intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Gốm cổ Champa Bình Định - Đinh Bá Hòa

Chia sẻ: Tathimu Tathimu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

94
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu về lịch sử Champa, không thể không nhắc đến những học giả thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, nhà nghiên cứu Trần Từ đã từng nói "Những gì người Pháp đã làm rồi thì chúng ta khó có thể vượt qua được", quả đúng như vậy, những công trình đồ sộ của họ để lại mà chúng ta đang thừa hưởng được xem là cẩm nang cho những ai nghiên cứu về văn hóa Chăm... Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để tìm hiểu nội dung chi tiết về "Gốm cổ Champa Bình Định".

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Gốm cổ Champa Bình Định - Đinh Bá Hòa

GÔM CÔ CHAMPA<br /> BÌNH ĐỊNH<br /> é<br /> <br /> NGHIÊN CỨU VỀ LỊCH s ử CHAMPA, KHÔNG THỂ KHÔNG NHAC đ e n<br /> NHỮNG HỌC GIẢ THUỘC TRUỜNG VIẺN ĐÔNG BÁC c ổ PHÁP, NHÀ NGHIÊN<br /> CỨU TRẦN TỪ ĐÃ TÙNG NÓI, "NHỮNG GÌ NGUÙI PHÁP ĐÃ LÀM R ồ i THÌ<br /> CHÚNG TA KHÓ CÓ THỂ VUỌT QUA ĐƯỢC", QUẢ ĐÚNG NHƯ VẬY, NHỮNG<br /> CÔNG TRÌNH ĐỒ s ộ CỦA HỌ ĐỂ LẠI MÀ CHÚNG TA ĐANG THỪA HUỞNG ĐUỌC<br /> XEM LÀ CẨM NANG CHO NHỮNG AI NGHIÊN c ứ u VỀ VÀN HÓA CHĂM. TUY<br /> NHIÊN,CŨNG CÓ NHỮNG VAN đ ề h ọ c h ư a n g h i ê n c ứ u , t h ậ m c h í c h ư a<br /> CÓ MỘT DÒNG NÀO VỀ NÓ ĐÓ LÀ GỒM CHĂM. CHO NÊN CÔNG TRÌNH NG­<br /> HIÊN CỨU VÀ KHAI QUẬT CÁC LÒ GÔM CHĂM TRÊN ĐẤT b ìn h đ ịn h t r o n g<br /> NHIỀU NĂM NAY ĐUỌC XEM LÀ NHỮNG THÀNH T ự u ĐÓNG GÓP MỚI VÀO<br /> KHẢO CỔ HỌC CHAMPA.<br /> <br /> Có m ột tru y ề n th ố n g gốm<br /> từ Sa H uỳnh lên C ham pa.<br /> Đây là một câu hòi lơn được<br /> các học giả và các nhà nghiên<br /> cứu đ ặt ra khi giải thích về<br /> nguồn gốc nguìri Champa, giải<br /> thích về sự phát triển ấy chỉ<br /> được khẳng định khi đưọc chứng<br /> cứ qua các cuộc khai quật khảo<br /> cổ học mà thôi. Qua các cuộc<br /> tại Trà Kiệu, Quảng Nam do<br /> C.Glover nhà khảo cổ học Anh<br /> và Mariko Yamagata Tiến sĩ<br /> khảo cô? học N h ật B ản tiế n<br /> hành trong nhiều năm, ngoài<br /> phát hiện ra dấu tích thành cổ<br /> Sinhapura (Thành Sư Tử), đã<br /> phát hiện một sô" lượng lơn về<br /> gốm bao gồm gốm kiến trúc như<br /> ngói âm dương trang trí M<br /> mặt<br /> hề” cồn tìm thấy một số lượng lón<br /> gốm Hán trang trí hoa văn hình<br /> ô vuông, gốm Sa Huỳnh muộn<br /> <br /> trang trí hoa văn thùng và gốm<br /> Chăm bao gồm mảnh nổi, bình<br /> vò, kendi. Năm 2015, tại