intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hans Robert Jauss: Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận

Chia sẻ: Lulu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

75
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhìn chung lại quan niệm lịch sử tiếp nhận ở Jauss vừa bao hàm việc phê phán chống lại quan điểm thực thể, chống lại chủ nghĩa khách quan lịch sử vừa tạo điều kiện để ông cắt nghĩa sự giải thích khác nhau về một tác phẩm văn học như là sự cập nhật hoá phụ thuộc vào người đọc và hoàn cảnh bên ngoài đối với tiềm năng nghĩa được cài đặt trong tác phẩm

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hans Robert Jauss: Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận

  1. Hans Robert Jauss: Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận
  2. Nhìn chung lại quan niệm lịch sử tiếp nhận ở Jauss vừa bao hàm việc phê phán chống lại quan điểm thực thể, chống lại chủ nghĩa khách quan lịch sử vừa tạo điều kiện để ông cắt nghĩa sự giải thích khác nhau về một tác phẩm văn học nh ư là sự cập nhật hoá phụ thuộc vào người đọc và hoàn cảnh bên ngoài đối với tiềm năng nghĩa được cài đặt trong tác phẩm. Đồng thời nó cũng tạo c ơ sở giúp ông đưa ra luận điểm về việc “tái lập lại tầm đón đợi” như là một phương thức viết lịch sử văn học. Việc tái lập lại tầm đón đợi là do tác phẩm văn học nhất là tác phẩm thuộc quá khứ xa xưa luôn có một lịch sử tiếp nhận lâu dài hay nhiều vấn đề liên quan đến tác giả và tác phẩm không thể tìm thấy được. Khi ấy để nhận ra câu hỏi mà văn bản đã trả lời, để có thể hiểu được tác phẩm “từ ý đồ và thời đại của nó”, người ta phải dùng phương pháp “ phân tích lịch sử tiếp nhận” như chính ông đã vận dụng trong Iphigenie của Racine và của Goethe nhằm “giải thích xem có những sự cắt nghĩa nào đã chồng chất lên cái nghĩa lịch sử ban đầu của Iphigenie của Goethe” cũng như “chỉ ra là liệu trong sự tiếp nhận cho đến giờ có khả năng ngh ĩa nào chưa được khai thác hết hay đã bị dìm đ i”, bị che lấp đi(16). Có tìm lại được hay dựng lại được “tầm hỏi và trả lời”, “tầm đón đợi” của tác phẩm mới có thể chỉ ra được “sự thay đổi tầm”, “tính phủ định của tác phẩm”. Điều đó cho phép xác định được giá tr ị thẩm mỹ và đồng thời giá trị lịch sử của tác phẩm theo Jauss. Trên cơ s ở khẳng định nguyên lý lịch sử tác động của Gadamer cho rằng “yếu tố sáng tạo tồn tại trong sự hiểu”, “hiểu không phải chỉ là hành động tái tạo mà còn là hành động sáng tạo”(17), tức không chỉ là sự tiếp nhận của nhà phê bình mà còn là s ự tiếp nhận của nhà văn, Jauss tiếp tục đẩy tới lập luận của ông khi khẳng định “chức năng sáng tạo của sự hiểu liên t ục (…) tất yếu bao gồm cả sự phê phán truyền thống và sự lãng quên”. Và chức năng sáng tạo của sự hiểu đó được Jauss lấy làm cơ sở cho “ phác thảo một lịch sử văn học theo mỹ học tiếp nhận” trong các phần tiếp theo. Trong phác thảo về lịch sử văn học này Jauss s ẽ lưu ý đến “tính lịch sử văn học” ở ba phương diện: lịch đại, đồng đại và mối quan hệ giữa sự phát triển văn học và tiến trình chung c ủa lịch sử (189). Về phương diện lịch đại, luận điểm vừa được đề cập đến ở trên về sự tái tạo lại tầm đón đợi chỉ là một phần, phần lịch sử của sự hiểu hay tiến tr ình lịch sử của sự
