JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2, pp. 3-9<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0001<br />
<br />
HÀNH TRÌNH TỪ THI HỌC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG ĐÔNG<br />
ĐẾN QUAN NIỆM VỀ THƠ MỚI<br />
Trần Mạnh Tiến<br />
<br />
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Từ thi học cổ điển phương Đông đến quan niệm về Thơ mới thời kì đầu thế kỉ XX<br />
(1900-1945) ở nước ta, gắn với những biến đổi lớn lao của lịch sử xã hội. Sự ra đời của Thơ<br />
mới (1932-1945) có nhiều cách lí giải khác nhau: do kế thừa truyền thống; học tâp phương<br />
Tây; sự thay đổi xã hội v.v. . . Từ góc nhìn văn hóa cho thấy, Thơ mới ra đời là kết quả của<br />
cuộc giao tranh trong văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, đã làm phát lộ những tài năng<br />
thi sĩ. Không thể xem sự ra đời của Thơ mới từ những căn nguyên đơn lẻ, đó là kết quả<br />
tổng hòa của sự vận động lịch sử xã hội hết sức mạnh mẽ từ quá khứ đến hiện tại tạo nên<br />
các biến chuyển lớn lao trong nền văn hóa, từ nền văn hóa đó đã sản sinh ra những tài năng<br />
thơ ca và giá trị mới của thơ ca.<br />
Từ khóa: Thi học cổ điển phương Đông, Thơ mới, quan niệm về Thơ mới.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Lịch sử tiến bộ nghệ thuật cho hay, sự đổi thay từ mô hình nghệ thuật này sang mô hình<br />
nghệ thuật khác không hề ngẫu nhiên, mà có những căn nguyên thời đại. Bước sang đầu thế kỉ XX,<br />
người Việt phải trải qua những cơn bão tố như Hoài Thanh đã nhận xét: “Sự gặp gỡ phương Tây<br />
và cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỉ” [9;9]. Cuốn theo những<br />
cơn lốc đó là những cuộc giao tranh về nhận thức trong nghệ thuật. Từ mô hình thơ luật phương<br />
Đông chuyển sang mô hình Thơ mới, thơ Việt phải trải qua 30 năm tìm đường mở lối. Trong 3 thập<br />
niên đó, “thành trì” thơ Đường luật vẫn sừng sững trong các công trình biên khảo của các nhà Nho<br />
Phan Kế Bính (Việt Hán văn Khảo), Phan Bội Châu (Quan niệm văn chương của tôi), Hồ Ngọc<br />
Cẩn (Văn chương thi phú An Nam), Nguyễn Văn Ngọc (Nam thi hợp tuyển), Nguyễn Hữu Tiến (Cổ<br />
xúy nguyên âm), Lê Thước (Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Công Trứ), Trần Trung Viên (Văn đàn bảo<br />
giám) v.v... Để vượt bức tường thành đó, các nhà thi học mới phải mở nhiều con đường đổi mới<br />
cho thơ. Xung quanh sự ra đời của Thơ mới có nhiều kiến giải khác nhau như: Thơ mới thoát thai<br />
từ thơ truyền thống; Thơ mới tiếp thu thi pháp phương Tây; Thơ mới ra ra đời do đổi thay xã hội...<br />
Từ góc nhìn về sự chuyển động của một nền văn hóa, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều căn nguyên rõ nét<br />
hơn. Trước hết về lịch đại, thời kì đầu thế kỉ XX (1900-1945), hai thế hệ thi nhân cũ và thi nhân<br />
mới khác nhau ở quan niệm và hai hệ hình diễn ngôn nghệ thuật.<br />
Ngày nhận bài: 15/12/2015. Ngày nhận đăng: 10/2/2016<br />
Liên hệ: Trần Mạnh Tiến, e-mail: tranmanhtien56@yahoo.com<br />