thành<br /> Cha Bình Định tại gò ông Ty hay<br /> gồ Giữa, Trung tâm Nghiên cứu<br /> Kinh thành, Bảo tàng Bình Định<br /> khai quật nghiên cứu. Trên diện<br /> tích 400m2chúng tôi đã tìm thấy<br /> dâu vết kiến trúc nền, tưòĩig xây<br /> của một đền thơ của khu kiến<br /> trúc này. Điều rấ t trùng hợp là<br /> tại đây, ngoài kiến trúc ra chúng<br /> tôi đã tìm thấy khá nhiều ngói<br /> âm dưong và một sô" lượng lớn<br /> ngói tiền sử gồm gôm Hán và<br /> gôm mang phong cách Hán đến<br /> gôm Sa Huỳnh muộn trên vật<br /> dụng nồi đáy tròn miệng bẻ loe<br /> xiên,xưoĩig thô miết láng đều<br /> trang trí hoa văn thìmg và gôm<br /> Champa sơm gồm bình vò, nắp<br /> dậy và gốm trang trí.Vói sự phát<br /> hiện gốm tiền sử trong tầng văn<br /> <br /> hoá, cho thấy nguòi Chăm có sự<br /> tiếp nốỉ trong việc sản xuất gôm<br /> từ đất nung tiến lên sản xuất<br /> gôm trang trí, gôm men, đồng<br /> nghĩa trong việc lý giải về nguồn<br /> gốc người Champa được phát<br /> triển từ người Sa Huỳnh lên là<br /> hoàn toàn có cơ sở. Thành tựu<br /> khảo cổ học đã tạo dâu nối lịch<br /> sửtừSaH uỳnhlênC ham pacủa<br /> cư dân Sa Huỳnh trên giải đất<br /> miền Trung, một khoảng trông<br /> được các nhà nghiên cứu đặt ra<br /> nay đã được giải đáp.<br /> C hặng đ ư ờ n g n g h iên cứ u<br /> gốm C hăm<br /> Gôm Chăm Bình Định kể<br /> từ khi phát hiện đến nay đã có<br /> 6 cuộc khai quật. Riêng tại Gò<br /> Sành đã có 4 cuộc khai quật liên<br /> tiếp, trong đó từ năm 1991 đến<br /> 1993, do Viện Khảo cổ, Bảo tàng<br /> <br /> V I Ĩr4<br /> nua<br /> <br /> hay<br /> <br /> XUẬN 201I I SỐ 467 THÁNG 1 NẢM 2016<br /> <br /> Bình Định thực hiện. Kết quả<br /> không chỉ tìm thấy lồ nung khá<br /> ngúyên vẹn mà còn thu về một<br /> khối lượng sẳn phẩm sản xuất<br /> tại khu lò. Đặc biệt, trong năm<br /> 1994, ngoài Viện khảo cổ học<br /> Việt Nam, Bảo tàng Bình Định<br /> cồn có sự tham gia của các nhà<br /> khảo cơ học Nhật Bản. Đây là<br /> sự phối họp quốc tê đầu tiên về<br /> nghiên cứu gôm Chăm.<br /> Qua 4 lần khai quật tạ i<br /> khu lò gôm Gồ Sành, kết quả<br /> bước đầu cung cấp cho chúng<br /> ta nhận thức mói đó là: Người<br /> Chăm có một dòng gốm được<br /> sẳn xuất theo một quy trình<br /> quy chuẩn từ kỹ th u ậ t xây<br /> dựng lò nung, nung đốt sản<br /> phẩm, chồng xếp sản phẩm<br /> trong lò... về lồ nung có hai<br /> dạng kỹ thuật, kỹ thuật tuìmg<br /> Chình ( tường đắp đất), chúng<br /> tôi cho răng đây là kỹ thuật<br /> sơm, sản phẩm được sản xuất<br /> giai đoạn "tường