  3. tiếp nhận tái tạo. Như vậy theo Jauss ngoài việc phải nắm bắt nội dung và hình thức của tác phẩm trong sự phát triển của sự hiểu nó, “lý thuyết mỹ học tiếp nhận c òn đòi hỏi xếp từng tác phẩm riêng lẻ vào trong dãy văn học của nó để nhận ra vị trí và ý nghĩa lịch sử của nó trong văn c ảnh kinh nghiệm văn học”. Ở luận điểm trên, lịch sử tiếp nhận được Jauss trình bày là lịch sử đọc hiểu, thẩm định tác phẩm của người đọc, nhà phê bình, nghiên c ứu văn học. Ở luận điểm tiếp theo này lịch sử tiếp nhận được Jauss quan niệm là “ lịch sử sự kiện văn học”. Sự tiếp nhận đó theo Jauss là sự tiếp nhận tích cực, sự tiếp nhận của nhà văn, người sáng tác để tạo ra tác phẩm mới. Hiểu theo lôgic hỏi và đáp thì bước chuyển từ sự tiếp nhận tiêu cực, thụ động sang sự tiếp nhận tích cực, chủ động này có thể xem như là một tiến tr ình kế tục. Theo đó, “tác phẩm tiếp theo giải quyết những vấn đề hình thức và đạo đức mà tác phẩm trước để lại và lại có thể đặt ra những vấn đề mới” (189). Tuy nhiên, với sự giải thích như vậy thì mối quan hệ hay bước chuyển từ sự tiếp nhận tiêu cực sang sự tiếp nhận tích cực vẫn chưa được làm rõ. Chính Jauss ở cuối chương X này đã thừa nhận rằng “những khả năng của s ự đan cài vào nhau c ủa sản xuất và tiếp nhận trong sự biến đổi của quan niệm thẩm mỹ hoàn toàn chưa thể hiện hết trong những điều trình bày đó” (194). Ngoài ra vấn đề không phải chỉ là nói đến bước chuyển t ừ sự tiếp nhận của nhà phê bình đến sự tiếp nhận của nhà văn mà còn cần nó i đến cả bước chuyển từ sự tiếp nhận tiêu cực sang sự tiếp nhận tích cực ở chính bản thân nhà văn. Có thể nói rằng vấn đề tiếp nhận tiêu cực, tiếp nhận tích cực được Jauss nêu ra ở công tr ình này của ông đây đó trong văn học Đức trước đấy cũng đã từng là những lĩnh vực nghiên cứu với những tên gọi khác nhau như nghiên cứu hay lịch sử danh tiếng, lịch sử hậu danh, lịch sử đánh giá, nghiên cứu hay lịch sử tác động, nghiên cứu ảnh hưởng…; những lĩnh vực nghiên cứu mà ngày nay hầu như đã được gộp lại vào hai khái niệm lịch sử tác động và lịch sử tiếp nhận. Song nội hàm c ủa hai khái niệm này đã và đang còn được hiểu rất khác nhau và ở Jauss chúng cũng chưa được lý giải một cách rạch ròi mà chỉ được ông phân biệt một cách đại thể khi nói rằng tác động xuất phát từ tác phẩm và tiếp nhận xuất phát từ người đọc. Với việc xác đ ịnh lịch sử tiếp nhận là “lịch sử sự kiện văn học” d ường như Jauss đã đặt vấn đề về sản xuất văn học khi ông nói đến “sự sản xuất của nh à văn”.