<br />
3<br />
<br />
Trần Mạnh Tiến<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Về nhãn quan thi học các nhà Nho 30 năm đầu thế kỉ XX<br />
<br />
2.1.1. Ý thức trung thành với thi học cổ điển phương Đông<br />
Các cây bút lớn lên từ Nho học đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của thi học cổ điển phương<br />
Đông. Trong công trình Việt Hán văn khảo (1918), Phan Kế Bính vẫn đề cao quan niệm “thi dĩ<br />
ngôn chí” của thơ ca cổ điển Trung Hoa: “Thơ để nói chí của mình, thơ để ngâm vịnh tính tình”<br />
[1;13]. Từ đặc trưng của thơ ca, Nguyễn Văn Ngọc viết: “Thơ là tiếng nói, là lời ngậm ngùi than<br />
thở của người nhân thấy vật mà dựng nên hình, nhân gặp đề mà ngâm thành vận... Thơ là một thể<br />
văn có thanh, có vận ngâm vịnh được” [5;150]. Cách nhìn về thơ của nhà biên khảo nay vẫn còn<br />
phảng phất không khí Tuỳ Viên thi thoại của Viên Mai, nhà thi học cổ điển Trung Hoa.<br />
Khi bàn về cuốn sách Cổ xuý nguyên âm (1917) của Nguyễn Đông Châu, Phạm Quỳnh<br />
cũng thừa nhận tính nghiêm ngặt của thơ truyền thống: “Xem đấy thì biết luật thơ cũng nghiêm<br />
như luật hình vậy. . . Người nào không thuộc luật thì phạm những tội ghê gớm, đọc đến mà rùng<br />
mình: Nào là tội thất luật, tội thất niêm, tội khổ độc, tội cưỡng áp, tội trùng ý, trùng chữ, điệp điệu<br />
v.v... Khuyên ai mới làm thơ phải học thi luật cho kĩ” [6;38]. Đồng thời phê bình về Đoàn Như<br />
Khuê ông viết: “Ông Đoàn Như Khuê là người đa sầu mà là người đa cảm, bởi đa cảm nên đa<br />
sầu. . . Bởi thế những câu hay thường là câu buồn” [8;40]. Từ năm 1917 về trước, Phạm Quỳnh vẫn<br />
tiếp thu quan niệm “thi giả căn tình” của nhà Nho. Trong bài Mối cảm tưởng về thơ ca nước ta trên<br />
An Nam tạp chí, Tản Đà viết: “Thơ ca không phải là tranh ảnh mà có cái mĩ thiện của tranh ảnh.<br />
Thơ ca không phải là dàn nhạc mà có cái mĩ thiện của dàn nhạc” [2;486]. Ông còn cho hay: “Thơ<br />
ca có cái năng lực khiến được người”, có ảnh hưởng “trong chín châu ngoài bốn bể. . . một bài thơ<br />
ca cũng đi như vô tuyến điện. . . “âm”, “vận” của thơ ca nước ta “ở chỗ đó phát ra có rất nhiều tia<br />
sáng. . . ” [3;488]. Là một nhà Nho thức thời, quan niệm thơ của Tản Đà đã rộng hơn quan niệm thơ<br />
của các nhà Nho khác, ông chỉ ra được tính chất thời sự và tính nhân loại của thơ ca, nhưng Tản<br />
Đà cũng chưa vượt thoát hẳn quan niệm thi học của các bậc tiền nhân, để trở thành một nhà Thơ<br />
mới. Cùng thời, Phan Khôi cũng có những phát hiện sâu về cuộc đời nhà thơ tàng ẩn trong thơ:<br />
“Thi nhân hay mượn tình tiết của người đàn bà để kí thác tâm sự của mình. Cái đó là thường như<br />
Cung oán ngâm khúc, cả bài kể lể nỗi oán hận uất ức của người cung phi, nhưng kì thực là tác giả<br />
tự kêu van sự bất bình cho mình” [4;64]. Mặc dù quan niệm về thơ rất đa dạng, nhưng phần đông<br />
các học giả vẫn tán thành quan niệm “khuôn vàng thước ngọc” của thơ ca trung đại.<br />
Về chủ thể sáng tạo, Nguyễn Văn Ngọc cho nhà thơ phải có cái “diệu ngộ, thi cốt, thiên tài”,<br />