chình" chủ<br /> yếu theo kỹ thuật con kê là<br /> chính, tức là cách chồng xếp<br /> hiện vật trong bao nung giữa<br /> hiện vật trên và dươi được<br /> cách khoảng bằng một con kê<br /> 5; 4 mấu, dạng trồn hình vành<br /> khăn. Giai đoạn thứ 2 vật liệu<br /> dùng xây tuìmg lò hoàn toàn<br /> bằng bao nung, vật liệu nung<br /> dùng trong quá trình đốt thải<br /> ra, để tường lò được vững khi<br /> xây ngưữi ta nhồi đất sét vào<br /> bên trong để tạo độ bền chắc<br /> cho tường lò, dây là yếu tô kỹ<br /> thuật, một sáng tạo mói trong<br /> kỹ th u ậ t xây dựng lò nung<br /> vùng thuìmg hay bị ngập úng<br /> như vùng Bình Định.<br /> Về sản phẩm, lò bao nung<br /> sản phẩm chủ yếu xếp theo<br /> kỹ thuật ve lòng, tức là trong<br /> lồng sản phẩm người ta chừa<br /> một vành chính giữa trôn bát<br /> không tráng men, khi chồng<br /> sản phẩm đế các bát đĩa chồng<br /> lên khi nung giữa các sản<br /> phẩm trên dưới không dính<br /> vào nhau. Đây cũng là thòi<br /> kỳ, sản phẩm gôm Chăm phát<br /> triển cực thịnh, tham gia vào<br /> thị trường xuất khẩu thế giói<br /> <br /> cùng vói các dồng gôm của các dân<br /> tộc khác trong khu vực.<br /> Để kiểm chúng tính phong<br /> phú trong sản xuất của các khu<br /> lò khác nhau. Năm 2002, một<br /> khu lò khác được khai quật, cuộc<br /> khai quật ngoài các nhà nghiên<br /> cứu Việt Nam Viện Khảo cổ, Bảo<br /> tàng Bình Định cồn có sự tham<br /> gia tham gia của Bảo tàng Mỹ<br /> thuật Hoàng gia Bỉ.<br /> Guộc khai quật đã bóc tách và<br /> làm lộ rõ một lồ nung khá nguyên<br /> vẹn từ câu trúc, cho đến hình<br /> dáng, ơ đây, về kỹ thuật xây dựng<br /> lò có cả hai giai đoạn, giai đoạn<br /> lò kiểu "tuìmg chình" và gia đoạn<br /> tường lồ xây bằng vật liệu bao<br /> nung, v ể sản phẩm cũng tìm thấy<br /> các loại hình gôm trang trí đất<br /> nung, tráng men. Gôm gia dụng<br /> có bát, đĩa, vò; choé và cũng<br /> chồng xếp theo hai kỹ thuật con<br /> kê và ve lòng, điều đặc biệt sản<br /> phảm sản xuất tại Gò Hòi hoa<br /> văn trang trí phong phú hon,<br /> ngoài hoa văn truyền<br /> thông như kiểu sóng<br /> nước, đường zích<br /> Ẩm<br /> zắc, đã tìm thấy<br /> sản phẩm trang<br /> trí hoa văn nét<br /> ■<br /> chìm xuất kiểu<br /> B p^É ai<br /> cánh sen cánh<br /> nhọn<br /> gâ n, p h o n g<br /> ^<br /> ^<br /> cách g ần với<br /> kiểu trang trí<br /> trên sản phẩm<br /> gôm Lý T râ n<br /> của Đại Việt thể<br /> kỷ XIV - XV. Nhìn<br /> w<br /> chung về kỹ thuật<br /> xây dựng không sai<br /> khác vơi kiểu xây<br /> dựng lồ đã tìm thấy<br /> ở trung tâm Gò Sành.