  4. P hần nào c ũng có thể hiểu như thế vì xét về phương diện nào đó c ũng có thể coi đây như là s ự tiếp thu “ảnh hưởng” để sáng tác tác phẩm mới, t ức thuộc mỹ học sản xuất. Tuy nhiên, s ự sản xuất ở quan niệm này có thể nói không phải là ở sự khởi đầu, không phải là xuất phát điểm mà là ở sự kết thúc, ở kết quả của tiến trình. X uất phát điểm của tiến tr ình là s ự tiếp nhận của người giải thích, là s ự nhận hiểu của nhà văn đối với câu hỏi mà tác phẩm tr ước đ ã để lại: tác phẩm sau là câu trả lời cho câu hỏi mà tác phẩm tr ước để lại trong cái logic hỏi và trả lời và bản thân nó c ũng sẽ để lại câu hỏi cho tác phẩm sau nó . N ghĩa là nó tạo ra một cái dãy văn học, một cái dãy bên trong văn học. Cái mà tác phẩm tr ước để lại sẽ là cái phủ định nó bởi từ đó sẽ xuất hiện tác phẩm sau, xuất hiện tầm đón đợi mới, xuất hiện sự thay đổi tầm, đ ưa đến vi ệc tạo ra giá trị thẩm mỹ mới, giá tr ị lịch sử của tác phẩm. M ột lịch sử văn học theo quan niệm nh ư vậy sẽ là một “lịch sử riêng”, một “lịch sử văn học đặc thù”. Nó gầ n như không liên quan tr ực tiếp đến những cái bên ngoài văn học, không trực tiếp xuất phát từ yêu cầu của xã hội, của hiện thực. Cho nên nó k hông chấp nhận, về phương diện lập tr ường nghệ thuật, quan niệm mô phỏng hay q uan niệm phản ánh văn học. Trên cơ s ở của quan niệm về lịch sử văn học nh ư là sự thay thế, sự kế tục của các tác phẩm văn học, Jauss nhận xét rằng lối viết “ lịch sử văn học theo chủ nghĩa thực chứng” đã quyết định đặt từng tác phẩm riêng lẻ “vào trong dãy niên đại và do đó đã hời hợt hóa nó thành một thực tế”(189). Không chỉ chủ nghĩa thực chứng mà theo Jauss cả chủ nghĩa hình thức nữa – mặc dù được ông coi là “ một trong các đề xuất có ý nghĩa nhất đối với sự đổi mới lịch sử văn học” (190) – cũng không hiểu tác phẩm văn học như là “sự kiện” văn học bởi nó cũng không đặt tác phẩm văn học vào mối quan hệ kế tục, “mối quan hệ tiếp nối lịch sử” (geschichtliches Folgeverhaeltnis), tức không xem tác phẩm sau nh ư là hệ quả của tác phẩm trước mà muốn xem xét nó theo “nguyên lý tiến hóa văn học”. Theo đó, tác phẩm mới h ình thành trên cái nền của những tác phẩm đi trước hay những tác phẩm c ùng cạnh tranh. Nó đạt đến “đỉnh cao” của một thời kỳ văn học với tính cách là một hình thức thành công. Với tính cách là một hình thức như thế nó sẽ được tác giả cũng như những người khác noi theo để sáng tác những tác phẩm mới, tức nó được “tái sản xuất” và “liên t ục tự động hóa”
  5. như một quá tr ình “tự sản sinh” của văn học . Qúa trình đó sẽ dẫn tới sự “mòn vẹ t”, sự nhàm chán của thể loại và khi đó một hình thức mới sẽ ra đời để thay thế nó. Ja uss đã giải thích quan niệm về sự “tiến hóa văn học” của chủ nghĩa h ình thức như vậy và ông cho rằng cách tr ình bày như thế của chủ nghĩa hình thức “có lẽ vượt trội hơn lý luận văn học truyền thống trên nhiều lĩnh vực”. Bởi vì nếu như phương pháp biên soạn lịch sử văn học của chủ nghĩa thực chứng theo Jauss chỉ nhằm sắp xếp các d ãy văn học đóng kín đứng bên cạnh nhau