“trời đã phú cho mình cái tính làm nên thơ”, thơ là “việc riêng” của nhà thơ. Về nhân cách nhà thơ:<br />
“Thơ là cái hành lược của người ta: Người cao thượng, thì thơ cao thượng, người thiển lậu thì thơ<br />
thiển lậu, không sao che đậy được; thấy thơ tức như là thấy người” [6;27]. Về tầm quan trọng của<br />
thơ ca, nhiều nhà Nho cho thấy thơ ca liên quan đến vận nước. Nguyễn Văn Ngọc viết: “Thơ là cái<br />
hình ảnh của cả nước, thơ thuần chính thì nước tất thịnh, thơ tà dâm thì nước tất suy đồi” [6;28].<br />
Phan Bội Châu đề cao thơ văn Phan Châu Trinh: “Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cầm quyền<br />
trông gió cũng gai ghê - Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng cửa dân chủ ngọn đèn so sáng chói”<br />
(Văn tế Phan Châu Trinh). Theo các nhà Nho thơ mang trong mình nhiều giá trị: tư tưởng tâm hồn<br />
và cái đẹp.<br />
<br />
2.1.2. Quan niệm “khuôn vàng thước ngọc” trong thi pháp của các nhà Nho đầu thế kỉ XX<br />
Quan niệm khuôn phép thơ rất rõ trong các công trình biên khảo của Nguyễn Đông Châu;<br />
Phan Kế Bính; Hồ Ngọc Cẩn; Lê Thành Ý và Nguyễn Hữu Tiến; Dương Quảng Hàm, Trần Trung<br />
4<br />
<br />
Hành trình từ thi học cổ điển phương Đông đến quan niệm về Thơ mới<br />
<br />
Viên; Nguyễn Văn Ngọc v.v... Các nhà biên khảo vừa tập hợp vừa sắp xếp thơ truyền thống theo<br />
thi pháp thơ trung đại, nhằm bảo tồn để hậu thế noi theo. Việc phân loại thơ trung đại của các nhà<br />
Nho khá thống nhất: phép tắc nhấn mạnh trước, kĩ xảo nhắc tới sau. Trong đó, Việt Hán văn khảo<br />
của Phan Kế Bính là cuốn sách tiêu biểu nhất cho quan niệm thi học cổ điển Trung Hoa. Tác giả<br />
viết: “Trong lối thơ cũng phân ra làm nhiều thể cách riêng: Thơ 5 chữ gọi là thơ ngũ ngôn; thơ 7<br />
chữ gọi là thất ngôn, ngũ ngôn, thất ngôn mỗi bài 4 câu gọi là tứ tuyệt, mỗi bài 8 câu gọi là bát cú.<br />
Thất ngôn dùng đến 8 câu, ngũ ngôn hoặc dùng 8 câu hoặc dùng 10 câu là thường, còn dài hơn<br />
nữa gọi là thơ tràng thiên hoặc gọi là hành. Ngũ ngôn, thất ngôn không cần điệu bằng trắc, duy<br />
chỉ có văn thì gọi là cổ thể; cần phải dùng đến điệu bằng trắc, thì gọi là Đường luật... muốn biết<br />
điệu bằng trắc thì trước hết phải biết cách đánh vần”. Ông còn khảo tả điệu “bằng, trắc” chia thơ<br />
thành sáu thể: ngũ ngôn thể bằng; ngũ ngôn thể trắc; thất ngôn thể bằng; thất ngôn thể trắc; ngũ<br />
ngôn thể bằng vần trắc; thất ngôn thể trắc vần bằng. Qua công trình khảo cứu công phu cho thấy,<br />
nhà Nho này muốn bảo tồn “quốc hồn”,“quốc túy” và “khuôn vàng thước ngọc” thơ ca trung đại.<br />
Do hoạt động sáng tác vẫn tiếp nối truyền thống, nên quan niệm về thơ ba thập niên đầu thế kỉ XX<br />
vẫn là quan niệm của nhà Nho, riêng thể thơ lục bát mang bản sắc Việt Nam vẫn chưa được quan<br />
tâm đầy đủ và đặt đúng vị trí quan trọng của nó trong lịch sử thơ ca dân tộc. Việc phân loại thơ<br />
của các nhà Nho chủ yếu là hình thức thể thơ Đường luật.<br />
