một thế hệ khắc khoải tr ước định mệnh, đi tìm kiếm trong những cơn sóng gió của lịch sử một ảo ảnh tự do đích thực, khi họ bị dồn tới chân tường, đối diện với sự tra tấn hay chết chóc Văn học đặt cơ sở trên sự phi lí của đời người, trên sự bi thảm của hành động và ý nghĩa đời sống chắc chắn không có t ương lai. Triết luận về cái phi lí của thân phận con người dần dần bị sóng gió lịch sử xua tan. Thiên hạ sẽ dần dần bớt lưu tâm đến những khắc khoải siêu hình, và cho dù còn đơn độc trước vấn đề trách nhiệm, con người phải t ìm cách giải quyết tích cực hơn. Chuyển biến qua ba giai đoạn sáng tác Tính chất bi quan, khước từ mọi hi vọng toát ra từ triết luận về cái phi lí của Albert Camus. Triết luận ấy chia ra làm ba giai đoạn và qua ba giai đoạn sáng tác đó, các tác phẩm của ông đã phản ánh những mâu thuẫn t ư tưởng phức tạp, sự chuyển biến tư tưởng liên tục, thể hiện rõ tư tưởng hiện sinh phi lí từ thời t ìm đường đầu tiên cho đến khi nhận thức chín muồi. Khát vọng về sự hoà hợp với thế giới trong những tiểu luận đầu tiên (1936 – 1939) Giao cảm gồm 4 tiểu luận viết vào những năm 1936 – 1937 + Giao cảm ở Tipaxa + Gió ở Djemila + Mùa hè ở Alger + Sa mạc Những trang giao cảm ghi lại những suy t ư và khát vọng buổi đầu của tác giả về sự hoà hợp giữa con người và tạo vật. Camus cũng bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn của mình khi suy tư về cuộc sống. Mâu thuẫn làm cho tác giả nhận ra điều phi lí là khát vọng hạnh 9
  10. phúc, tình yêu cái đẹp của con người lại vấp phải sự giới hạn của đời sống. Nhưng con người vẫn ham sống khi đang đi dần đến cái chết. Mùa hè (1939 – 1953) gồm 8 tiểu luận tiếp tục chủ đề của Giao cảm: Con quỷ hung dữ, hay sự dừng lại ở Oran, Những cây hạnh, Prômêtê dưới địa ngục, Hướng dẫn nhỏ cho những thành phố không quá khứ, Sự lưu đày của Hêlen, Điều bí ẩn, Trở lại Tipaxa, Biển gần nhất. Những trang mùa hè ca ngợi t ình yêu thiên nhiên, tình yêu vẻ đẹp muôn màu của thế gian và sự đam mê hạnh phúc của con người. Có tiểu luận viết trong giai đoạn sáng tác sau nêu lên những ưu tư khi tác giả nhận ra cái phi lí của cuộc sống mà vẫn tìm thấy cái ý vị của cuộc sống. Bề trái và bề mặt (1937) gồm 5 tiểu luận: Sự khôi hài, Giữa Vâng và Không, Cái chết trong tâm hồn, T ình yêu cuộc sống, Bề trái và bề mặt. Tập tiểu luận này bộc lộ nỗi lo âu, sự mất lòng tin vào cuộc sống, vẽ ra hình ảnh con người vĩnh viễn phải chịu đựng nỗi cô đơn và cái chết. Tác giả đang mò mẫm t ìm đường vào một thứ “tư duy hoang dại”, một thứ “triết lí chủ thể” riêng của Camus trong dòng hiện sinh Chủ đề cái phi lí từ “Huyền thoại Xiziphơ” đến “Dịch hạch” (1940 – 1947). Bước sang giai đoạn sáng tác này, khát vọng về sự hòa hợp giữa con người và thế giới đã đổ vỡ, nhường chỗ cho triết luận về cái phi lí của đời ng ười. Huyền thoại Xiziphơ (1942): Camus kể lại chuyện trong thần thoại Hy Lạp về nhân vật Xiziphơ phạm tội tố cáo thượng thần Zơx nên phải chịu hình phạt đẩy một hòn đá nặng từ chân núi lên đỉnh núi dưới âm phủ. Khi sắp tới nơi thì Xiziphơ đuối sức và hòn đá lại lăn tuột xuống chân núi, Xiziphơ phải chạy theo và tiếp tục đẩy hòn đá lên, rồi hòn đá lại lăn xuống. Cứ thế Xiziphơ phải vật lộn mãi với tảng đá lên xuống không ngừng. Không có hình phạt nào khủng khiếp hơn là một công việc vô ích và vô hi vọng. Tiểu luận này đã nêu lên ý niệm về sự phi lí và mối tương quan giữa sự phi lí và sự tự hủy diệt cuộc sống. Cuộc đời đáng sống hay không đáng sống một khi con người nhận thấy giữa cái thế giới bên ngoài và niềm khát vọng hạnh phúc chính đáng có một cái hố thẳm ngăn cách. Camus triết luận: “Khi con người nhận ra sự phi lí thì lại cần duy trì nó bằng một sự cố gắng sáng suốt, cùng lúc chịu đựng nó để khỏi phải k hước từ cuộc sống. Những hành động chống đối, đòi hỏi tự do, đắm mình trong dục vọng của con người chỉ là hậu quả của cái phi lí đó. Bị cái chết lúc nào cũng ám ảnh, nhưng con người vẫn bùng lên sự ham muốn được sống trong một thế giới mà quy luật sẽ dẫn đến sự hủy diệt. Đối với con người thì sự sáng tạo là dịp may mắn để giữ sao cho ý thức mình lúc nào cũng nhạy bén tiếp nhận những hình ảnh rực rỡ mà phi lí của cuộc đời” Làm một công việc vô ích và vô hi vọng thế mà Xiziphơ vẫn làm. Đó là điều phi lí. Xiziphơ suy tư: việc anh làm chỉ có thế, anh phải lấy nó làm vui. Anh ta thấy cái thế giới chật hẹp của anh là có ý nghĩa. Mỗi hạt bụi làm nên hòn đá và trái núi đầy bóng tối kia phải là một thế giới đầy hấp dẫn đối với anh ta. Việc làm tuy nhọc nhằn nhưng lại là một niềm vui. Hạnh phúc và cái phi lí là hai đứa con cùng một mẹ. 10
