intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hệ động lực của chủ nghĩa xã hội - từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đến Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

52
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tác giả bài viết đi sâu phân tích vấn đề động lực của chủ nghĩa xã hội trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và qua đó khẳng định năng lực vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của nhà tư tưởng vĩ đại Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hệ động lực của chủ nghĩa xã hội - từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đến Hồ Chí Minh

  1. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam HỆ ĐỘNG LỰC CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - TỪ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN ĐẾN HỒ CHÍ MINH PGS.TS.GVCC. Trần Thị Minh Tuyết Học viện Báo chí và Tuyên truyền Tóm tắt Với bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đều khẳng định tính tất yếu và mục tiêu thiết lập trên thực tế xã hội cộng sản, xã hội xã hội chủ nghĩa. Để giành được thắng lợi trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải nhận thức đầy đủ và phát huy cao độ hệ động lực của chủ nghĩa xã hội. Tác giả bài viết đi sâu phân tích vấn đề động lực của chủ nghĩa xã hội trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và qua đó khẳng định năng lực vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của nhà tư tưởng vĩ đại Hồ Chí Minh. Từ khóa: Động lực, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh... Với phƣơng pháp luận duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định tính tất yếu trong sự diệt vong của chủ nghĩa tƣ bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Ra đi từ một nƣớc phƣơng Đông bị nô dịch, trong quá trình tìm đƣờng cứu nƣớc, Hồ Chí Minh đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin - chân lý lớn của thời đại và trở thành ngƣời cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam (12/1920). Từ đây, “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” không chỉ là “sợi chỉ đỏ” trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh mà còn là con đƣờng cứu nƣớc và phƣơng hƣớng dựng nƣớc của nhân dân Việt Nam. Khẳng định tính tất yếu, tính ƣu việt của chủ nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh nhƣng để mục tiêu đó mau chóng trở thành hiện thực, cần phải có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó lý luận về hệ động lực của chủ nghĩa xã hội là một nội dung quan trọng. Công cuộc Đổi mới đang đi vào chiều sâu trên đất nƣớc ta hiện nay đòi hỏi phải tiếp tục phát huy cao độ hệ động lực của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, cần phải nghiên cứu hệ động lực của chủ nghĩa xã hội trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh để tìm ra ở đó những gợi mở về phƣơng hƣớng hành động. |226
  2. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 1. Hệ động lực của chủ nghĩa xã hội - khái niệm và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin Để nhận diện chính xác hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội, trƣớc hết phải luận giải các khái niệm có liên quan. “Động lực” là khái niệm đƣợc sử dụng trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nếu trong kỹ thuật, “động lực” là năng lực làm cho máy móc chuyển động thì trong xã hội, “động lực” là các nhân tố thúc đẩy sự phát triển của con ngƣời và xã hội theo chiều hƣớng tích cực. Vì thế, động lực ở đây là động lực xã hội, gắn với con ngƣời và đặc tính của xã hội đó. Nói đến “hệ động lực của chủ nghĩa xã hội” là nói đến các nhân tố thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm đạt tới mục tiêu thiết lập trên thực tế chế độ xã hội chủ nghĩa theo những nguyên lý, quy luật mà chủ nghĩa xã hội khoa học đã đề ra. Sinh thời, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin không viết tác phẩm chuyên biệt nào về hệ động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội mặc dù đã ý thức rõ về sự cần thiết phải tìm ra động lực. Ph. Ăngghen từng nhấn mạnh: “Muốn nhận thức đƣợc các quy luật chi phối lịch sử phải tìm đƣợc những yếu tố kích thích, thúc đẩy con ngƣời hành động trên thực tế đƣa đến những biến đổi lịch sử, tức là tìm ra những động lực phát triển xã hội”1. Nhƣ vậy, động lực với tƣ cách là nhân tố thúc đẩy sự phát triển chính là “chìa khóa” để “giải mã” quy luật lịch sử. Bằng phán đoán