intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hành trình về miền Viễn Tây nước Úc 2

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

59
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hành trình về miền Viễn Tây nước Úc 2 Vườn Quốc gia Cape Range Con đường tiến về phiá bắc vẫn đơn điệu. Khi chúng tôi vượt qua Đông Chí Tuyến (Tropic of Capricorn) [2], những tia nắng mặt trời trở nên gay gắt. Chúng tôi đến thị trấn nhỏ tên là Exmouth vào một buổi trưa nắng gắt nhiệt đới. Nơi đây là cái góc nơi gặp nhau bờ biển phía Tây và bờ biển phía Bắc của châu Úc. Vì địa thế chiến lược quân sự, vào thập niên 60 của thế kỷ trước, Mỹ và Úc thiết lập những...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hành trình về miền Viễn Tây nước Úc 2

  1. Hành trình về miền Viễn Tây nước Úc 2 Vườn Quốc gia Cape Range Con đường tiến về phiá bắc vẫn đơn điệu. Khi chúng tôi vượt qua Đông Chí Tuyến (Tropic of Capricorn) [2], những tia nắng mặt trời trở nên gay gắt. Chúng tôi đến thị trấn nhỏ tên là Exmouth vào một buổi trưa nắng gắt nhiệt đới. Nơi đây là cái góc nơi gặp nhau bờ biển phía Tây và bờ biển phía Bắc của châu Úc. Vì địa thế chiến lược quân sự, vào thập niên 60 của thế kỷ trước, Mỹ và Úc thiết lập những đài ăng-ten cao tương đương với tháp Eiffel của Pháp để liên lạc với tàu ngầm của phe ta và theo dõi tàu ngầm của phe địch. Thị trấn nhỏ này được thành lập vì nhu cầu sinh sống của những người Mỹ làm việc tại đây. Sau khi người Mỹ rút lui, thị trấn trở nên trung tâm của Vườn Quốc gia Cape Range với bãi biển cát trắng kéo dài lẫn trong màu xanh ngọc bích của biển. Vùng biển phía Tây và Tây Bắc nước Úc là những vùng biển tinh khôi, hoang vu ít tàu bè quốc tế qua lại. Đất lành chim đậu. Những đàn cá voi khổng lồ có tên là "whale shark", loại to và dài nhất của loài cá, tụ tập về đây tìm mồi sinh sôi nảy nở, đồng thời tạo công ăn việc làm cho dân địa phương với dịch vụ chở khách ra ngoài khơi xem đàn cá phì phèo phun nước, phóng lượn trên không. Chúng tôi theo một đoàn du khách lên chiếc du thuyền ra khơi để nhìn đàn cá. Dịch vụ du thuyền khá phổ biến và tấp nập khách nhàn du. Với cái giá $65 mỗi người, chủ tàu đảm bảo sẽ nhìn thấy cá, nếu không thấy cá thì lần sau trở lại sẽ được đi cho không, miễn phí! Cái kiểu quảng cáo "trớt quớt", có bao người du khách trở lại lần hai?! Cách bờ biển vài cây số, mặt biển yên tĩnh như mặt hồ và đàn cá cũng tấp nập không kém số người xem. Những người Tây phương điệu nghệ, mang theo vài