  11. Cuộc đời vui sướng của Xiziphơ là ở chỗ số phận của anh thuộc về chính anh khi tưởng chừng như anh ta hòan tòan bị lệ thuộc vào thần linh. Xiziphơ thách thức thần linh, khinh nhờn các thần linh, yêu sự sống, ghét cái chết, Xiziphơ ham mê chính cuộc sống phi lí ấy. Camus viết: “Loài người cũng vậy, phải lấy cuộc đời phi lí này làm vui, phải thấy cuộc đời là đáng sống, tuy nó cằn cỗi, đau khổ, mất nhịp nhàng, vô nghĩa. Hãy cho ta cuộc đời ấy, hãy chấp nhận một cách kiêu ãhnh cái “thân phận con người mỏng manh”. Hãy thách thức cái phi lí của đời người. Trong sự chống đối lại cái quyền uy tột đỉnh của thần linh, việc làm tự nó đã có một phần thưởng xứng đáng. Ta phải t ưởng tượng Xiziphơ là một người sung sướng”. “Người xa lạ” - tiểu thuyết đầu tiên của Camus (1942) Nhân vật chính: Mơcxôn, xưng “tôi” để kể chuyện Mơcxôn là một viên chức nghèo sống bình thường ở Angiê. Được tin mẹ chết trong một trại an dưỡng, anh về đưa tang. Đến nơi, anh không nhìn mặt mẹ lần cuối cùng. Anh không thức để canh quan tài của mẹ mình. Anh thấy thờ ơ và mệt mỏi với những người khóc thương mẹ. Hôm sau, trên đường đến nghĩa trang, anh dửng dưng đi lẫn vào đám người đưa tang mẹ. Anh thấy khó chịu khi trời nóng bức. Trở về Angiê ngay chiều hôm ấy, anh đi chơi với Mari. Từ đó hai người yêu nhau. Mari muốn làm lễ cưới, còn anh thì chẳng quan tâm đến việc đó. Đi chơi với mấy người bạn trên bãi biển, gặp một toán thanh niên Ảrập, gây sự rồi đôi bên ẩu đả nhau, bạn của Mơcxôn là Raymông bị một thanh niên Ảrập đâm bị thương nhẹ. Trưa hôm đó, anh gặp lại người thanh niên Ảrập ấy nằm phơi nắng trên bãi biển, anh tiến dến gần hắn ta, hắn đưa dao doạ anh. Lưỡi dao sáng loáng làm anh chói mắt. Anh choáng váng, rút súng lục bắn chết hắn. Bị bắt giam rồi bị đưa ra toà, Mơcxôn vẫn dửng dưng như không có việc gì xảy ra. Trong tù, anh thấy cuộc đời vẫn bình thường. Ngày xử án, anh thấy khó chịu vì đám đông làm ồn ào xung quanh một câu chuyện “bình thường” như vậy. Bị kết án tử hình, anh vẫn thản nhiên và suy nghĩ: “Thì mọi người đều cho rằng cuộc đời có đáng sống đâu”. Anh từ chối vị linh mục vào thăm, vì anh không tin Chúa. Đến phút chót, lòng anh dịu xuống và anh bình thản chấp nhận định mệnh phi lí của mình. Nhân vật Mơcxôn bị kết án vì anh ta không nhập cuộc, anh ta xa lạ với xã hội nơi anh sống, anh lang thang, đứng bên lề, trong những khu phố của cuộc sống riêng hẻo lánh, một kẻ lạc loài. Vì điều gì mà Mơcxôn không nhập cuộc? Anh ta khước từ nói dối. Mơcxôn không muốn đơn giản hoá cuộc sống, anh ta nói điều gì vốn có, anh từ chối việc che giấu những tình cảm của mình và bỗng nhiên xã hội cảm thấy bị đe dọa. Mơcxôn không lên án sự áp bức xã hội, cũng không thử chống lại nó, anh ta tố cáo xã hội đó bằng sự từ chối lặng lẽ tỏ thái độ thách thức mà người ta chờ đợi ở anh ta. Mơcxôn chân thành và không lừa dối trong lĩnh vực tình cảm. Chẳng bao giờ anh ta dự cảm một điều gì mà anh không cảm thấy. T ình cảm đối với anh là thiêng liêng. Anh ta làm điều gì đó vì những t ình cảm của riêng mình. Anh thờ ơ với tất cả, với thực tại xã hội xung quanh. Trong cuộc sống khi quan hệ với những người tưởng là thân thiết nhưng biết đâu họ vẫn là những người xa lạ với bản thân mình. Anh xa lạ với mọi thứ kể cả yêu thương, hối hận, tôn giáo, pháp luật, nhà tù và cái chết. Thế mà anh lại lâm vào cái phi lí là không yêu thương mẹ mà còn thương người yêu Mari, thờ ơ với tất cả mà lại còn dùng súng giết người Arập, coi thường pháp luật và nhà tù nhưng rồi cũng phải ra hầu toà và chịu án tử hình. Mơcxôn nhận ra cái phi lí đó và đã dũng 11
  12. cảm đương đầu với cái phi lí. Nhân vật phi lí Mơcxôn đã thách thức đạo lí t ình thương mẹ con, thách thức pháp luật và nhà tù. Mơcxôn là một kiểu nhân vật hiện sinh đạt đến “tự do đích thực”. “Caliguyla” Vở kịch được trình diễn lần đầu tiên năm 1945 (bốn hồi, mỗi hồi hơn 10 cảnh). Caligula là vị hoàng đế trẻ tuổi thời La Mã cổ đại. Công chúa Đruxiza là em gái nhưng lại là nhân tình của Caligula .Các vị quí tộc nghị viện đều bàn tán xôn xao về việc công chúa vừa chết và Caligula bỏ đi đâu đã ba đêm nay, về tai họa loạn luân làm ảnh hưởng đến uy tín của Đế quốc La Mã. Ít lâu sau, hoàng đế trở về nói với các quí tộc là ngài muốn cái mặt trăng nhưng vì hiểu rằng “không thể có được cái mặt trăng” nên ông ta mệt mỏi. Các vị quí tộc than phiền đã ba năm qua, hoàng đế bắt họ chạy hằng đêm quanh kiệu loan của ngài và nhiều vị bị cướp tài sản, bị giết cha và bị cướp vợ con. Caligula ngày càng gây nhiều tội ác như tiết chế lối sinh hoạt trong cung điện, bắt quí tộc làm thay nô lệ, bắt quí tộc phải cười rộ một lúc, bắt vợ của quí tộc Muyxiuyx đến ăn nằm với mình vì “người ta chỉ có tự do khi giày xéo lên kẻ khác”. Caligula cùng với quí tộc Hêlicôn hoàn thành thiên khái luận về sự hành quyết có tính cách an ủi con người. Caligula buộc các công dân ra vào phố gái điếm và tạo ra một loại huy chương mới để thưởng cho ai đến ăn chơi đều đặn ở đó sau mười hai tháng. Ai không tuân lệnh sẽ bị trục xuất hoặc bị