Từ nhiều góc nhìn của các nhà Nho cho thấy: Thơ là sự hội tụ của nhiều giá trị tinh hoa<br />
truyền thống dân tộc, biểu hiện tâm hồn trí tuệ, nhân cách nhà thơ, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhân<br />
quần xã hội, là hiện thân của tinh thần dân tộc; người sáng tác thơ phải nắm vững luật thơ... Thơ<br />
luật có những thành tựu nhất định trong ba thập niên đầu thế kỉ XX với những sáng tác của Phan<br />
Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thường Hiền, Tản Đà...<br />
Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ của văn học viết bằng chữ Quốc ngữ và ảnh hưởng của văn<br />
hóa phương Tây, xã hội nhiều thay đổi, nhu cầu biểu lộ tâm hồn con người ngày càng phong phú,<br />
kiểu thơ Đường luật trên báo chí ngày càng trở nên nhàm chán, những dấu hiệu Thơ mới đã hình<br />
thành trong thơ ca dịch và một vài sáng tác, đã báo hiệu cho một cuộc cách mạng thơ ca.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Cuộc khủng hoảng về thi học cổ điển phương Đông, Thơ mới ra đời<br />
<br />
2.2.1. Những mâu thuẫn trong tiếp nhận và sáng tạo<br />
Trong gần 3 thập niên đầu thế kỉ XX, thi học nhà Nho vẫn trụ vững thi đàn, nhưng do ảnh<br />
hưởng văn hóa phương Tây, ngay từ thập kỉ đầu tiên, có những cây bút đã nhận ra nhưng hạn chế<br />
của thơ ca truyền thống. Trong bài Tật huyền hồ sáo hủ trên Đông Dương tạp chí, số 15, ngày 21/<br />
8/1913, Nguyễn Văn Vĩnh đã phê phán lối sáo mòn của thơ ca trung đại: “Xét trong văn chương,<br />
xảo kị nước Việt Nam điều gì, cũng toàn là huyền hồ giả dối hết cả, không cái gì là thực tình.<br />
Người làm thơ thì ngâm những câu núi Thái Sơn, sông Hoàng Hà, trời cao, bể rộng. Núi Tản Viên,<br />
sông Nhị Hà sờ sờ trước mắt thì cảnh không ứng bao giờ. Mượn chữ người, mượn cả đến phong<br />
cảnh, tính tình, chớ không biết dùng cái vật liệu mượn ấy mà gây dựng lấy văn chương riêng cho<br />
nó có lí tưởng đặc biệt.” [10; 4]. Đó là một hồi chuông sớm cảnh tỉnh cho người cầm bút.<br />
Đến bài viết Bàn về thơ Nôm (1917), Phạm Quỳnh đã đem so sánh bài Qua Đèo Ngang của<br />
bà Huyện Thanh Quan với bài Soir en montagne (Buổi chiều chơi núi) của Léonce Depont và nhận<br />
xét: “Cứ so sánh hai lối thơ ấy thì biết hai cái tinh thần khác nhau là dường nào; một bên thì vụ bề<br />
nhân công, một bên thì chuộng vẻ thiên thú. Vụ bề nhân công thì chủ lấy cực kì tinh xảo, làm bài<br />
thơ như chạm một hòn ngọc, uốn một cái cây, sửa cái vườn cảnh, thế nào cho trong cái giới hạn<br />
nhất định, thêu nên bức gấm trăm hoa. Chuộng vẻ thiên thú thì nhà thơ tự coi mình như cái phong<br />
cầm, tuỳ gió thổi mà lên tiếng”. Đồng thời ông chỉ ra mặt hạn chế của thơ ta “ngắn hơi, không hô<br />
5<br />
<br />
Trần Mạnh Tiến<br />
<br />
hấp được mạnh đọc lên có cái cảm giác như con chim con chưa bay lên ngàn được” [8; 64]. Điều<br />
đó cho thấy thơ truyền thống không đáp ứng nhu cầu tiếp nhận mới. Qua so sánh, ông đề ra nhu<br />
cầu đổi mới thơ trong nước và chủ trương “điều hoà” thơ ta với thơ Tây,<br />