  2. chai rượu vang nhâm nhi từng ngụm nhỏ với các món nhắm như phô-mai, trái ô- live, con hào, bánh quy lạt được chủ tàu cung cấp, vừa nhìn hoàng hôn bừng đỏ cả bầu trời, vừa ngắm nhìn đàn cá phóng lượn. Tôi ngồi im lặng nhìn đàn cá vừa đủ chán để lấy "vốn" lại, rồi tôi quay sang nhìn người. Một cặp trai gái trẻ người Úc dường như mới quen nhau qua... internet, nên vẫn còn e dè "tương kính như tân". Người bạn trai chỉ trỏ ra vẻ sành đời, giải thích đủ chuyện trên trời dưới đất cho người bạn gái. Thỉnh thoảng anh ta quay sang nói chuyện với tôi, rủ rê ngày mai cùng đi snorkelling [3]. "Vùng biển này có nhiều san hô tuyệt đẹp. Không đi snorkelling nhìn san hô thì đến đây chỉ phí tiền ông ạ!", anh ta bảo. "Hai anh chị đang đi tuần trăng mật à...?", tôi giả vờ ngây thơ hỏi chuyện. Cô con gái đỏ mặt cười toe, anh con trai phủi tay như phủi ruồi đính chính, "Không, không... làm gì có chuyện đó. Ông nhìn sao mà nghỉ vậy? Mới biết nhau thôi mà...". Hai đàn ông người Anh, một già một trẻ, giống nhau như đúc, có lẽ cha con. Ông con cầm cái máy chụp ảnh to đùng hướng về đàn cá bấm máy liên tục, người cha ngồi yên nhìn thẳng không màng đến đàn cá ngoài khơi, cũng chả màng ăn uống, thỉnh thoảng cười bâng quơ. Hai ba anh tiếp viên chiếc du thuyền mang ra những cái đĩa to đầy ắp tôm luộc, đặc sản của Exmouth. Đây là phần ẩm thực bao gồm trong cái giá $65. Đám du khách nhanh chân ngồi quanh những cái đĩa, miệng nhai tay bóc vỏ. Một bà người Đức ăn không kịp thở, ăn không ngượng ngùng, ăn như chưa từng bao giờ thấy tôm, "kiên trì" trước cái đĩa tôm từ đầu đến cuối. Ánh hoàng hôn lặng lẽ buông xuống trên đường chân trời xa tắp, tiếp giáp với vùng biển xám nhấp nhô những đợt sóng phản chiếu tia nắng vàng trên bầu trời bảng lãng những vầng mây ửng đỏ (Hình 6). Một thiếu phụ trẻ đẹp nước da rám nắng, tay cầm ly rượu, ngồi xuống bên cạnh chúng tôi, tươi cười bắt chuyện, "Tôi
  3. là Janet, ông bà từ đâu tới? Singapore hay Nhật Bản?". "Không. Chúng tôi đến từ Melbourne, còn cô?", tôi hỏi. "Ồ... tôi là dân địa phương làm ăn ở đây. Tôi có một cửa hiệu nhỏ bán quần áo và dụng cụ snorkelling ở trung tâm shopping Exmouth đấy. Hôm nay, đóng cửa sớm dẫn mấy đứa nhỏ và rủ hai cô bạn cùng đám con ra biển khơi chơi cho thoải mái. Chúng tôi đều là mẹ độc thân!", cô cười cười nói nói. "Ông bà thấy đó, ở đây chả có gì ngoài biển và bờ biển. Bờ biển đẹp lắm. Ngày mai, ông bà có thời gian đến Sandy Beach tắm biển thì tuyệt vời. Những động vật biển như đàn cá voi kia, xem mãi cũng nhàm. Chỉ có cái này mới vui...". Cô chỉ ly rượu vang, rồi uống nốt ngụm cuối cùng. Tôi bình phẩm ở vùng Tây Bắc này cuộc sống quá chậm, người ta đi đứng như cuốn phim quay chậm, cung cách phục vụ khách hàng tốn thời gian dài gấp đôi; có phải vì thời tiết quá nóng hay con người ở đây bất cần thời gian? Cô gật gù đồng ý, "Tại ông không biết đấy chứ. Chữ viết tắt WA của bang Western Australia còn có nghĩa là "wait awhile" (đợi một lát nghen). Còn chữ Ex của Exmouth có nghĩa là extra. Vì vậy, ở đây phải "extra wait awhile" (đợi thêm một lát nghen)". Nói xong, cô ta nheo mắt cười xòa. Trời sụp tối. Sau gần hai tiếng đồng hồ lênh đênh trên