YOMEDIA
HẢI PHIÊU TIÊU (Kỳ 2)
Chia sẻ: Tu Tu
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:7
69
lượt xem
2
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Mô tả:
Hải phiêu tiêu là nang của nhiều loại cá mực, thường dùng nhất là nang mực váng (mực nang) có tên khoa học Sepia esculenta Hoyle, thuộc họ Seppidae. Mực có cấu tạo cơ thể dạng thủy động học, có màng vây, có thể bơi nhanh trong nước nhờ tia nước phụt ra từ phễu thoát nước theo chiều ngược lại, bơi theo lối phản lực. Đầu mực có vòng tay, còn gọi là tua mực hay râu mực, ở quanh miệng, và phễu thoát nước là hai cơ quan vận động đặc trưng ở
mực. Ngoài 8 tay...
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: HẢI PHIÊU TIÊU (Kỳ 2)
- HẢI PHIÊU TIÊU
(Kỳ 2)
Mô tả:
Hải phiêu tiêu là nang của nhiều loại cá mực, thường dùng nhất là nang
mực váng (mực nang) có tên khoa học Sepia esculenta Hoyle, thuộc họ
Seppidae. Mực có cấu tạo cơ thể dạng thủy động học, có màng vây, có thể bơi
nhanh trong nước nhờ tia nước phụt ra từ phễu thoát nước theo chiều ngược
lại, bơi theo lối phản lực. Đầu mực có vòng tay, còn gọi là tua mực hay râu
mực, ở quanh miệng, và phễu thoát nước là hai cơ quan vận động đặc trưng ở
- mực. Ngoài 8 tay ngắn mực còn có hai tay dài hơn. Mặt trong các tay có rãnh
dẫn tới miệng, với nhiều giác tròn, các giác bám có vòng cơ khỏe, bên trong lát
một vàng bì dầy, có cuống ngắn. Nhờ vòng cơ khỏe, giác bám có thể co rút, do
một nhánh thần kinh tay điều khiển. Các tay của mực là cơ quan vận động và
bắt mồi. Phễu thoát nước ở Mực nằm ở chỗ tiếp giáp đầu và xoang áo, có dạng
ống kính nón, thông với ngoài và với xoang áo. Hai bên phễu có hai vết lõm,
khớp với hai mấu lồi sụn đóng mở khe xoang áo (khe bụng). Khi thành xoang
áo co lại, hai van khép chặt, khe bụng khép kín, nước sẽ được tống ra ngoài
qua phễu thoát nước. Khi thành xoang áo thôi co rút, nước lại dồn từ ngoài vào
xoang áo qua khe bụng. Hoạt động này tạo nên lực đẩy mực di chuyển theo
chiều giật lùi, chứ không tiến lên phía trước. Cách di chuyển này có lợi cho
mực khi thấy kẻ thù hoặc con mồi phía trước mắt. Mực có cuộc sống bơi lội rất
hoạt động, chúng đuổi và bắt mồi rất linh họat. Mực nang có thể bắt mồi lớn
hơn nó về tầm vóc. Mực ống thì thường lao như một mũi tên bắn vào đàn cá
thu con đang tung tăng bơi, và nhanh chóng chớp lấy một con cá bằng cách cặp
đôi hàm sắc nhọn của mình vào lưng hoặc gấy của cá. Hai trong mười tay của
Mực biến thành tay dài, chỉ có giác ở phần cuối, rất thuận lợi khi bắt mồi. Các
tay của Mự chuyển mồi đưa vào miệng, ở hầu có thành cơ khỏe có lưỡi bào và
có hai hàm hình mỏ vẹt sắc. Mực có tuyến mực tiết ra chất đen vào phần cuối
trực tràng rồi đẩy ra ngoài, khi gặp nguy con mực phóng dịch đen chứa các hạt
melanin, thành vùng tối chung quanh cơ thể để che mắt kẻ thù. Hơn thế nữa,
bản chất của ancaloit của chất mực làm tê liệt các cơ quan cảm giác hóa học
- của kẻ thù, nhất là của cá. Mực thường sống từng đàn ở tầng nước đáy, khi
kiếm mồi mới nổi lên tầng nước trên, hầu hết khi bơi lội trong nước, mắt mực
lồi ra và màu da luôn thay đổi theo màu nước để dễ lẩn tránh và bắt mồi. Mực
rất thích ánh sáng và màu trắng, khi thấy ánh sáng. Mực tập trung rất đông.
Thức ăn của Mực là các loài trứng cá, tôm, cá con.
Địa lý:
Miền biển nước ta nơi nào cũng có Mực. Khai thác vào tháng 3-9, là
thời kỳ mực bơi vào gần bờ để sinh đẻ.
Phân biệt. Ở nước ta có nhiều loại Mực, nhưng hai loài phổ biến có giá
trị dinh dưỡng là Mực ống (Logigo Formasana), nhưng thường dùng nang thì
chỉ lấy ở các con Mực Nang như mực Ván Sepia Subaculeate, mực Cơm Sepia
Andreana Tte. Strup, phân bố rất nhiều ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh,
Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình.
Phần dùng làm thuốc:
Mai (Os Sepiae).