Cuối những năm hai mươi, thi học nước nhà lâm khủng hoảng. Trong cuốn sách Sự nghiệp<br />
thơ văn Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928) của Lê Thước đã nhận ra những đặc điểm<br />
“gò bó”, “tắc tụng”của thơ Đường luật. Các nhà Nho thức thời đã nhìn thấy những trở ngại của nền<br />
thơ đất Việt. Hoàng Ngọc Phách đã lên tiếng: “Đến nay nền quốc văn ngày một thịnh, tiếng dùng<br />
một cách đã có quy củ, khuôn phép như xưa, mà “hồn cổ nguyệt” không thấy ứng hiện” [7;74].<br />
Mong muốn của ông, nền văn học mới, phải có những nhà thơ xứng với tầm dân tộc, phù hợp<br />
với thời đại. Tiếp đến bài viết của Phan Khôi Thế nào là thơ láo? trên báo Thần Chung phê phán<br />
sự “giả dối” của một số bài thơ: “Nước Nam ta chẳng đời nào thấy tuyết, vậy mà trong thơ Nôm,<br />
thường thấy có những chữ tuyết phủ, tuyết ngậm thì thật là láo quá!” [3;64]. Nhận xét đó đồng<br />
hành với ý kiến Trịnh Đình Rư trên Phụ nữ tân văn, về sự “gò bó”, chật hẹp của thơ Đường luật<br />
và đề cao thơ lục bát... Mãi đến năm 1932, trên Phụ nữ tân văn, Phan Bội Châu mới viết: “Khai<br />
trương Mộng du thi xã”, dạy thi pháp thơ Đường về luật, niêm, thanh, vận, đối...thì trào lưu Thơ<br />
mới đã dâng cao, Phan sực tỉnh chê thơ Đường là “nhại” và viết bài Lối thi từ mới trên “Văn học<br />
tuần san” (số 2 ngày 01/10/1933) đòi cách tân thơ, thì Thơ mới đã thành làn sóng mới.<br />
Cuộc khủng hoảng thi học các nhà Nho diễn ra vào cuối những năm 20 của thế kỉ XX là<br />
một tất yếu khách quan do những đổi thay của thời đại và cuộc giao tranh giữa hai nền văn hóa<br />
Đông Tây đã có chiều sâu, đến lúc cần có những sản phẩm nghệ thuật mới. Những khủng hoảng<br />
của thi học phương Đông hồi đầu thế kỉ đã góp phần tạo nên hiệu ứng cho một nền thi ca mới.<br />
Một bộ phận nhà thơ vẫn hấp thu tinh hoa thơ Đường luật và ca dao để làm ra Thơ mới. Có được<br />
một trào lưu đổi mới và thành tựu Thơ mới rạng rỡ trong giai đoạn 1932-1945 là do ba thập kỉ tìm<br />
đường mở hướng của các cây bút biết nhìn xa về phía tương lai.<br />
<br />
2.2.2. Những quan niệm mới và mô hình cách tân thơ<br />
Có thể nói mầm mống Thơ mới đã manh nha từ những bản dịch thơ Pháp của Nguyễn Văn<br />
Vĩnh. Năm 1928, ông dịch bài Con ve và con kiến (La Cigale et la Fourmi) trên báo Trung Bắc Tân<br />
Văn theo lối tự do, đã đem đến cho bạn đọc cảm nhận mới về thơ tự do. Năm 1929, sau những đề<br />
xuất mô hình Thơ mới dựa vào thơ lục bát của Trịnh Đình Rư, từ 1932 trở đi trên sách báo lần lượt<br />
xuất hiện những bài thơ rất mới của các cây bút Phan Khôi, Thế Lữ, Lan Khai, Xuân Diệu, Nguyễn<br />
Bính, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử, Huy Thông, Bích Khê, Nguyễn Nhược Pháp... với<br />
những bài thơ câu thơ, giọng điệu hoàn toàn mới mẻ đã châm ngòi cho các cuộc giao tranh về thơ<br />
cũ và Thơ mới. Trong các truyện đường rừng của Lan Khai có sự đan xen những bài thơ tự do, và<br />