<br /> Năm 2015, Bảo tàng<br /> Bình Định vói Trung tâm<br /> Nghiên cứu Kinh thành<br /> thuộc Viện Hàn lâm Khoa<br /> học xã hội Việt Nam tiếp tục<br /> khai quật nghiên cứu một<br /> khu lò khác đó là Truìmg cửu<br /> một trong 6 khu lò trên đất<br /> Bình Định. Sau khi bóc tách làm<br /> rõ kiên trúc khuôn viên từng lò<br /> <br /> XUÂN 2016, SỐ 467 THÁNG 1 NĂM 2016<br /> <br /> Chóe men nâu<br /> <br /> Kựa<br /> h89<br /> <br /> nung, có thể đưa ra những kết<br /> luận về khu lò này gần tưong<br /> đồng vói hai khu lò đã khai quật<br /> đó là Gò Sành và Gồ Hồi. về sản<br /> phẩm sản xuất,ngoài gôm gia<br /> dụng, gốm kiến trúc ngoài ngói<br /> mũi lá, khu lò này tìm thấy khá<br /> nhiều ngói "mũi hài” ngói mang<br /> phong cách Việt điền hình và<br /> gôm hoa nâu trang trí trên chậu<br /> gôm gần như copy hoa văn trang<br /> trí của gôm Việt thơi Lý - Trần .<br /> Và nhận thức mới<br /> Với việc phát hiện ra các<br /> trung tâm sản xuất gôm trên đất<br /> Bình Định, và chỉ có Bình Định<br /> là địa phương duy nhất trong các<br /> tỉnh miền Trung Việt Nam ngubi<br /> Chăm đã hình thành các trung<br /> tâm chuyên sản xuât sản phẩm<br /> gôm từ dât nung, đến gôm men<br /> có ý nghĩa trong lịch sử nghiên<br /> cứu gôm cổ Việt Nam vùng đất<br /> miền Trung cho đến nay.<br /> về sản phẩm sản xuất, qua<br /> những lò khai quật tại Bình<br /> Định cho thây, sản phầm được<br /> sán xuât ờ các khu lò Bình Định<br /> gồm 3 loại chủ yếu, đó là gôm<br /> men (gốm sứ); đồ sành và vật<br /> liệu kiên trúc đât nung (bao gồm<br /> cả gốm trang trí, ngói). Việc tìm<br /> thây nhiều loại sản phẩm gôm<br /> I J| Ị A<br /> <br /> như đã nêu, phản ánh một thực<br /> tê yêu cầu của thị trường đồng<br /> thơi khắng định một thơi kỳ<br /> phát triển cực thịnh của gôm<br /> Bình Định trong lịch sử. Đáng<br /> chú ý là trong các sản phẩm sản<br /> xuất,ngoài men ngọc là chủ đạo<br /> còn tìm thây gôm hoa nâu được<br /> trang trí trên thạp, chậu.Các<br /> nhà nghiên cứu gôm gọi đây là<br /> gôm hoa nâu, một dồng gôm rất<br /> nổi tiếng của gôm Bắc Việt Nam,<br /> được sản xuất phể biến vào thbi<br /> Lý, thơi Trần (thế kỷ XI - XIV).<br /> Việc tìm thây những sản phẩm<br /> gôm hoa nâu ơ lồ Trường cửu có<br /> phong cách tương đồng và gần<br /> như mô phòng chậu thạp gôm<br /> hoa nâu thồi Trần phẳn ánh một<br /> cách rồ nét mối quan hệ giữa<br /> vương triều Vijaya Champa và<br /> Đại Việt trong lịch sử.