khoa học và từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc Nga, trong nhiều tác phẩm, C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã chỉ ra một số nhân tố chủ đạo đóng vai trò thúc đẩy tiến trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và làm gia tăng tính tích cực của những ngƣời xây dựng chế độ mới. Đó thực chất chính là hệ động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội trong quan điểm của các ông. Nổi bật hơn cả là một số động lực sau đây: Thứ nhất, đứng trên lập trƣờng duy vật và phƣơng pháp biện chứng, đầu tiên, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định tầm quan trọng của động lực kinh tế đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Ra đời với tƣ cách là một “nấc thang” phát triển cao hơn chủ nghĩa tƣ bản, chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển nhất thiết phải có nền kinh tế phát triển cao với lực lƣợng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tƣ liệu sản xuất chủ yếu. Vì thế, xét về bản chất, cách mạng xã hội chủ nghĩa có nội dung kinh tế. Tuy nhiên, lợi ích vật chất luôn là cái “huyệt đạo” nhạy cảm nhất của một nền kinh tế; tức là trong động lực kinh tế, có động lực lợi ích. Nói về tầm quan trọng của 1 C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.438. 227 |
  3. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam động lực lợi ích, C. Mác từng tổng kết: “Tất cả cái gì mà con ngƣời đấu tranh để giành lấy, đều dính liền đến lợi ích của họ”2 và “một khi “tƣ tƣởng” tách rời “lợi ích” thì nhất định nó sẽ tự làm nhục nó”3 . Khi con ngƣời là “tổng hòa các quan hệ xã hội” thì thực chất quan hệ xã hội chính là quan hệ lợi ích với một số dạng thức cơ bản nhƣ lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, lợi ích nhân loại, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần… Ngay cả các cuộc đấu tranh giai cấp, xét đến cùng, đều là cuộc đấu tranh vì lợi ích của giai cấp mình. Các ông còn cho rằng “ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và không thể có sự thống nhất về hành động đƣợc”4. Nhƣ vậy, lợi ích vật chất không chỉ là nhân tố tạo lên tính tích cực của con ngƣời mà nó còn là “chất keo” tạo nên sự đoàn kết, đồng thuận của một tổ chức. Rõ ràng là không thể gia tăng tính tính cực của những con ngƣời xây dựng chế độ mới nếu không đảm bảo cho họ lợi ích chính đáng, “sát sƣờn”; cũng không thể tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và xã hội nếu nhƣ không làm cho “lợi ích riêng của con ngƣời cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài ngƣời”5. Không chỉ khẳng định về mặt lý luận, bằng việc ban hành Chính sách kinh tế mới (NEP), V.I. Lênin đã dùng “đòn bẩy kinh tế”, “đòn bẩy lợi ích” để kích thích sáng kiến, nhiệt huyết của ngƣời sản xuất, đặc biệt là nông dân. Kết quả mà NEP mang lại đã chứng minh tính đúng đắn trong dự đoán của Lênin, rằng từ nƣớc Nga của Chính sách kinh tế mới sẽ nảy sinh nƣớc Nga xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Dân chủ là một động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, dân chủ vừa là hình thức nhà nƣớc với sự thừa nhận quyền lực thuộc về ngƣời dân, vừa là một giá trị vĩnh hằng mà loài ngƣời luôn hƣớng tới. Rất coi trọng vấn đề dân chủ nên trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã viết: “Bƣớc thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”6. Sau này, từ thực tế lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc Nga, V.I. Lênin đã so sánh dân chủ tƣ sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ông khẳng định rằng, mặc dù dân chủ tƣ sản là một bƣớc tiến dài so với chế độ quân chủ phong kiến nhƣng tựu chung, đó vẫn là nền dân chủ của số ít; sự tiến bộ của nền dân 2 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.109. 3 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.122. 4 C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.21. 5 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.199-200. 6 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.626. |228