những bản dịch dân ca Mông, Tày, Nùng, Dao, Bana sang Tiếng Việt bằng thể thơ tự do và lục bát<br />
theo điệu mới. Phan Khôi viết bài thơ Tình già như một câu chuyện kể, Xuân Diệu, Nguyễn Bính,<br />
Bích Khê bộc lộ rõ trạng thái tâm hồn yêu đương của thanh niên bằng thơ... Cùng tham dự vào<br />
cuộc tranh luận thơ cũ và Thơ mới, Lưu Trọng Lư viết bài Đọc “Thơ thơ” của Xuân Diệu trên Tao<br />
Đàn, số1/1939 có nhận xét: “Xuân Diệu là một người học trò của trường học mới, một người đã<br />
tìm nguồn sống ở đôi vú sữa phương Tây”. Vậy, phải chăng “thơ Tây” đã làm nên chân dung Xuân<br />
Diệu? Trong nhiều tác phẩm của “nhà Thơ mới nhất trong những nhà Thơ mới” này vẫn phảng<br />
phất chất Đưởng thi và chất liệu ca dao Việt. Như vậy có thể thấy, “thơ Tây” đã lọc qua nền văn<br />
hóa Việt để thẩm thấu vào hồn thơ Xuân Diệu. Trên tờ Đông Pháp số 4669, năm 1940, Lan Khai<br />
có bài Bạn trẻ với hai lối thơ cũ và mới nêu quan niệm về thơ: “Vậy thì từ nay ta chỉ nên coi “Thơ<br />
mới” và “thơ cũ” là sở trường, sở đoản của thi gia, đã tuỳ tài riêng mình mà phô diễn tâm tình cùng<br />
ý tưởng... Không có Thơ mới và thơ cũ, chỉ có thơ mà thôi”. Song thực tế thơ cũ và Thơ mới đã<br />
khu biệt hình hài về cảm hứng, âm điệu, hình tượng và kết cấu. Đến cuốn sách Mực mài nước mắt<br />
6<br />
<br />
Hành trình từ thi học cổ điển phương Đông đến quan niệm về Thơ mới<br />
<br />
(1941), Lan Khai đã nhận rõ Thơ mới và thơ cũ, đồng thời kịch liệt phê phán những cây bút lười<br />
biếng, nguội lạnh, sáo mòn, nệ cổ như “con trâu nhai lại cỏ” trong cuộc xây dựng “tân văn hóa”<br />
nước nhà để khẳng định cái mới cho thơ. Nhu cầu tiếp nhận mới đã chứng minh thế áp đảo từ Thơ<br />
mới, những tác phẩm Thơ mới lần lượt ra đời chứng minh sự thắng lợi của quan niệm nghệ thuật<br />
mới, Thơ mới là những sáng tạo tự do về cảm hứng, tư tưởng và hình thức phô bày. Từ mô hình<br />
xưa về thơ “vô ngã”chuyển sang kiểu cái tôi trữ tình đã hiện rõ chân dung từng thi sĩ như một sự<br />
giải thoát những trói buộc cá nhân khi cầm bút.<br />
Một số thi nhân vừa sáng tác vừa phát ngôn quan niệm nghệ thuật mới của mình như Phan<br />
Khôi, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu... Các cây bút lí luận phê bình tân học cũng lần lượt đứng về Thơ<br />
mới, xem đó là cuộc cách tân nghệ thuật đầy hứa hẹn. Họ đã “viết những điều chưa viết và nói<br />
những điều chưa nói” bằng thơ. Cùng với tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn và văn xuôi hiện thực<br />
phê phán, Thơ mới đã tạo nên không gian mới về nghệ thuật. Là người đi tiên phong cách tân thơ<br />
và thực hành Thơ mới, trên Phụ nữ Tân văn số 122 năm 1932, Phan Khôi đã đề xuất: “Tôi sắp toan<br />
bày ra một lối Thơ mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên là lối gì được, song có thể<br />
cứ cái đại ý của lối Thơ mới này ra, là: đem ý có thật trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu,<br />
có vận mà không phải bó buộc bởi niêm luật gì hết”. Sự xuất hiện bài thơ Tình già (1932) đã chứng<br />