biển, chiếc tàu nổ máy, tăng tốc quay về bờ. Mọi người trong đoàn lục tục đi xuống bến, từ giã nhau. Janet nói vói theo, "Nhớ đi Sandy Beach nhé!". Tôi vẫy tay chào rồi quay sang nói với anh bạn trẻ có cô bạn gái mới quen, "Rất tiếc là không đi snorkelling với anh ngày mai được. Chúc hai anh chị đêm nay ngủ ngon và nhiều dzui dzẻ nhé". Anh ta hiểu ý, đưa một cánh tay lên co lại như màn biểu diễn cơ bắp của Mr. Universe, khoái chí nhe răng cười... Sáng hôm sau, chúng tôi lái xe xem mũi đất của cái góc chiến lược Tây Bắc của đại lục Úc, cũng là điểm khởi đầu của Vườn Quốc gia Cape Range, được tiếp nối bởi những bãi biển kể cả bãi Sandy Beach của người đẹp "mẹ độc thân" Janet. Bờ biển đầy cát trắng, những bãi cát trắng như tuyết kéo dài không dứt, lung linh dưới ánh sáng mặt trời (Hình 7). Cát ở đây cơ hồ có thể nấu chảy thành thủy tinh mà không cần phải qua một quá trình tinh luyện. Cảnh vật như bất động nếu không có
  4. vài người lác đác đang lặn hụp xa xa, hay những làn gió nhẹ làm xao động những bụi cỏ màu xanh nhạt, thỉnh thoảng xuất hiện những con cắc kè sa mạc vụt đứng vụt chạy, dáo dác tìm mồi. Hình 7: Sandy Beach. Pilbara: quặng sắt và thiên nhiên Quá trưa, chúng tôi từ giã bờ Tây xứ Úc, đổi về hướng đông đi vào nội địa tiến về vùng Pilbara. Trung tâm của vùng Pilbara là Vườn Quốc gia Karijini và khu vực khai thác quặng sắt Hamersley. Càng đi sâu vào nội địa, nắng càng gay gắt, cảnh quan càng hoang vu. Ở phía nam, bây giờ là tiết Xuân nhiệt độ 20 °C ôn hòa. Ở đây, nhiệt độ vượt hơn 40 °C. Máy lạnh của chiếc xe phải hoạt động tối đa. Các sinh hoạt của "sân sau" outback của nước Úc hiện rõ. Trên con đường thiên lý không một bóng xe, lâu lắm mới có vài chiếc "road train" ngược xuôi chở hàng hóa, thực phẩm, nhiên liệu cho các vùng sâu, hay bò cừu đến những bến cảng đi xuất khẩu. "Road train" là những chiếc xe tải siêu hạng, một phương tiện chuyên chở quan trọng và hiệu quả của vùng outback, kéo một lúc 3 chiếc rờ-mọt có chiều dài tổng cộng gần 60 mét. Việc dự trữ xăng cho xe và nước uống rất quan trọng khi lái xe trên những con đường này. Những trạm xăng thường cách nhau 150 - 250 cây số. Đây không phải là những trạm xăng thông thường mà là "road house" (nhà bên đường) cung cấp xăng dầu, thức ăn, chỗ tắm rửa và qua đêm. "Road house" phải tự cung cấp nước từ những mạch nước ngầm và điện từ các máy phát điện. Chúng tôi tạm trú tại một "road house" giữa đường đi đến Karijini. Nhân viên của "road house" ở giữa chốn đồng không mông quạnh này là hai cậu người Anh thuộc nhóm Tây ba lô với "working visa" lang bang rày đây mai đó. Vừa mở cửa