<br /> Kết quả nghiên cứu, so sánh,<br /> cho thấy, sản phẩm sản xuất<br /> từ các lò gôm Bình Định từng<br /> được sử dụng trong hoàng cung<br /> Thăng Long vào thồi Lê Sơ thê<br /> kỷ XV. Không chỉ trong sản<br /> phẩm gia dụng, trong một sô<br /> sản phấm kiến trúc cũng có ảnh<br /> hương phong cách gôm Đại Việt<br /> một cách rõ nét, trong đó phải kế<br /> đến ngói lọp. Nêu như các cuộc<br /> khai quật trước đây tại Gò Sành,<br /> <br /> chứng tôi chỉ nhặt được một<br /> mẫu gôm mũi hài, một kiểu<br /> ngói lcxp khá phể biến thịnh<br /> hành trong thòi kỳ Lê Sơ, thì<br /> tại di chỉ Truừng cửu trong<br /> phê thải chúng tôi lại tìm<br /> thây khá nhiều tiêu bản về<br /> loại hình gôm này, ngói dáng<br /> hình chữ nhật, mũi tù đầu<br /> vểnh lên như mũi hài. Tuy<br /> nhiên, cùng vói loại hình ngói<br /> mũi hài, cũng tìm thấy ngói<br /> mũi, thân hình chữ nhật,<br /> chính giữa có đuòng lõm chạy<br /> dọc để thoát nước, mũi nhọn.<br /> Đây là loại ngói mang đặc<br /> trưng của.nguời.Chăm kích<br /> thước nhò hơn.Việc tìm thấy<br /> hai loại ngói đươc sản xuất<br /> tại* các khu lò nung phản<br /> ánh, rằng không chỉ trong<br /> sản phẩm gôm men, trong<br /> gôm kiến trúc, người thợ<br /> gôm Bình Định cũng phòng<br /> chế gôm Đại Việt phục vụ<br /> cho việc xây dựng cung điện<br /> của mình tại kinh đô và kiến<br /> trúc tôn giáo. Rõ ràng, vơi<br /> sự phát hiện này, góp phần<br /> làm rõ hơn sự tiếp thu hay<br /> hoc hòi cách làm ngói lọp của<br /> nguòi Việt.<br /> Việc sử dụng ngói mũi hài<br /> đã được ghi chép trong thư<br /> tịch của người Trung Quốc.<br /> Trong euôn Doanh N hai<br /> Thắng Lãm của Mã Đoan,<br /> viên thông ngôn của Trịnh<br /> Hoa (ngưồi Nhà Minh, Trung<br /> Quốc) vào cuốỉ năm 1413 đến<br /> Vijaya và đã ghi như sau:<br /> M theo hương tây nam<br /> Đi<br /> một trăm lý thì tới kinh<br /> thành noi nhà vua ngự, nguxri<br /> ngoại quôc gọi là "Chiêm<br /> Thành". Kinh thành có lũy<br /> bằng đá bao quanh, ra vào<br /> qua bôn cổng, có lính canh<br /> gác. Điện vuâ thì cao và rộng,<br /> phần mái ở trên lợp ngói<br /> hình thuẫn; bôn góc tường<br /> bao quanh có đắp trang trí<br /> công phu bằng gạch và hồ,rất<br /> gọn ghẽ. Các cánh cửa được<br /> làm bằng gỗ cứng, chạm trổ<br /> hình thù dã thú và cầm súc.<br /> Nhà của dân cư trong thành<br /> <br /> lọp tranh, chiều cao mái hiên<br /> (tính từ mặt đất) không quá ba<br /> "chinh", ra vào phải khom lưng<br /> cúi đầu, ai cao quá thì thật là<br /> bực mình".