một cách rời rạc và cùng lắm đ ược tạo cho một khung sườn bằng một s ơ đồ lịch sử chung, tức là các dãy tác phẩm của một tác giả, một trường phá i hay khuynh hướng phong cách cũng như các dãy của các thể loại khác nhau, thì chủ nghĩa hình thức dường như đã liên kết được chúng lại với nhau và đã “phát hiện ra mối quan hệ tương hỗ có tính chất tiến hóa của các chức năng và hình thức” (190). Mặc dù đề cao những mặt “vượt trội” của chủ nghĩa hình thức so với các lý thuyết văn học truyền thống, nhưng Jauss cũng công nhận rằng người ta đã “chỉ ra khá đủ những yếu kém của lý thuyết tiến hóa của chủ nghĩa h ình thức”. Và từ góc nhìn của mỹ học tiếp nhận ông càng nhận ra những yếu kém đó. Theo ông “việc mô tả sự tiến triển của văn học nh ư là cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ của cái mới với cái cũ hay như là sự thay đổi của sự qui tắc hóa và tự động hóa các hình thức đã rút ngắn tính chất lịch sử của văn học vào sự cập nhật hóa một chiều kích của những thay đổi của nó và giới hạn sự nhận hiểu lịch sử vào sự cảm nhận nó. Những thay đổi của dãy văn học ngược lại chỉ trở thành hệ quả lịch sử nếu sự đối lập giữa hình thức cũ và hình thức mới cũng cho phép nhận ra sự trung giới đặc trưng c ủa chúng”(219). Jauss phê phán quan niệm đồng nhất sự nhận hiểu lịch sử với sự cảm nhận, sự tri giác, sự nhận biết gần như trực tiếp tác phẩm của chủ nghĩa hình thức, tức tác phẩm nghệ thuật sẽ được nhận biết trên cái nền của những tác phẩm khác. Ngược lại, với mỹ học tiếp nhận của Jauss , sự hiểu mang tính lịch sử về tác phẩm phải được trung giới qua tầm đón đợi của kinh nghiệm văn học , và tính chất nghệ thuật của tác phẩm có thể không được nhận biết trong tầm xuất hiện đầu tiên của nó. Hơn thế, không hiếm khi do sự kháng cự lại sự đón đợi của công chúng đầu tiên của nó lớn đến mức làm cho nó phải trải qua một quá trình tiếp nhận lâu dài mới lấy được cái mà trong tầm đầu
  6. tiên đã không được đón nhận. Và cũng có khi ý nghĩa tiềm tàng của một tác phẩm chỉ được phát hiện ra nhờ việc cập nhật hóa một h ình thức mới hơn của sự “tiến triển văn học” làm đạt được tầm đón đợi cho phép tìm thấy con đường nhận hiểu cái hình thức đã không được hiểu đúng. Đó là khoảng cách khả biến giữa sự nhận b iết thực tế đầu tiên và những ý nghĩa tiềm tàng của tác phẩm (193). Sự trung giới đó theo mỹ học tiếp nhận của Jauss bao quát b ước tiến từ hình thức cũ sang hình thức mới trong sự tương tác của tác phẩm và sự tiếp nhận (công chúng, nhà phê bình, người sản xuất mới) cũng như sự kiện quá khứ và sự tiếp nhận liên tiếp. Về mặt phương pháp, nó có thể được nắm bắt trong vấn đề hình thức cũng như nội dung “vấn đề mà mỗi một tác phẩm nghệ thuật đặt ra và để lại cho “những giải pháp” có thể có sau đó với tính cách là tầm đón đợi” (H. Blumenberg). Như vậy, mỗi tác phẩm nghệ thuật chỉ có thể đặt ra và giải quyết những vấn đề nào đó thông qua sự trung giới của nhà phê bình và nhà văn. Cho nên theo Jauss “đ ể nhận biết vấn đề còn để lại sau mà tác phẩm mới trong dãy lịch