  5. bước xuống xe, hơi nóng từ bên ngoài hắt vào như đứng trước một lò lửa. Tôi vừa nhận chìa khóa phòng vừa than phiền, "Trời nóng như thế này thì còn làm ăn nỗi gì?". Anh nhân viên vừa cười, vừa "triết lý", "Thời tiết nóng như thế này thì đã như vậy từ 20 triệu năm qua rồi ông ạ! Ở chốn này, từ thời tiền sử đến giờ vẫn y chang, không gì thay đổi". Tôi bật cười trước cái dí dỏm nhưng chính xác của anh chàng Ăng-lê, "Tại sao anh không chọn chỗ nào thoải mái làm việc như đồng hương của anh tôi gặp ở thị trấn Carnarvon đấy?". Anh ta phân trần, "Ông biết không, bên Anh rét mướt, trời u ám luôn. Nên hai đứa tôi ước mơ chọn một nơi ấm áp làm việc vài tháng kiếm thêm chút tiền, nào ngờ ở đây trời quá nóng không thích hợp với bọn xứ lạnh chúng tôi. À... mà nói nhỏ cho ông nghe, tụi tôi phải rời khỏi nơi này trước khi mùa Hè ập tới, nghe đâu nhiệt độ lên sẽ đến 50 °C. Hai tuần nữa tụi tôi sẽ dzọt đi Singapore trở về với văn minh". Vừa nói anh ta vừa rón rén ngoái cổ nhìn phía sau nhà bếp nơi bà chủ với cái dáng người phốp pháp trông khó tính đang làm việc. Nhận xong chìa khóa chúng tôi đi về hướng các dãy "phòng". Trong cái oi bức của nắng chiều, bụi đất thỉnh thoảng bị những ngọn gió nóng thổi tung lên mù mịt, chúng tôi nhìn nơi qua đêm, rồi nhìn nhau mà lắc đầu ngán ngẫm. Căn "phòng" qua đêm có vẻ như là một container chứa hàng xuất khẩu được tân trang thành phòng ngủ. Nó như một nhà tù 3 x 3 m không cửa sổ, vừa đủ để hai cái giường đơn, một cái tủ lạnh mini, một cái máy lạnh trên vách. Trong cuộc đời du lịch bụi, tôi chưa từng gặp một căn phòng nào thê thảm như thế này với giá cắt cổ $80/đêm. Pilbara là một vùng đất có diện tích rộng hơn 400.000 km2, to hơn cả nước Việt Nam. Tài nguyên chính ở đây là quặng mỏ, nhất là quặng sắt lộ thiên. Phía bắc Pilbara là một vùng biển rộng lớn chứa các mỏ dầu khí quan trọng. Gần đây, Trung Quốc vừa ký kết với chính phủ Úc mua khí đốt trong khu vực này trị giá vài chục tỷ đô la. Pilbara quả là nơi của "rừng vàng biển bạc". Hãy tưởng tượng một vùng đất tương đương với nước Việt Nam, từ đông sang tây, từ bắc chí nam chỉ chứa toàn quặng sắt và nhiều quặng kim loại khác. Có đến nơi này mới nhìn thấy
  6. đất nước Úc cực kỳ giàu có. Đất trong vùng Pilbara có màu đỏ sậm biểu hiện sự tồn tại của sắt, vì quặng sắt thường ở dạng oxit sắt màu đỏ. Oxít sắt có từ tính thì ở dạng màu đen. Nói chính xác hơn, quặng sắt là quặng oxít sắt. Người ta tinh luyện oxít sắt ở nhiệt độ cao biến oxít thành sắt ròng. Phần lớn quặng sắt ở Pilbara là quặng lộ thiên. Nó hiển hiện ngay trước mắt mọi người. Đó là những cục đá, phiến đá màu đỏ xen lẫn màu đen lấp lánh nằm lăn lóc dọc theo quốc lộ, trên những con đường mòn đi vào các địa điểm tham quan du lịch, hay là những tầng trầm tích trên vách núi, dưới vực sâu, trong dòng suối... (Hình 8 và 9). Hình 8: Một quả đồi bị cắt để làm đường, lộ ra các trầm tích oxít sắt. Hình 9: Con đường mòn màu đỏ chứa oxít sắt . Khu vực Hamersley là trung tâm khai thác mỏ sắt chất lượng cao nổi tiếng thế giới, kế cận là Vườn Quốc