<br /> Ghi chép nêu trên có nói đến<br /> loại ngói "nhò hình thuẫn" cho<br /> thấy các cung điện của vưong<br /> quôe Chăm ở đây cũng được<br /> lọp ngói giống như kinh thành<br /> Thăng Long. Mô tả này có nói<br /> đến loại ngói mũi lá hoặc mũi<br /> hài phục vụ cho việc xây dụng<br /> các cung điện trong kinh thành.<br /> Về ch ủ n h â n và n iê n đ ại<br /> Trên những cứ liệu khảo<br /> cổ học, chúng tôi cho rằng chủ<br /> nhân các khu lò gôm Bình<br /> Định là nguòi Chăm, dựa trên<br /> cơ sở sau:<br /> Về phưong diện địa lý: Tất<br /> các khu lồ phất hiện đều năm<br /> trên vùng đất Bình Định, vùng<br /> đất trước đó thuộc quyền quản<br /> lý của vương quốc Champa.<br /> v ề sản phẩm: Ngoài các sản<br /> phẩm gia dụng còn tìm thây<br /> sản phẩm trang trí kiến trúc<br /> mang đậc trưng Chăm rõ nét,<br /> và nhất là trên các sản phẩm<br /> cồn tìm thấy cả minh văn của<br /> <br /> Âm men vàng<br /> <br /> nguòi Chăm, khuôn in... Những<br /> nguòi tham gia khai quật đều<br /> cho rằng chủ nhân các lồ gốm<br /> này là người Chăm. Không<br /> vì tìm thây những sản phẩm<br /> mang phong cách Đại Việt mà<br /> cho rằng chủ nhân các lồ gôm<br /> Bình Định là ngưừi Việt là vội<br /> vàng. Quan điểm của tôi thì<br /> trước đây và cả hiện nay vẫn<br /> cho rằng chủ nhân là ngươi<br /> Chăm trên quan đểm sau.<br /> Về lịch sử, đây là thòi kỳ<br /> quan hệ Viêt - Chăm khá hữu<br /> hảo, vua Trần từng sang Vijaya<br /> kinh đô của vua Chăm để thăm<br /> nhau, và chính vua Trần đã<br /> hứa gả con gái của mình cho<br /> vua Chăm, Huyền Trân công<br /> chua đã trở thành hoàng hậu<br /> của Chê Mân. Vói việc quan<br /> hệ này đã tạo điều kiện cho<br /> việc thông thương đi lại giữa<br /> hai quốc gia, rất có thể nguòi<br /> Chăm đã đươc ngưìri Việt dạy<br /> cho cách làm gôm và cũng có<br /> thể cử thợ sang đất Chăm để<br /> dạy cho ngubi Chăm, mà như<br /> ta biết người Chăm là bậc thầy<br /> trong việc làm gốm đất nung,<br /> cho nên học làm gôm men chắc<br /> chẳng khó khăn gì vơi họ, cho<br /> <br /> Hũ nhỏ men da lươn<br /> <br /> Bình vôi men xanh<br /> <br /> Ị|<br /> <br /> nên trong quá trìn h sản<br /> xuất chiu ảnh huỉmg trong<br /> kỹ thuật và kiểu dáng sản<br /> phẩm trong kỹ thuật là tất<br /> yêu. Cho nên, quan đêm của<br /> tôi vẫn cho rằng chủ nhân<br /> các lồ nung gôm Bình Định<br /> là người Chăm không có gì<br /> là khiên cưỡng.<br /> Về niên đại: Các lồ gốm<br /> Bình Định được xác định<br /> nằm trong khung niên đại<br /> từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV,<br /> nhưng phát triển sôi động<br /> nhất là từ th ế kỷ XIV. Ly<br /> giấi tại sao là thê kỷ XIII đến<br /> XV? Trước hết chúng tôi căn<br /> cứ vào loại hình gôm trang<br /> trí loại hình đuôi phượng, và<br /> trang trí gôm tráng men có<br /> hình vú chạy quanh.