hành quyết. Caligula buộc tội quí tộc Mereia và giết ông ta một cách oan ức. Caligula biết Cherea đang mưu chuyện giết mình nhưng không thèm lưu tâm. Quí t ộc Xcipiôn quyết định nói sự thật cho Caligula biết, vạch trần tội ác của Caligula. Cherea và Xcipiôn chỉ huy các quí tộc sát hại Caligula. Caligula triệu tập các thi sĩ đến và bắt họ ứng khẩu làm thơ về đề tài cái chết, phải làm xong trong một phút. Caligula nhảy múa và bóp chết người t ình nhân già Cacxênia. Nhóm của Cherea xách kiếm xông vào đâm chết Caligula đang đứng trước gương soi. Sắp chết, Caligula vừa cười vừa rú lên: “ta vẫn còn sống”. Caligula và Mơcxôn cùng là loại “nhân vật phi lí”. Caligula là nhân vật đã thách thức một cách ghê gớm nhất sự phi lí. Cuộc đời là phi lí cho nên không thể ngoan ngoãn chấp nhận cuộc đời mà phải phá phách, đạp đổ bằng những hành động phi lí nhất. Caligula là một nhân vật khát máu, suốt đời hắn ước ao làm những điều không thể có được, bất chấp mọi luật pháp, mọi quan hệ xã hội, và như vậy hắn mới cảm thấy có hạnh phúc và không cô đơn. Nhân vật Cherea đối địch với Caligula nhưng cũng chấp nhận cái phi lí: “Ta tưởng rằng người ta có thể sống sung sướng được mà cũng chẳng thể sống được, nếu nhất mực xô cái phi lí vào mọi hậu quả của nó, mở rộng các cửa cho mọi tiềm lực của cái phi lí chạy tung ra ngoài, nếu khuyến khích nó phát triển hết tinh anh của nó thì còn chi là cuộc sống ?”. Nhà thơ trẻ Xcipiôn “thuần khiết trong điều thiện” cũng như Caligula là “thuần khiết trong điều ác” cũng t ìm thấy cái gì đó mình giống với Caligula: “Cùng một ngọn lửa đốt cháy trái tim chúng ta”. Ngọn lửa chung đó là gì? Phải chăng trong bạo chúa Caligula không có một chút gì mang ý nghĩa nhân văn? Nếu có thì chính cái phi lí của đời người là ở đó. Caligula nói: “Ta chịu chết dễ dàng, cũng như ta chịu sát nhân một cách dễ dàng… Ta càng suy ngẫm nhiều về điều đó, ta càng tin chắc rằng mình không phải là một bạo chúa đâu”. Caligula ra đời trong hoàn cảnh phát xít Đức hoành hành với tên đồ tể Hitler tàn bạo đã dựng nhiều lò thiêu người man rợ. Vì vậy có nhà phê bình đã xem vở kịch này thể hiện 12
  13. một tinh thần phản ứng – mà là phản ứng tiêu cực - trước thảm cảnh của đất nước bị chiếm đóng và tàn phá bởi Hitler. “Ngộ nhận”, vở kịch 3 hồi Câu chuyện xảy ra ở Tiệp Khắc. Nhân vật Jăng, khi trở về quê hương đã 30 tuổi. Anh bỏ nhà ra đi đã 20 năm, xa mẹ và em gái Macta. Phiêu bạt sang Châu Phi, anh lấy vợ là Maria đã năm năm. Sau khi có một gia tài khá lớn, anh t ìm về nhà cũ ở Bôhem mong đem lại hạnh phúc cho người thân. Để tạo sự bất ngờ anh đưa vợ đến ở một khách sạn gần nhà, còn anh đóng vai khách du lịch vào quán trọ của mẹ và em gái. Từ khi Jăng ra đi hai mẹ con đã mở một quán hàng để sinh sống. Hai mẹ con muốn có nhiều tiền để rời bỏ xứ Bôhem ảm đạm này. Khi một người khách giàu có đến trọ, hai mẹ con cho khách uống thuốc độc rồi đến đêm cùng với lão đầy tớ ném xác khách xuống sông. Lần này hai mẹ con không nhận ra Jăng vì xa cách quá lâu. Macta bàn với mẹ giết người khách này. Bà mẹ hôm nay mệt mỏi bồn chồn, muốn can ngăn Macta nhưng không được. Macta đã cho Jăng uống nước trà pha thuốc độc. Lúc Macta lục ví tiền thì bà mẹ nhận ra Jăng là con trai mình qua tấm hộ chiếu. Đau đớn quá, bà mẹ tự vẫn. Hôm sau Maria đến quán trọ t ìm chồng. Macta báo tin Jăng đã chết. Trước nỗi đau khổ cùng cực của Maria, Macta đã trở nên tàn nhẫn và dạy cho Maria phải biết đón nhận cái phi lí của đời người. Cuộc đời của họ thật không có gì đáng sống nữa nhưng họ vẫn sống, và chấp nhận cái phi lí. Qua vở kịch này, Camus muốn nêu lên những cảnh ngộ phi lí của cuộc đời. Bao nhiêu điều nhận lầm xung quanh ta dẫn đến những tai họa động trời, những đau thương khủng khiếp, gây nên chia lìa và tang tóc. Khát vọng của con người là điều chính đáng, khát vọng của Macta cũng chính đáng, thế mà cuộc đời cơ cực buộc hai mẹ con phải nhúng tay vào tội ác, thật là phi lí và đành chấp nhận cái phi lí. Biết mình ngộ nhận, bà mẹ quyết định đi t ìm cái chết sau khi bày tỏ bao nỗi xót đau: “Giữa một thế giới đảo điên, mọi sự phi lí cần phải từ bỏ và trên mặt đất này nơi không còn có cái gì chắc chắn cả, thì chúng ta có những điều xác thực của chúng ta. Giờ đây t ình thương của người mẹ đối với con mình là một điều xác thực của mẹ….Vâng, t ình thương cao đẹp vẫn còn đó sau hai mươi năm lặng im. Tình thương đó thật cao đẹp với mẹ bởi vì mẹ không thể sống bên ngoài tình yêu thương” Bà mẹ nhân danh t ình thương mà đi t ìm cái chết. Chính t ình thương đó đem lại hi vọng cho chúng ta vì bà còn tin vào giá trị của tâm tình và trần gian này chưa đến nỗi chỉ có điêu linh. Điều phi lí là bà mẹ càng làm nổi bật tính cách của Macta. Macta khô cằn về đời sống tâm t ình, đi đến cái chết với niềm cô đơn băng giá. Macta là trái tim nổi loạn