minh quyết tâm phá vỡ thành trì thơ cũ của Phan Khôi. Đây cũng là nhà Nho hiếm hoi biết tự “lột<br />
xác” mình để bước vào Thơ mới. Bài thơ Tình già đã minh chứng cho cảm xúc tự nhiên bất chấp<br />
lề luật thơ truyền thống, phân biệt thơ cũ là “khuôn khổ” và Thơ mới là “rộng rãi”. Bài thơ Quê ta<br />
trong Rừng khuya của Lan Khai theo thể tự do và các bài dân ca Tày trong Suối Đàn, dân ca Dao<br />
trong Tiếng gọi của rừng thẳm, dân ca Mông trong Lô Hnồ, dân ca Ba na trong Chiếc nỏ cánh<br />
dâu được ông dịch ra tiếng Việt theo thể tự do mang giọng điệu hồn nhiên, phóng khoáng... Quan<br />
niệm về thơ cũ và Thơ mới được nhận diện ở cả nội dung và hình thức qua sáng tác và chuyển dịch.<br />
Song Thơ mới chuyển động thành trào lưu mạnh mẽ cùng những thi nhân có chân tài ngày càng<br />
lớn mạnh là nhân tố quyết định thắng lợi trên diễn đàn thơ cả nước.<br />
<br />
2.2.3. Thơ mới là kết quả vận động của một nền văn hóa<br />
Nền văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX là hình ảnh của một nước thuộc địa, đã diễn<br />
ra cuộc “giao lưu hội nhập ngoài mong muốn” với sự giao tranh tư tưởng và nghệ thuật phương<br />
Đông với phương Tây. Trong khoảng 30 năm đầu, nền văn hóa Việt Nam còn mang tính đối kháng,<br />
nhưng từ những năm 1930 trở đi lại có tính dung hòa. Nhưng các nhân tố về kinh tế, chính trị, đạo<br />
đức, tôn giáo, giáo dục, văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, tập quán, môi trường v.v... đều biến đổi.<br />
Thơ ca nằm trong giao điểm của các diễn biến văn hóa đó. Sự chuyển động của văn hóa kéo theo<br />
văn học. Với người Việt thơ ca là một loại hình tư duy linh hoạt nhất trong sinh hoạt cộng đồng.<br />
Người ta có thể tìm thấy những đặc trưng văn hóa Việt Nam qua thơ Việt. Thế hệ các nhà Thơ mới<br />
có thể là con đẻ của nhà Nho, song nhà Nho không thể sinh thành ra Thơ mới mà Thơ mới là sản<br />
phẩm của một nền văn hóa giao tranh về hệ hình tư tưởng và thi pháp có kế thừa sáng tạo, nên có<br />
một sức sống riêng, vừa gần gũi lại có vẻ xa xôi, nhưng có sức thu hút mạnh mẽ thế hệ thanh niên.<br />
Họ tìm thấy tâm hồn, tình cảm và khát vọng của mình trong Thơ mới và muốn tự do thổ lộ mình<br />
như Hoài Thanh cảm nhận “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.<br />
Thơ mới là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam trong một thời đoạn lịch sử riêng đã sinh<br />
thành ra nó. Chúng ta có thể tìm thêm lời giải về hình hài Thơ mới từ đâu qua cách nhìn về mối<br />
quan hệ văn học và văn hóa của nhà nghiên cứu M.Bakhtin: “Không thể tách rời văn học ra khỏi<br />
hệ thống văn hóa và “vượt mặt” văn hóa liên hệ trực tiếp với các nhân tố chính trị - kinh tế - xã<br />
hội. Những nhân tố ấy tác động trực tiếp đến văn hóa trong chỉnh thể của nó và chỉ thông qua nó<br />
mà ảnh hưởng đến văn học” [2;182]. Từ góc nhìn văn hóa chúng ta có thể phám phá được những<br />
kết tinh trong Thơ mới ở tính tổng hòa ý thức xã hội, thời đại và nghệ thuật.<br />
7<br />
<br />