  4. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) chủ đó là kết quả của cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân dân lao động chứ không phải do “hảo tâm” của giai cấp tƣ sản. Ngƣợc lại, dân chủ vô sản bảo đảm quyền làm chủ cho số đông và nó đƣợc xây dựng trên nền tảng của chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất - cơ sở để xóa bỏ sự bất bình đẳng trong xã hội. Vì thế, “chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tƣ sản nào, cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”7. Nói về vai trò của dân chủ với tƣ cách là một động lực của chủ nghĩa xã hội, V.I. Lênin nhấn mạnh: “Không thể có một chủ nghĩa xã hội thắng lợi mà lại không thực hiện dân chủ hoàn toàn”8. Điều này là đƣơng nhiên bởi dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy quyền tự do cá nhân, tính tự giác, năng lực sáng tạo, tính hăng hái của đông đảo quần chúng lao động - chủ nhân của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi mọi tiềm năng, tiềm lực trong quảng đại quần chúng nhân dân đƣợc giải phóng thì tất yếu xã hội sẽ chuyển động theo chiều hƣớng tích cực. Thứ ba, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin rất coi trọng động lực văn hóa, đặc biệt là vai trò của giáo dục và khoa học- kỹ thuật đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Bàn về vai trò của văn hóa trong việc hình thành tƣ cách của ngƣời cộng sản - lực lƣợng tiên phong trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I. Lênin đã nói: “Ngƣời ta chỉ có thể trở thành ngƣời cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”9. Rõ ràng là chủ nghĩa xã hội đƣợc thiết lập bằng quyết tâm chính trị của đông đảo quần chúng lao động dƣới sự lãnh đạo của Đảng nhƣng “một ngƣời không biết chữ là ngƣời đứng ngoài chính trị”10. Do chủ nghĩa xã hội chỉ đƣợc tạo dựng bởi những con ngƣời có học vấn, có văn hóa nên “giai cấp vô sản không những chỉ tạo ra tầng lớp trí thức của riêng mình, mà còn thu nạp cả những ngƣời ủng hộ mình trong tất cả và mọi ngƣời có học thức”11. V.I. Lênin lý giải: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội đƣợc, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bƣớc tiến có ý thức và có tính quần chúng để đi đến một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tƣ bản dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tƣ bản đạt đƣợc”12. Từ đó, V.I. Lênin đƣa ra luận điểm 7 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.312. 8 V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.324. 9 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.362. 10 V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.218. 11 V.I. Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.480. 12 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.217. 229 |
  5. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam “văn hóa vô sản = chủ nghĩa cộng sản”13, xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa tức là xây dựng xã hội cộng sản. Nhƣ vậy, văn hóa vừa là đặc trƣng, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Muốn có chủ nghĩa xã hội, con ngƣời xây dựng nó phải là con ngƣời có tri thức, có đạo đức nhƣng tri thức, đạo đức lại là sản phẩm của hoạt động giáo dục. Vì thế, tất yếu giáo dục cũng là một động lực của chủ nghĩa xã hội. Nói về vai trò của giáo dục, V.I. Lênin đã chỉ rõ: Một trong những con đƣờng tất nhiên phải dẫn tới chủ nghĩa cộng sản thật sự là giáo dục, bởi một điều hiển nhiên dễ thấy là trong xã hội ấy, những thành viên đã đƣợc giáo dục làm lợi cho xã hội hơn là những thành viên ngu dốt, không có văn hóa. Từ thực tế đó, nhiệm vụ cấp thiết của chính quyền mới là thanh toán nạn mù chữ, tổ chức lại hệ thống giáo dục để từng bƣớc nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân. Mặt khác, ông yêu cầu công dân của chế độ mới phải có trách nhiệm không ngừng học tập; mọi sự lơ là việc học đều là tội lỗi. Chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải có cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến hơn, hiện đại hơn so với chủ nghĩa tƣ bản nên những ngƣời xây dựng chế độ mới nhất thiết phải “làm chủ đƣợc kỹ thuật cao nhất”, phải “cải tổ lao động của nhân dân theo thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật”14 hiện đại. Khi Lênin nhấn mạnh rằng, “kẻ nào có kỹ thuật cao hơn, có trình độ tổ chức và kỷ luật cao hơn, có những máy móc tốt hơn thì kẻ đó sẽ thắng”15, tức là ông đã khẳng định vai trò của khoa học kỹ thuật với tƣ cách là động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội. Thứ tư, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định động lực quan trọng nhất là động lực con người bởi các động lực khác phải thông qua động lực con ngƣời mới trở thành sức mạnh. Câu nói “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” không chỉ đúng trong cách mạng vô sản mà còn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho dù Đảng Cộng sản là lực lƣợng dẫn đƣờng nhƣng nếu “chỉ trông vào bàn tay những ngƣời cộng sản để xây dựng xã hội cộng sản, đó là một tƣ tƣởng hết sức ngây thơ. Những ngƣời cộng sản chỉ là một giọt nƣớc trong đại dƣơng, một giọt nƣớc trong đại dƣơng nhân dân”16. Điều đó có nghĩa là, bản thân sự lãnh đạo của một Đảng tiên phong đã là một động lực nhƣng quần chúng cách mạng cũng là động lực to lớn mà Đảng cần phát huy. 13 V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 51, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.382. 