khủng khiếp, là một người tàn nhẫn. Sau khi giết anh và mẹ chết, Macta nhận ra cái phi lí của đời sống, chấp nhận nó và thờ ơ với tất cả. Macta nói với Maria: “Sao lại khóc? Hãy trở về với phiến đá câm lặng. T ình yêu? Cái tiếng ấy nghĩa là gì? Chị nói một ngôn ngữ mà tôi không hiểu nổi? Tôi không biết đến những tiếng t ình yêu, vui sướng và đau khổ” (Cảnh 3, Hồi III). Macta là nhân vật phi lí biểu hiện một phương thức nổi loạn của Camus, là chất đá của trái tim, là băng giá trước khổ đau. Đó là chất triết luận thách thức điều phi lí trên đời của Camus. “Dịch hạch” (tiểu thuyết viết năm 1941, xuất bản 1947 sau chiến tranh). Thành phố Ôrăng đang sống yên lành, bỗng nhiên bệnh dịch xuất hiện. Những con chuột chết khắp nơi và người bị lây bệnh chết ngày càng nhiều. Chính quyền địa phương 13
  14. không dám gọi đúng tên bệnh đó là gì. Mãi đến lúc có quá nhiều người chết trong một ngày và triệu chứng dịch hạch quá rõ, chính quyền mới công bố lệnh cách li thành phố. Người chết thiếu đất chôn, ban đêm phải chở xác bằng tàu điện đi thiêu. Cố đạo Panơlu cố giảng cho con chiên yên lòng đón nhận “sự trừng phạt vì cơn giận của Chúa”. Ba nhân vật nổi bật trên bối cảnh chết chóc khủng khiếp, đó là bác sĩ Riơ, nhà báo Rămbe và nhà trí thức Taru. Bác sĩ Riơ cùng các bạn đồng nghiệp ngày đêm ra sức cứu chữa người bệnh, ngăn chặn bệnh dịch lan tràn. Đem hết tài trí của mình để cứu nhân dân thành phố, bác sĩ nhận ra ý nghĩa của đời mình. Nhà báo Rămbe và Taru, một trí thức ở Pari mới đến Ôrăng cũng tận tình giúp đỡ bác sĩ tổ chức những đội ý tế dân sự để chống dịch. Rămbe cho rằng, viện lí do này khác để rời Ôrăng là trốn trách nhiệm làm người và anh quyết định ở lại làm việc. Taru từ bỏ ý nghĩ xem mạng sống của người khác là trò chơi và tham gia tích cực công việc chống bệnh dịch hạch. Một hôm, bỗng nạn dịch rút lui, những con chuột biến mất. Những người sống sót tiếp tục cuộc sống bình thường. Nhưng cơn dịch bệnh hiểm nghèo có thể trở lại bất kì lúc nào. Bệnh dịch hạch ở đây là tượng trưng của chủ nghĩa phát xít hay rộng hơn là sự tàn phá khủng khiếp của mọi loại chiến tranh. Nhân vật trung tâm và người kể chuyện, đến kết thúc mới rõ ra là một, chính là bác sĩ Riơ. Ông tận tụy làm nhiệm vụ chăm sóc cho người bệnh trong hiện tại mà không dám tính chuyện to lớn là cứu rỗi linh hồn người cho cuộc sống mai sau, là thầy thuốc của thân thể mà không phải của linh hồn. Vì Thượng đế đã chết và đời người phó mặc cho tai ương, nên Riơ đã suy nghĩ và hành động thiết thực cho cuộc sống hiện tại trên trần thế của con người. Nhân vật Taru là con một phó chưởng lí. Anh đã từng thấy cha mình kết án tử hình một tù nhân. Anh đã đau lòng và từ bỏ gia đình ra đi, trở thành một nhà hoạt động chính trị và cũng đã từng chủ trương dùng bạo lực. Giờ đây anh đã suy nghĩ khác: “Tôi cảm thấy xấu hổ khi đến lượt tôi, tôi trở thành kẻ giết người…Tôi nhận ra một điều là, tất cả chúng ta đều ở trong nạn dịch hạch, và tôi đã mất sự yên lành…Người ta có thể là một bậc thánh không Chúa trời, đó là điều duy nhất cụ thể mà tôi nhận ra hôm nay”. Taru thể hiện lí tưởng nhân văn của tác giả. Cần t ìm con đường đi đến hòa bình bằng tình thương và sự đồng cảm và “ở đời không nên trở thành kẻ thù của ai cả”. Con người không còn tin ở Chúa trời nữa thì cần theo thứ triết lí không bạo lực. Từ việc căm ghét những bản án tử hình của luật pháp tư sản, Taru đi đến chỗ bác bỏ bạo lực nói chung, kêu gọi sự đồng cảm giữa người và người trong cuộc sống. Đó là tính chất ảo tưởng và phi lí của chủ nghĩa nhân văn Camus. Taru không muốn t ìm ra nguyên nhân của bệnh dịch để tiêu diệt nó mà chỉ dừng lại ở việc phủ định mọi thứ bạo lực như là nạn dịch hạch mà thôi. Nhân vật Rămbe là một phóng viên nhà báo qua công tác ở Ôrăng. Bất ngờ gặp bệnh dịch, cửa thành đóng, anh không trở về Pari được nữa. Anh xin phép quận trưởng về với người vợ đang chờ đợi. Ông khuyên anh ở lại viết phóng sự về bệnh dịch ở Ôrăng. Anh đổi ý kiến, xin ở lại chia sẻ khó khăn với dân thành phố. Tất cả sự cố gắng của ba nhân vật sẽ đi đến đâu? Họ chiến đấu “một cách tuyệt vời” và không phải họ đẩy lùi được bệnh dịch. Bệnh dịch tự nó rút đi và nó có thể trở lại không rõ nguyên nhân vì đâu! Điều phi lí là ở đó, là mâu thuẫn vĩnh viễn giữa con người và cuộc sống, giữa khát vọng hạnh phúc và thực tại đày đoạ thân phận con người. Nhiệt tình và 14