Mô tả dược liệu:
Xương khô hình thuyền, biểu hiện hình viên chùy dẹt, ở giữa phình lớn
hai đầu cuối nhỏ dần, dài chừng 20cm, rộng chừng 10cm, dày 2-3cm, mặt
- ngoài biểu hiện màu trắng, hai bên mép có lớp mỏng hóa sừng màu trắng vàng
trong, mài thì khuyết không hoàn toàn, cuối nang mực có một nút nhọn hình
chùy nhọn, mặt lưng hơi lồi lên, có lớp chất đá vôi cứng ngắt, mặt ngoài nổi
lên những hạt phân bố rất dày, từ nút cuối phía sau bắt đầu có biểu hiện hình
chữ “V” ngược, bày xếp nhiều lớp mặt bụng thẳng ngang, cuối phái sau hơi
lõm xuống, chất thạch hôi thưa thưa đi, dùng móng tay cạo vào có thể ra bột
trắng, chất nhẹ mà giòn, mặt bẻ ngang màu trắng có nhiều lớp bầy xếp.
Thường dùng nguyên cả mai, màu trắng nhẹ không vụn nát, ruột không đen
không vàng là tốt.
Bào chế:
1- Kinh nghiệm xưa: Khi dùng Ô tặc cốt cần phải sao vàng để dùng
(Bản Thảo Chú). Khi dùng Ô tặc cốt phải lấy nước nấu 3 giờ rồi đem ra nướng
cho vàng, bỏ vỏ cứng ngoài đi, nghiền nhỏ bỏ vào nước lã mà phi rồi lọc sạch
phơi khô để dùng (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
2- Kinh nghiệm hiện nay: Rửa sạch sấy khô, cạy vỏ cứng ở ngoài.
Ngâm nước gạo hai ngày một đêm, thay nước hàng ngày. Rửa lại cho sạch,
luộc kỹ một giờ. Sấy khô. Khi dùng sao qua tán bột hoặc sao với bơ để dùng
(Trung Dược Học).
Tên khoa học: Os Sipiae.
- Tên gọi:
1- Phiêu tiêu là tổ con bọ ngựa (Xem: Tang phiêu tiêu), vị thuốc giống
tổ bọ ngựa nhưng ở ngoài biển, nên gọi là Hải phiêu tiêu.
2- Mực có thể ăn thịt cả chim quạ, chúng thường nổi lềnh bềnh trên mặt
nước giả chết, làm cho nhiều con quạ lầm tưởng và bay sà xuống ăn, nhanh
như chớp, mực lôi quạ xuống nước ăn thịt. Do mực đã giết nhiều quạ, nên
người xưa cho nó cái tên “Ô tặc” (ô là quạ, tặc là giặc). Mực là giặc đối với
quạ.
Tính vị:
Vị mặn. Tính ấm.
Quy kinh:
Vào 2 kinh Can, Thận
Bảo quản:
Đựng lọ kín, để nơi khô ráo.:
1- Hải phiêu tiêu bổ Can Thận, ích tinh khí, tráng dương cố tinh, nhờ
vậy nó có thể trị được chóng mặt xoàng đầu, hay quên, liệt dương, di tiết tinh,
- tiểu không tự chủ, cho tới các chứng đau mỏi thắt lưng, bạch đới. Trên lâm
sàng thường kết hợp với Long cốt, Mẫu lệ để trị di tinh, kết hợp với Thạch
xương bồ, Nhân sâm, Viễn chí, Long cốt, Qui bản, Phúc bồn tử, trị tiểu nhiều.
Kết hợp với Bổ cốt chỉ, Câu kỷ tử, Hải cẩu thận, trị liệt dương. Tóm lại, làm
cho cường tráng, thu liễm là hiệu dụng chủ yếu của Hải phiêu tiêu, vỉ vậy Chân
Quyền nói rằng: “Con trai người suy nhược tinh tự xuất, yếu đuối mà tiểu
nhiều, thì nên gia nó để dùng” (Trung Dược Học Giảng Nghĩa).
2- Ô tặc cốt mặn ấm nhập vào Can và Thận, tác dụng của nó là cầm
máu, phần nhiều chủ ở hạ tiêu, như đàn bà rong kinh băng huyết, ỉa ra, trĩ ra
máu, tiểu ra máu, đều có thể dùng được, đồng thời có thể dùng đến nó để trị
các chứng xích bạch đới. Nhưng trong “Bản thảo” ghi Ô tặc cốt có thể trị rong
kinh băng huyết, lại có thể trị bế kinh, giống như có tác dụng có thể thông mà
cũng có thể cầm, thật ra Ô tặc cốt có sở trường trị về xuất huyết, khác nhau về
các chứng huyết nóng, chạy bậy hoặc ứ huyết làm lưu trệ cho tới khí không
nhiếp huyết, mà là do tổn thương ở can, thận gây ra. Can thật bị tổn thương,
khí xung nhâm không kiên cố thì đưa tới rong kinh băng huyết, Can là tạng
tàng huyết, can tổn thương thì huyết suy, làm huyết khô thì tinh bị bế. Như thế,
chẳng kể tới băng lậu và bế kinh, đều thuộc hư chứng, thì Ô tặc cốt đã có thể
cầm máu, lại có thể thông bế, thì không có gì mâu thuẫn cả. Kế đến, Ô tặc cốt
cầm huyết, lại có thể trị bên ngoài, chẳng hạn như cùng kết hợp với Bồ hoàng
xức vào để trị sưng lưỡi chảy máu, cùng với bột Hoè hoa thổi vào mũi làm cầm
- chảy máu cam, gần đây có người dùng nó để trị lở loét ngoài da, tán bột xức
vào rất có hiệu quả, thật ra những cách điều trị này thì sách “Biệt lục” đã ghi
rất sớm trước đây rồi (Trung Dược Học).
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.100:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...