sử là câu trả lời người giải thích phải đưa kinh nghiệm riêng của mình vào bởi vì tầm quá khứ của hình thức cũ và mới, vấn đề và giải pháp chỉ có thể được nhận biết trở lại trong sự trung giới liên tục ở tầm hiện tại của tác phẩm được tiếp nhận. Lịch sử văn học với tính cách là sự “tiến hóa văn học” phải đặt tiến tr ình lịch sử của sự tiếp nhận và sản xuất thẩm mỹ cho đến tận thời hiện tại của người quan sát làm điều kiện cho sự trung giới mọi đối lập về hình thức hay chất lượng khác biệt” (192). Như trên đã lưu ý đến, phương pháp phân tích lịch sử tiếp nhận này - mà nhất thiết đòi hỏi phải xuất phát từ lập trường hiện tại của người quan sát - đã được Jauss vận dụng trong bài nghiên cứu Iphigenie của Racine và của Goethe. Ở đó dựa vào phân tích phê phán đối với lịch sử tiếp nhận Iphigenie của Goethe ở Đức, Jauss muốn tìm xem “có những sự cắt nghĩa nào đã chồng chất lên cái nghĩa ban đầu của Iphigenie của Goethe” và “liệu cái nghĩa “nguyên thủy” – nói chính xác hơn cái nghĩa xuất hiện cùng với sự xuất hiện của tác phẩm của Goethe hay cái nghĩa được những người đương thời với ông tri nhận – có thể còn có hoặc lại có một ý nghĩa nào đó đối với thời đại chúng ta hôm nay”(18). Tất nhiên như vậy ở đây không thể xa rời nguyên tắc đối thoại giữa tác phẩm quá khứ và người tiếp nhận ngày nay, trong đó có
  7. cả người sáng tác. Sự đối thoại này theo mỹ học tiếp nhận luôn luôn diễn ra trong lịch sử, tạo nên lịch sử tiếp nhận của tác phẩm, đưa đến sự hội tụ của văn bản và tiếp nhận. Sự tiếp nhận ấy luôn thay đổi do sự thay đổi của kinh nghiệm thẩm mỹ của các thế hệ công chúng khác nhau. Sự quan tâm đặt vấn đề của Jauss đối với tác phẩm của Goethe là nhằm vào một mục đích giải thích học, “đó là tái tạo lại tầm hỏi và đáp từ sự biến đổi của những sự cụ thể hóa Iphigenie. Nó chẳng những qui định quá trình tiếp nhận của việc hiểu luôn luôn thay đổi mà còn về phương diện sản xuất luôn luôn thúc đẩy để biến sự không đầy đủ trong cách giải quyết của những người tiền bối thành một hình dạng văn học mới hay “câu trả lời mới”(19). Sự giải thích trên của Jauss về cách phân tích lịch sử tiếp nhận Iphigenie là biểu hiện cụ thể của phương pháp biên soạn lịch sử văn học theo mỹ học tiếp nhận. Phương pháp này gắn liền với quan niệm của Jauss cho rằng “cái mới không chỉ là một phạm trù thẩm mỹ” mà “cái mới cũng còn trở thành phạm trù lịch sử nếu việc phân tích văn học theo lịch đại đ ược tiếp tục đẩy tới vấn đề là những yếu tố lịch sử nào đích thực là những yếu tố làm cho cái mới của một hiện tượng văn học trở thành mới, ở mức độ nào cái mới này trong giờ phút lịch sử của sự xuất hiện của nó đã có thể được nhận biết, khoảng cách nào, con đường nào hay đường vòng nào của sự nhận hiểu mà sự chuộc lại nội dung của nó đòi hỏi phải có. Và liệu thời điểm của sự cập nhật hóa hoàn toàn của nó có sức mạnh tác động đến mức có thể làm thay đổi tầm nhìn vào cái cũ và như vậy thay đổi sự quy tắc hóa quá khứ văn học” (193-194).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2