  15. lương tâm của ba nhân vật trí thức Riơ, Rămbe và Taru chỉ là vô vọng và phơi bày cái phi lí là bệnh dịch hạch sẽ trở lại bất cứ lúc nào. Đến năm 1958, Camus xuất bản vở kịch Vây hãm, tiếp tục đề tài bệnh dịch hạch và chủ đề về những tai họa bất ngờ giáng xuống con người. Con người đã can đảm chống lại nhưng làm sao diệt được tận gốc những tai hoạ khi không làm rõ nguyên nhân. Thắng lợi nhất định của nhân vật Điegô trong Vây hãm cũng như kết quả hạn chế của các nhân vật tích cực trong Dịch hạch làm cho người đọc nhận thấy cuộc chiến đấu chống bệnh dịch có tính chất nhân đạo và con người vẫn còn niềm hi vọng ở trên đời. Và Camus lập luận về cái phi lí xuyên thấm trong các tác phẩm của ông: “Con người phi lí thừa nhận đấu tranh, không coi thường lí tính một cách tuyệt đối, đồng thời cũng công nhận cái phi lí tính. Sống tức là làm cho cái phi lí sống. Làm cho nó sống tức là trước hết nhìn thẳng vào nó. Phi lí tức là lí trí sáng suốt đã nhận ra những hạn chế của bản thân” Từ “nổi loạn” đến “sụp đổ” trong chủ nghĩa nhân văn kiểu Camus (1950 – 1958) Sau Đại chiến II, Camus là nhân vật có ảnh hưởng rộng rãi ở châu Âu và Hoa Kì, của phái tả không cộng sản. Từ năm 1947 trở đi, Camus, qua nhiều bài viết trên báo Chiến đấu đã tỏ ra thù địch với Đảng Cộng sản. Trong thời k ì chiến tranh lạnh, ông muốn giữ một thái độ chính trị ôn hoà, khác với những người cộng sản và khác với phái Đờ Gôn. Mùa xuân năm 1948, ông ủng hộ đảng Tập hợp dân chủ cách mạng của Xact ơrơ có tính chất trung lập, nhưng ông không gia nhập đảng đó. Ông cắt đứt quan hệ với Xact ơrơ năm 1952 khi Xactơrơ có cảm tình với Đảng Cộng sản. Năm 1949, ông viết Con người nổi loạn, một tiểu luận triết học dài xuất bản năm 1951 với chủ đề xung quanh vấn đề giết người và nổi loạn mà xuất phát điểm là sự tự vẫn và khái niệm phi lí. Đây là một tác phẩm chính trị, luận về việc chọn lựa chính trị. Trong phần đầu, Camus chấp nhận sự nổi loạn của người ăn xin đi chân đất. Nhưng ông phủ định việc dùng roi vọt, và đặc biệt phủ định sự biện minh việc dùng roi vọt của thứ triết học lịch sử, đó là siêu nhân và chuyên chính của giai cấp vô sản. Đó là lập luận của Camus chống roi vọt, tức là chống việc sử dụng bạo lực cách mạng của những người cộng sản, chống chủ nghĩa cộng sản. Ngoài ý nghĩa trực tiếp về chính trị như vậy, Camus tiếp tục triết luận về cái phi lí qua vấn đề nổi loạn. Theo tác giả, lịch sử của nhân loại là lịch sử của một sự nổi loạn thường xuyên, một sự chống đối thường xuyên. Cơ sở của sự nổi loạn là bản chất con người. Bản chất “hiện sinh” là nổi loạn vì nó không tìm đâu ra chân lí. Lẽ sống của con người là nổi loạn. Ta nổi loạn thế là ta tồn tại. Sự nổi loạn có tính chất triết học. Trước hết, nổi loạn là chống lại thân phận của bản thân và sự tạo lập nói chung. Từ sự “nổi loạn triết học” đến “nổi loạn lịch sử”, Camus đã rút ra kết luận: “Người cách mạng đồng thời cũng là một người nổi loạn và khi họ đã nổi loạn thì cuối cùng họ sẽ quay lại chống cách mạng…Mọi người cách mạng cuối cùng đều trở thành người áp bức hay người điên. Trong thế giới lịch sử thuần túy mà chúng đã chọn, nổi loạn và cách mạng đều sẽ đi đến cái song đề hoặc là đàn áp hoặc là điên loạn” Camus kết luận con người nổi loạn là con người biết nhân danh những giá trị đã được toàn thế giới chấp nhận để nói: “không”. Qua sự phân tích trên Camus đã triển khai thuyết phi lí đến đỉnh cao là sự nổi loạn chống lại thân phận con người, chống lại mọi nền tảng của thế giới bên ngoài và chứng minh các trạng thái khác nhau của sự nổi loạn đó trong lịch sử. Kết luận của Camus không 15
  16. còn là những suy tưởng siêu hình mà đã biến thành một thứ lí luận kích động nổi loạn. Nổi loạn là bản chất, là lẽ sống của con người, vì con người luôn có “chất men phản kháng bất phục tùng” (Ăngđrê Git) Tính chất siêu hình của lí thuyết nổi loạn của Camus là không cần tìm nguyên nhân và hậu quả, không cần hiểu vì lợi ích của ai, của giai cấp nào. Nhận thức sai lầm đó đã dẫn ông đến những nhận định phủ nhận những giá trị vĩ đại của Cách mạng Pháp 1789 và Cách mạng Nga tháng Mười năm 1917. Vở kịch Những bậc chính nhân chủ đề chống bạo lực cách mạng dựa trên triết luận cái phi lí của Camus. Sự nổi loạn ở đây có tính chất cá nhân, không mang đầy đủ ý nghĩa một cuộc cách mạng chân chính. Ở đây không có sự tham gia của đông đảo công chúng với một lí tưởng cách mạng rõ ràng. Các nhân vật trung thực không điển hình cho những chiến sĩ hoạt động trong một tổ chức cách mạng. V ì vậy ý nghĩa của vở kịch có tính chất chống cách mạng một cách sâu sắc. Khuynh hướng của tác phẩm là phản đối bạo lực của cách mạng vô sản ở nước Nga năm 1905. Giữa 1952 và 1954, Camus viết sáu truyện ngắn sau này xuất bản với nhan đề chung Lưu đày và Vương quốc. Sáu truyện đó là: + Người đàn bà ngoại tình (1954) + Người khách trọ + Kẻ phản bội + Những người câm + Jônax + Đá mọc Các truyện ngắn này đều tiếp tục thể hiện cái chủ đề phi lí của cuộc đời, nhờ lí tính mà nhận ra cuộc sống là lưu đày nhưng điều phi lí là chấp nhận cuộc sống lưu đày như là vương quốc vậy. Trong giai đoạn sáng tác này, Camus còn viết ba tập Thời sự (bao gồm Thời sự I, Thời sự II, Thời sự III), tập tài liệu Sổ tay và cuốn tiểu thuyết cuối