14 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.220. 15 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.144. 16 V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.117. |230
  6. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) Một điều cần lƣu ý: Bên cạnh động lực, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhận diện các trở lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa - các căn bệnh tồn tại trong chính thể mới nhƣ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. V.I. Lênin từng khẳng định: Bản chất của căn bệnh quan liêu là tƣ tƣởng địa vị, danh lợi, là việc thoát ly quần chúng và đứng trên quần chúng, là thói “kiêu ngạo cộng sản”. Thấu hiểu sự nguy hiểm của căn bệnh này đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ông đã cảnh báo: “Toàn bộ công việc của tất cả các cơ quan kinh tế của chúng ta bị khốn khổ trƣớc hết về tệ quan liêu… Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”17. Từ đó, V.I. Lênin yêu cầu: “Bất cứ biểu hiện nào của thái độ quan liêu dù nhỏ đến đâu cũng sẽ bị thẳng tay trừng phạt”18. Do quan liêu, tham ô, lãng phí, hối lộ luôn là bạn đồng hành của nhau nên cùng lúc phải đấu tranh chống tất cả các vấn nạn đó trong hàng ngũ những ngƣời cộng sản. Khi Mác và Ăngghen còn sống thì chƣa có cuộc cách mạng vô sản nào giành thắng lợi; lý luận về chủ nghĩa xã hội mà các ông đƣa ra chƣa đƣợc kiểm chứng trên thực tế. Đến thời của V.I. Lênin, mặc dù có hơn 6 năm lãnh đạo nƣớc Nga Xô viết nhƣng ông đã mất nhiều thời gian, tâm lực vào việc chấm dứt tình trạng nội chiến và giữ vững chính quyền cách mạng. Vì thế, lý luận về hệ động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội mới đƣợc các ông phác thảo trên nét lớn và phần lớn chỉ ở dạng dự báo. Tuy nhiên, với bộ óc thiên tài và sự mẫn cảm chính trị, những dự báo đó vẫn là những dự báo khoa học, mang giá trị của “kim chỉ nam” để những ngƣời mácxit của mọi thời đại tiếp tục bổ sung và phát triển. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về hệ động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Trên cơ sở kế thừa, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thấu tỏ tình hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đƣa ra quan điểm của mình về hệ động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một là, Hồ Chí Minh khẳng định động lực quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội chính là con người xã hội chủ nghĩa. Ngƣời nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trƣớc hết cần có những con ngƣời xã hội chủ nghĩa”19. Đó là những con ngƣời yêu nƣớc, có ý thức làm chủ tập thể, có tinh thần “mình vì mọi ngƣời, mọi ngƣời vì mình”, có tác phong làm việc khoa học… Dù con ngƣời xã hội chủ nghĩa là con ngƣời thấm 17 V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 54, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.235. 18 V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.350. 19 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.66. 231 |
  7. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhuần lý tƣởng cộng sản nhƣng là nhà duy vật mácxít, Hồ Chí Minh vẫn cho rằng phải đảm bảo lợi ích, trƣớc hết là lợi ích vật chất chính đáng của ngƣời lao động. Để giải quyết vấn đề này, Ngƣời đã đề xuất chủ trƣơng thực hiện chính sách khoán, thƣởng, phạt công minh. Trong bài “Nói chuyện với cán bộ, công nhân nhà máy dệt Nam Định” (4/1957), Ngƣời nói: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích ngƣời công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng”20. Đề cao tầm quan trọng của các “đòn bẩy” kinh tế nhƣng Hồ Chí Minh không coi đó là “chìa khóa vạn năng”để nâng cao tính tích cực của ngƣời lao động bởi nhiều khi cách mạng đòi hỏi sự hy sinh lớn đến mức không có giá trị vật chất nào có thể bù đắp đƣợc. Vì thế, cần phát huy cả động lực