<br /> Trước hết xin nói về gôm<br /> đất nung: So sánh vói những<br /> trang trí mà chúng tôi thu<br /> được trên tháp Bánh ít, Cánh<br /> Tiên vói những sản phẩm tìm<br /> thấy tại khu lồ Gb Sành, Gồ<br /> Hồi và Truxmg cử u nó gần<br /> như tương đồng về kiểu dáng<br /> và kỹ thuật, các tháp Chăm<br /> Bình Định chỉ có niên đại từ<br /> cuối thê kỷ X đến thê kỷ XI<br /> và sau nữa là cuối thê kỷ XII<br /> đầu thê kỷ XIII. Vói sự phát<br /> hiện gôm Bình Định trên các<br /> con tàu đắm ơ Philippines<br /> vơi việc tìm thây gôm hoa<br /> nâu và ngói mũi hài mang<br /> phong cách gôm Lý - Trần<br /> thê kỷ XIV, giói nghiên cứu<br /> cho rằng, gôm Champa Bình<br /> Định đất nung có từ thê kỷ<br /> VII và gôm men từ thê kỷ<br /> XIII, phát triển cực thịnh<br /> vào thê kỷ XIV và lụi tàn<br /> dần vào những thế kỷ XV và<br /> cồn có thế kéo dài đến thê kỷ<br /> XVI - XVII khi vùng đất này<br /> không còn thuộc quyền quản<br /> lý của nguòi Champa nữa mà<br /> đã thuộc về Đại Việt.<br /> Cho nên, niên đại gôm<br /> Chăm Bình Định, theo tôi<br /> là từ thê kỷ XIII, phát triển<br /> đỉnh cao là th ế kỷ XIV và<br /> chấm dứt vai trồ của nó là<br /> từ thế kỷ XV. ■<br /> <br /> m<br /> <br /> GỐM BIÊN HÒA<br /> ĐỔNG NAI<br /> Nguyễn Thị Nguyệt<br /> <br /> THẾ KỶ XVII, NHỮNG LƯU DÂN NGUỪI VIỆT VÀ<br /> NGUỪI HOA VÀO KHAI KHẨN đ ấ t đ ồ n g n a i, t r o n g<br /> ĐÓ CÓ NHỮNG THỢ GÔM ĐỊNH c ư ở c ù LAO PHỐ VÀ<br /> LẬP NÊN CÁC LÒ GỐM ỏ ĐÂY. HIỆN NAY CÒN TồN TẠI<br /> ở BẾN MIỂNG SÀNH VÀ RẠCH L ồ GỐM (CÙ LAO PHồ,<br /> XÃ HIỆP HÒA, THÀNH PHỐ BIÊN HÒA) DẤU VÊT c ủ a<br /> XỈ LÒ VÀ VÔ SỐ MẢNH GổM (CÓ MEN VÀ KHÔNG MEN)<br /> CÓ NGỦỒN GỐC CỦA GÔM TRUNG BỘ VÀ CẢ GốM HOA<br /> (PHỎNG THEO GỐM TRUNG QUỐC) CÓ NIÊN ĐẠI THẾ KỶ<br /> XVII -ỊkviII. THỜI KỲ THƯƠNG CẢNG n ô n g n ạ i đ ạ i p h ố<br /> p h á t t r iể n , đã có rấ t n h iê u h à n g h ó a b u ô n b á n<br /> NHƯ: MUỔl, VẢI, GỐM, ĐUÒNG, GẠCH NGÓI... ĐUỌC SAN<br /> XUẤT ở CÙ LAO PHỐ, BIÊN HÒA. NHƯVẬY, c ù LAO PHỐ<br /> LÀ NƠI PHÁT XUẤT NGHỀ THỦ CÔNG LÀM GÔM BIÊN<br /> HÒA ĐUỌC NHŨNG LƯU DÂN VIỆT VÀ HOA ĐEM TỚI TẠO<br /> LẬP NGHỀ TRÊN c ơ s ở CƯ DAN BAN đ ịa , s a n PHAM<br /> GồM ĐUỌC ĐEM ĐI BUÔN BÁN VÀ TRAO Đ ổ i KHAP x ứ<br /> TRONG THỜI KỲ KHAI PHÁ VÙNG ĐẤT n à y .<br /> <br /> XUÂN 2016, SỐ 467 THÁNG 1 NÁM 2016<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2