cùng là Sụp đổ. Có thể nói, tác phẩm Sụp đổ đã thể hiện tấn bí kịch bên trong, cái phi lí đi đến đỉnh điểm, dấu ấn của lương tâm, của ý thức đạo đức và chính trị của một lớp người cùng thế hệ với tác giả. Tấn kịch bên trong còn bị sức ép nặng nề của nỗi lo âu khi chưa t ìm ra lối thoát đúng đắn. Tư tưởng nhân văn ôn hòa, thỏa hiệp kiểu Camus xuyên thấm các tác phẩm từ Con người nổi loạn đến Sụp đổ đã dẫn đến sự bế tắc trong đời sống thực tại với bao điều nghịch lí chắc chắn sẽ không có tác dụng tích cực với các thế hệ đang trưởng thành của thời đại chúng ta. Quan điểm của Camus về nghệ thuật, nghệ sĩ và thời đại Đến Thụy Điển để nhận giải Nobel tháng 12.1957, Camus đã đọc hai bài diễn văn thể hiện rõ quan điểm của ông về nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng, về vị trí và trách nhiệm của nhà văn ở thời đại chúng ta. Camus trình bày quan niệm về nghề văn và vai trò nhà văn: “Bản thân tôi không thể sống không văn. Nhưng không bao giờ tôi đặt cái nghệ thuật đó lên trên tất cả… Đối với tôi nghệ thuật không phải là một lạc thú để hưởng riêng một mình. Nó là phương tiện để cảm xúc đông đảo quần chúng bằng những hình ảnh đặc thù về những nỗi đau thương chung và 16
  17. những niềm hoan lạc chung. Như vậy nó buộc người nghệ sĩ phải phục t ùng sự thực tầm thường nhất và đại chúng nhất…Nếu người nghệ sĩ có một lập trường phải xác định thì lập trường đó chỉ là lập trường xã hội, mà ở đấy kẻ ngự trị không phải là quan toà, mà là người sáng tạo, dù người đó là lao động hay trí thức” . Tuy còn mơ hồ khi nêu lên lập trường của một xã hội, nhưng quan điểm của Camus khá tiến bộ khi đề cao vai trò của người sáng tạo, là lao động hay trí thức. Camus bộc lộ mâu thuẫn khi nói tiếp về vai trò nhà văn: “Nhà văn không thể phục vụ những kẻ đang làm ra lịch sử, họ phục vụ những kẻ chịu đựng lịch sử. Nếu không thế, họ sẽ bị lẻ loi và tước mất cả nghệ thuật. Hai trách nhiệm khả dĩ làm nên sự cao quí cho nghề văn là phục vụ cho chân lí và cho tự do. Tính chất cao quí của nghề văn là bao giờ cũng bắt rễ sâu vào hai điều tâm niệm rất khó giữ là: không chịu nói man trá về điều mình biết và chống lại sự áp bức.” Một quan điểm tưởng chừng là tiến bộ nhưng lại rất mơ hồ. Ai là người làm ra lịch sử và ai là người chịu đựng lịch sử? Nội dung cụ thể của chân lí và tự do ngày nay là gì? Không chịu nói man trá và chống lại sự áp bức của ai đối với ai? Đó là những điều không rõ ràng xuyên suốt lập luận của Camus khi đề cập đến những vấn đề cụ thể của đời sống thực tại. Ngày 14. 12.1957, Camus đọc bài diễn văn nhan đề “Văn nghệ sĩ với thời đại” tại Viện đại học Upxan, Thụy Điển. Những ý cơ bản của bài diễn văn như sau: Nghệ thuật bị “đẩy xuống tàu” mà trở nên lụn bại Camus cho rằng, ngày nay, văn nghệ sĩ không thể tách rời xã hội, đứng ngoài lề của thời đại. Nhà văn bị bắt buộc tham dự vào những hoạt động của xã hội. “Bây giờ mọi sự đã thay đổi, cả đến sự im lặng cũng mang một ý nghĩa đáng sợ. Kể từ khi sự không tham dự cũng bị coi là một cách lựa chọn, đáng bị trừng trị hoặc đáng khen ngợi vì chính sự lựa chọn của nó thì văn nghệ sĩ dù muốn dù không cũng bị “đẩy xuống t àu” (embarquement). Nhóm từ “đẩy xuống tàu” hiểu đúng hơn là “dấn thân” (engagé). Bởi vì thật ra, đối với văn nghệ sĩ, đó không phải là sự tình nguyện nhập ngũ, mà là một thứ quân dịch. Ngày nay mọi văn nghệ sĩ đều bị đẩy xuống con thu yền của thời đại họ. Họ phải chịu vậy, dù họ có cho rằng con thuyền ấy tanh mùi cá, rằng bọn cai tù ở trên thuyền quá nhiều và tệ hơn nữa, rằng con thuyền đi lạc hướng”. Vì bị bắt buộc tham dự vào hoạt động xã hội như vậy nên nghệ thuật “trước hết là mất cái hồn nhiên thoải mái, rồi đến cái tính chất tự do thần thánh tràn đầy trong tác phẩm của Môza”. Và diễn ra “cái cảnh lụn bại đột ngột của nghệ thuật hiện đại”. Theo Camus, “tốt hơn là nghệ sĩ nên góp phần mình cho thời đại, vì nó cứ nằng nặc đòi hỏi, và phải bình tâm mà công nhận rằng cái thời thịnh trị của các nhà văn, nhà thơ…cái thời ấy đã chấm dứt rồi”. Camus đã nhận định phiến diện về t ình trạng văn nghệ hiện đại. Không thể chỉ t ìm nguyên nhân vì nghệ sĩ phải sống trong lòng thời đại, vì sự tràn lấn của đại chúng mà nghệ thuật suy thoái. Sự suy thoái của một bộ phận nào đó của nghệ thuật hiện đại là do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân t ừ phương hướng và quan điểm sáng tác của nhà văn. Với phương hướng và quan điểm đúng đắn, nhờ thực sự đi vào thực tế mà nhiều nhà văn đã thành công với nhiều tác phẩm tiến bộ và cách mạng. 17