chính trị, tinh thần mà trƣớc hết là sức mạnh của dân chủ. Hồ Chí Minh khẳng định dân chủ mang lại sáng kiến, sự hăng hái, đoàn kết và vì thế, “thực hành dân chủ cũng là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”21. Do đó, Đảng và Nhà nƣớc phải thực sự coi trọng và đảm bảo quyền “là chủ” và “làm chủ” của nhân dân. Cũng cần phải sử dụng vai trò điều chỉnh của các yếu tố tinh thần khác nhƣ lý tƣởng chính trị, văn hóa, đạo đức, sự hiểu biết về pháp luật để qua đó nâng cao ý thức tự giác và năng lực cống hiến của mỗi con ngƣời. Tóm lại, theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, con ngƣời xã hội chủ nghĩa là động lực trực tiếp của chủ nghĩa xã hội nhƣng để tạo dựng đƣợc những con ngƣời nhƣ thế thì cần có một chiến lƣợc khoa học, toàn diện với hệ thống động lực vật chất và tinh thần thiết yếu nhằm nâng cao tính tích cực của con ngƣời. Hai là, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao các động lực của văn hóa truyền thống là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc. Từ năm 1924, khi Quốc tế Cộng sản đang đẩy cao vai trò của đấu tranh giai cấp, Hồ Chí Minh đã dũng cảm khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nƣớc… Ngƣời ta sẽ không thể làm gì cho ngƣời An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ”22. Chúng ta biết rằng: Điều kiện sinh tồn, công cuộc dựng nƣớc, giữ nƣớc gian khổ của dân tộc Việt Nam đã nâng lòng yêu nước - một sắc thái tình cảm mà dân tộc nào cũng có trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam - một khái niệm bao gồm cả lòng yêu nƣớc, ý chí giữ nƣớc, tri thức giữ nƣớc và hệ lý luận về lòng yêu nƣớc. Đây chính là 20 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.537- 538. 21 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.325. 22 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.511-513. |232
  8. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) dòng chủ lƣu của văn hóa Việt Nam; là giá trị đạo đức đầu bảng, là kim chỉ nam hành động, là tiêu chuẩn để phân định mọi sự đúng - sai, tốt - xấu, nên - chăng của ngƣời Việt. Thấu hiểu và tự hào về truyền thống đó, Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nƣớc. Đó là một truyền thống quý báu của ta”23. Để phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam trong sự nghiệp “kháng chiến, kiến quốc”, Hồ Chí Minh đã phát động phong trào Thi đua ái quốc trong quảng đại quần chúng nhân dân. Bằng cách này, Ngƣời đã biến cái “quốc sự” thành cái “dân sự”, biến lòng yêu nƣớc mang tính trừu tƣợng thành công việc thƣờng nhật để ai ai cũng có thể tham gia. Đáng chú ý là, mặc dù hoạt động trong bối cảnh Quốc tế Cộng sản đang rơi vào xu hƣớng “tả khuynh” với biểu hiện rõ nét là đề cao vai trò của giai cấp công nhân, đẩy cao nhiệm vụ đấu tranh giai cấp, Hồ Chí Minh vẫn đề cao chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngƣời đã khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”24. Điều đó có nghĩa là mọi chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc phải hƣớng đến mục tiêu củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; mọi tƣ tƣởng giáo điều, tả khuynh làm tổn hại đến sức mạnh đoàn kết của dân tộc cần phải loại bỏ. Hồ Chí Minh đã phê phán hiện tƣợng ấu trĩ tả khuynh khi “nghe ngƣời ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nƣớc mình nhƣ thế nào để làm cho đúng”25. Thực tế là ở Việt Nam, do kinh tế không phát triển nên cuộc đấu tranh giai cấp không gay gắt nhƣ ở phƣơng Tây; trong khi đó, tinh thần dân tộc và khát vọng đổi đời chính là “mẫu số chung” để quy tụ toàn thể nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Tuy nhiên, để làm đƣợc điều đó thì Đảng phải biết cách khơi dậy trong nhân dân tinh thần dân tộc, phải có niềm tin thực sự vào lòng yêu nƣớc của nhân dân và có tinh thần khoan dung, độ lƣợng theo nguyên tắc “bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những ngƣời đó trƣớc đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”26. Sức mạnh của chủ nghĩa yêu nƣớc và tinh thần đoàn kết dân tộc do Hồ Chí Minh phát huy đã góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Ba là, Hồ Chí Minh đề cao động lực chính trị, bao gồm vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý nhà nƣớc và vai trò tập hợp lực lƣợng của Mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó, sự lãnh đạo của Đảng là động lực “hạt nhân” trong toàn bộ hệ động lực 23 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.38. 24 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.244. 25 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.312. 26 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.244. 233 |