gia Karijini cũng lừng danh không kém với các kỳ quan thiên nhiên. Hơn nửa thế kỷ qua kể từ ngày khai thác quặng mỏ với quy mô lớn trong vùng Hamersley, sự cân bằng giữa việc khai thác quặng mỏ, nền kinh tế quốc gia, việc bảo vệ môi sinh, bảo tồn di sản thiên nhiên và văn hóa người Aborigine [4] không đâu rõ nét hơn qua sự tương quan giữa Hamersley và Karijini. Chính phủ Úc và chính quyền tiểu bang Western Australia đã rất thành công trong việc giữ cán cân thăng bằng giữa lợi ích kinh tế quặng mỏ trước mắt và lợi ích lâu dài trong việc bảo tồn thiên nhiên và văn hóa. Những kinh tế gia lý thuyết, những lý luận gia chính trị, những nhà lập pháp, đại biểu quốc hội, thậm chí các nhà lãnh đạo cầm cân nẫy mực "đầy tớ của nhân dân", nên chịu khó đặt chân đến chốn này để nhìn thấy tận mắt sự hài hòa giữa việc khai thác quặng mỏ và việc bảo tồn văn hóa và môi sinh.
  7. Tiền đầu tư của các tập đoàn khổng lồ như BHP Billiton, Rio Tinto đổ vào cho việc khai thác quặng sắt đã biến vùng khỉ ho cò gáy này, một trong những vùng hoang dã nhất trên quả địa cầu, thành những ốc đảo vô cùng trù phú. Tập đoàn lớn kéo theo hàng loạt công ty con làm những công trình ngoại biên như xây dựng, chuyên chở, thủy lợi, ẩm thực, tạo ra luồng sinh khí thu hút dân tứ xứ về đây lập nghiệp. Những thị trấn hậu cần như Tom Price hay Newman với dân số không quá 3.000 mọc lên để đáp ứng nhu cầu ăn ở, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa của gia đình nhân viên và công nhân quặng mỏ. Tôi tò mò tìm hiểu thêm cuộc sống người dân qua những tờ báo địa phương và không khỏi bị hoa mắt trước trị giá của các bất động sản. Một căn nhà 3 phòng ngủ rất bình thường có giá bán $700.000 - 800.000. Đẹp hơn một chút thì phải hơn một triệu đô. Gấp đôi những căn nhà có phẩm chất tương đương ở các thành phố lớn như Sydney và Melbourne. Tiền thuê nhà cao hơn các thành phố gấp 5 lần với giá trung bình $1.500 - 2.000 cho một tuần. Tôi ngỡ nhà báo in sai, hỏi một người địa phương thì mới biết đó là giá công ty (corporate rate) thuê cho nhân viên. Ngoài ra, đồng lương của một nhân viên lao động với tay nghề bình thường là $2.000 - 3.000/ tuần, cao hơn lương kỹ sư hay chuyên viên tin học cao cấp trong thành phố. Nhà ở đã có công ty chăm lo, công nhân ôm trọn gói tiền lương trừ đi khoản chi phí ăn uống, cứ làm việc mỗi 4 tuần thì sẽ được nghỉ 1 tuần và lại được công ty cho phụ cấp để bay về quê quán. Ô... đây quả thật là thiên đường của nền kinh tế thị trường có "định hướng xã hội chủ nghĩa"! Nhưng tiếc thay, đây không phải là thiên đường vui chơi. Một nhân viên quặng mỏ than thở với tôi, "Ông à! Chốn này chán lắm. Độc thân như tôi không tìm được bạn gái ở đây. Không có con gái, bạn ơi, không có gái!" (nguyên văn: no girls here, mate, no girls).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0