  18. Nghệ thuật là một thứ xa hoa giả trá Camus phê phán những biểu hiện nghệ thuật suy đồi trong xã hội tư sản hiện đại: “Trước bấy nhiêu cùng khổ vào thời đại này, nếu nghệ thuật còn muốn tiếp tục là một sự xa hoa tất phải nhận nó là một sự giả trá…Chừng một trăm năm nay, chúng ta sống trong một xã hội không hẳn là xã hội kim tiền (kim tiền còn khêu gợi những say đắm nhục thể), mà là xã hội của những kí hiệu trừu t ượng của tiền bạc…Một xã hội đặt nền tảng trên những kí hiệu, ngay trong bản chất của nó là một xã hội giả tạo, trong đó con người bị mê hoặc…Cái xã hội này không đòi hỏi nghệ thuật là một phương tiện giải phóng, mà là một hoạt động không có bao nhiêu ảnh hưởng, một phương cách giải khuây mà thôi. Cái xã hội vàng son ấy tự mãn với một nền văn nghệ phù phiếm. Nhà văn Oscar Wilde đã viết: “Khuyết điểm trầm trọng nhất của văn nghệ sĩ là sự nông cạn, hời hợt”. Nghệ thuật vị nghệ thuật đầu thế kỉ hiện đại là sự giải khuây của những nghệ sĩ cô đơn, là một nghệ thuật vá víu của một xã hội giả tạo trừu tượng. Kết quả tất yếu là đưa đến thứ nghệ thuật của phòng khách, nghệ thuật vị hình thức, phá hủy mọi thực tại, bịa đặt lố lăng đầu độc nhiều người. Nghệ thuật đã tự đứng ra ngoài lề xã hội và tự cắt đứt với cội rễ sống động của nó. Camus đã có những ý kiến phê phán đúng đắn văn nghệ tư sản suy đồi ra đời cuối thế kỉ XIX cho đến thế kỉ XX “Một nghệ sĩ chân chính không thể đi đôi với xã hội kim tiền”. Ông cũng có ý kiến chính xác: nghệ sĩ chân chính phải biết kế thừa truyền thống văn hoá quá khứ. Phủ định chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Camus nêu lên sự bất lực của văn học hiện thực và cũng phủ định nền văn nghệ cách mạng, văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa. Camus phủ định chủ nghĩa hiện thực vì nhà văn buộc phải đặt thực tại xuống dưới sự chi phối của một kĩ thuật. Chế độ chuyên chính đã võ đoán khi ra sắc lệnh “chủ nghĩa hiện thực trước hết là một sự cần thiết và sau đó có thể thành tựu miễn là nó có khuynh hướng xã hội”. Camus cho rằng, đối tượng của hiện thực xã hội chủ nghĩa là môt cái gì hiện chưa có thực thể. Từ những quan điểm chính trị riêng, Camus cho rằng, nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những tác phẩm minh họa một cách giả tạo những nhiệm vụ chính trị, những thứ văn chương vô nghĩa không có ích gì trong việc làm thay đổi sự thống khổ của nhân loại. Và cuối cùng, ông cho rằng nghệ thuật suy đồi xa lánh thực tại và nghệ thuật xã hội chủ nghĩa bám vào thực tại tưởng tượng đều là giả trá, đều bỏ rơi nghệ thuật chân chính và càng làm nặng nề thêm sự đau khổ của nhân loại mà thôi. Về một số khía cạnh, Camus đã có những nhận xét sắc sảo nhất là về những yếu kém, sai lạc nào đó của văn học xã hội chủ nghĩa trên con đường đi tìm một phương pháp biểu hiện mới của văn học cách mạng. Nhưng sai lầm cơ bản của Camus là nhập cục hiệu quả của văn nghệ tư sản với văn nghệ xã hội chủ nghĩa làm một. Không thể cho văn nghệ cách mạng là hoàn toàn xa rời thực tế, là nghệ thuật tuyên truyền cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, là “anh em sinh đôi của chủ nghĩa hiện thực chính trị”. Kết luận có tính chất cực đoan đó thể hiện sự mất phương hướng chính trị của tác giả và quan điểm đánh giá những giá trị thẩm mĩ như là một lĩnh vực siêu hình đứng trên tất cả mọi cội nguồn xã hội thực tế, lịch sử của nó. Nhận định của Camus là thiếu khách quan khi phủ nhận tất cả 18
  19. những thành tựu của văn học cách mạng trong hơn một thế kỉ kể từ Công xã Pari cho đến nay. Nghệ thuật phục vụ chân lý, tự do, bênh vực đồng loại. Với quan điểm siêu hình, phi lịch sử, Camus nêu phương hướng của người nghệ sĩ không phục vụ một đảng phái nào, chỉ phục vụ quyền tự do của con người, bênh vực t ình yêu thương đồng loại, và không bị ai lãnh đạo, chỉ huy cả. Theo Camus, nghệ thuật không phục vụ một đảng phái nào, nó chỉ phụng sự nỗi thống khổ và quyền tự do của con người mà thôi. Nghệ thuật lần bước giữa hai vực thẳm, một bên là phù phiếm, một bên là tuyên truyền. Trên đỉnh cao cheo leo là con đường đi của bước chân nghệ sĩ, ở mỗi bước tiến là cả một cuộc phiêu lưu, một cuộc mạo hiểm cực độ. Quyền tự do của nghệ sĩ nằm trong sự mạo hiểm đó, và chỉ ở trong đó mà thôi. Nghệ sĩ tự do là người tạo lấy trật tự cho mình một cách khó khăn hết sức. Nếu các nhà văn không chấp nhận sự cố gắng lâu dài và tự do ấy, khi họ tự buông thả vào sự yên ổn của những lạc thú êm đềm hoặc văn chương công thức, theo chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, hoặc giáo thuyết hiện thực, thì họ chỉ lẩn quẩn trong sự phân tán và tuyệt diệt mà thôi. Camus phê phán nói chung những chế độ độc t ài đối xử tàn nhẫn với văn nghệ sĩ, biểu dương tinh thần dũng cảm và bản lĩnh cao cường của các văn nghệ sĩ chân chính. Ông đã khích lệ sự chống đối của tất cả các nhà văn ở bất cứ nơi nào trên hành tinh này, chống đối để có tác phẩm thiên tài, để có niềm hi vọng vào ngày mai. Trong thời đại đấu tranh giai cấp quyết liệt và phức tạp mà Camus chỉ phê phán chung chung các chế độ độc tài, các thể chế chuyên chính, san bằng các chế độ phản động với chuyên chính của nhân dân thì chắc chắn là không có lợi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Các khái niệm tự do, chân lí, đồng loại của nghệ sĩ xa rời với thực tại lịch sử, chỉ khích lệ sự chống đối của các nhà văn, lẽ nào Camus lại không biết đến nhiều nhà văn đã tìm thấy sự hoà hợp với thực tại nào đó và đã sáng tạo những tác phẩm đáng kể. Albert Camus lớn lên giữa hai cuộc thế chiến, là nhà văn của phong trào khám phá và đổi mới của văn học mới, văn học hiện đại chủ nghĩa ở Pháp. Sáng tác văn nghệ của ông khai phá những địa hạt mới, t ìm tòi những kĩ thuật mới, mở ra những lố i nhìn mới về cuộc đời. Trong nhiều khuynh hướng có khuynh hướng hiện sinh khảo sát “thân phận con người” qua cái t ình cảm bi thảm về đời sống. Albert Camus đã chịu ảnh hưởng nhiều của Andrea Manrô, nhà văn đặt con người đứng trước nhiều vấn đề then chốt như sự bất công, hạ nhục, phấn đấu, cái chết, để xem xét những giá trị của con người như thế nào. Camus tiếp bước Manrô, phát hiện ra cái phi lí của đời người và đề xướng một cách sống của cá nhân đối đầu với cái phi lí là tự do, nổi loạn và say mê. Do ảnh hưởng của cuộc kháng chiến chống phát xít, và “chiến tranh lạnh” sau 1945, Camus đã chuyển biến hợp thời hợp cảnh để làm một nhà văn tranh đấu, làm chứng nhân cho xứng đáng với lương tâm con người. Camus tiếp tục hành trình của ý thức đi tìm kiếm sự biện minh cho cái phi lí, cho mục đích của ông trong đời sống xuyên qua những yêu cầu của thời đại. Tác phẩm của ông đã bộc lộ những mâu thuẫn phức tạp của nhà văn trải qua một cuộc đời sóng gió, cố gỡ ra những mối dây liên hệ phức tạp của lịch sử xã hội để t ìm ra định mệnh của mình. Cuối cùng dường như tác giả cũng không thoát ra khỏi nghi vấn siêu 19
  20. hình về đời người. Tư tưởng nhân văn ôn hoà, thoả hiệp của Camus mãi mãi giữ ông đứng bên lề và làm “người xa lạ” trước bước tiến của lịch sử. Hướng dẫn học tập Ghi nhớ Camus đã trải qua một cuộc sống đầy khó khăn bất trắc, có khi ông vượt qua được, nhưng có khi ông cũng đành chịu khuất phục. Sống ở một thời đại có nhiều biến cố phức tạp, trong những thời kì khủng hoảng của một nước tư bản phát triển, Camus thường dao động và thay đổi lập trường chính trị, bộc lộ một sự mâu thuẫn thế giới quan phức tạp. Trong vòng hai mươi năm sau Đại chiến II, Camus và Xactơrơ là “hai người thầy tư tưởng” của nhiều thanh niên Pháp. Họ là những nhà triết học và những nhà văn của một lớp người vừa bàng hoàng ra khỏi cơn bão táp chiến tranh phát xít, mất lòng tin vào con người, khát vọng ảo tưởng về tự do đích thực. Camus là một điển hình trí thức và thanh niên của hiện thực nước Pháp, điển hình khủng hoảng tư tưởng Tây Âu trước những biến động quá sức lí giải của con người. Albert Camus lớn lên giữa hai cuộc thế chiến, là nhà văn của phong trào khám phá và đổi mới của văn học mới, văn học hiện đại chủ nghĩa ở Pháp. Sáng tác văn nghệ của ông khai phá những địa hạt mới, t ìm tòi những kĩ thuật mới, mở ra những lối nhìn mới về cuộc đời. Trong nhiều khuynh hướng có khuynh hướng hiện sinh khảo sát “thân phận con người” qua cái t ình cảm bi thảm về đời sống. Albert Camus đã chịu ảnh hưởng nhiều của Andrea Manrô, nhà văn đặt con người đứng trước nhiều vấn đề then chốt như sự bất công, hạ nhục, phấn đấu, cái chết, để xem xét những giá trị của con người như thế nào. Camus tiếp bước Manrô, phát hiện ra cái phi lí của đời người và đề xướng một cách sống của cá nhân đối đầu với cái phi lí là tự do, nổi loạn và say mê. Điều đó thể hiện qua ba giai đoạn sáng tác. Phân tích tiểu thuyết Ngộ nhận để chứng minh Tựa đề tiểu thuyết “ngộ nhận” có ý nghĩa điển hình cho thế kỉ với biết bao ngộ nhận của người trí thức Camus nêu lên sự bất lực của văn học hiện thực và cũng phủ định nền văn nghệ cách mạng, văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa. Camus phủ định chủ nghĩa hiện thực vì nhà văn buộc phải đặt thực tại xuống dưới sự chi phối của một kĩ thuật. Chế độ chuyên chính đã võ đoán khi ra sắc lệnh “chủ nghĩa hiện thực trước hết là một sự cần thiết và sau đó có thể thành tựu miễn là nó có khuynh hướng xã hội”. Camus cho rằng, đối tượng của hiện thực xã hội chủ nghĩa là môt cái gì hiện chưa có thực thể. Từ những quan điểm chính trị riêng, Camus cho rằng, nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những tác phẩm minh họa một cách giả tạo những nhiệm vụ chính trị, những thứ văn chương vô nghĩa không có ích gì trong việc làm thay đổi sự thống khổ của nhân loại. Và cuối cùng, ông cho rằng nghệ thuật suy đồi xa lánh thực tại và nghệ thuật xã hội chủ nghĩa bám vào thực tại tưởng tượng đều là giả trá, đều bỏ rơi nghệ thuật chân chính và càng làm nặng nề thêm sự đau khổ của nhân loại mà thôi. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2