  9. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của chủ nghĩa xã hội. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi mọi động lực luôn tồn tại dƣới dạng tiềm năng; muốn phát huy nó thì lực lƣợng lãnh đạo phải biết khai thác và quy tụ nó một cách chủ động, khoa học. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh nói rõ: Không phải cứ có Đảng là mặc nhiên mọi việc thành công mà Đảng phải vững thì cách mạng mới thành công. Do đó, Đảng phải trung thành một cách sáng tạo với chủ nghĩa Mác - Lênin, biết phát huy sức mạnh của quần chúng và có chiến lƣợc đoàn kết quốc tế đúng đắn. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc sẽ thực hiện chức năng quản lý xã hội nhƣng cán bộ nhà nƣớc phải thực sự “làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”27; họ phải hành động theo phƣơng châm việc gì có lợi cho dân thì phải làm; việc gì có hại cho dân thì phải tránh; thƣớc đo phẩm chất và năng lực của cán bộ chính là mức độ hài lòng của nhân dân. Các tổ chức chính trị xã hội thì phải làm tốt vai trò tập hợp và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Việc gia tăng sức mạnh của từng thành tố trong hệ thống chính trị sẽ góp phần tạo lên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bốn là, do mọi hoạt động của xã hội đều dựa trên nền tảng kinh tế nên Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng việc phát huy động lực kinh tế. Ngƣời cho rằng muốn có tiềm lực kinh tế, đƣa kinh tế trở thành động lực thì một mặt phải tăng gia sản xuất, mặt khác, phải ra sức thực hành tiết kiệm. Hồ Chí Minh nói rõ: Chúng ta phải tiết kiệm hơn các quốc gia khác vì cùng một lúc ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; nhiệm vụ cách mạng nặng nề không cho phép chúng ta làm hao tổn nguồn lực vốn đã ít ỏi của mình. Hồ Chí Minh nói rõ: “Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng tai hại cho nhân dân, cho chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”28. Nó tai hại hơn bởi chỉ những cán bộ có chức có quyền mới có thể tham ô nhƣng bất kể con ngƣời nào, ở vị trí nào cũng dễ dàng lãng phí tiền bạc, thời gian, sức lực của mình, của cơ quan và của xã hội nên sự thất thoát do lãng phí mang lại còn lớn hơn tham ô. Thực hiện lời dạy của Lênin, rằng ngƣời cán bộ đảng viên không có một đặc quyền nào trừ một quyền là luôn luôn ở phía trƣớc, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải là lực lượng tiên phong trong cuộc thi đua thực hành tiết kiệm. Ngƣời viết: “Muốn hƣớng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thƣớc cho ngƣời ta bắt chƣớc... Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trƣớc đã”29 Năm là, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao động lực quốc tế với sức mạnh của sự đoàn kết, hợp tác quốc tế và thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Với tƣ duy mang 27 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.572. 28 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.357. 29 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.16. |234
  10. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) tầm thời đại, Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; muốn giành đƣợc độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì Việt Nam phải tranh thủ sức mạnh của thời đại. Điều đáng nói là Hồ Chí Minh không dừng ở việc đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức nhƣ các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin chủ trƣơng mà còn đoàn kết với nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới, đặc biệt là nhân dân các nƣớc đang tiến hành xâm lƣợc Việt Nam. Ngƣời còn cho rằng “các nƣớc dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình đƣợc”30. Với tƣ duy đó, Hồ Chí Minh đã xây dựng đƣợc mặt trận của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam. Tuy nhiên, là ngƣời luôn đề cao tinh thần tự lực cánh sinh, khi bàn về mối quan hệ giữa động lực bên trong và động lực bên ngoài, Hồ Chí Minh khẳng định nội lực luôn đóng vai trò quyết định; phát huy động lực bên ngoài là để nâng cao sức mạnh của động lực bên trong. Trong tƣ duy Hồ Chí Minh, “xây” và “chống” luôn đi liền với nhau nên việc “khai thông” các động lực phải tiến hành song song với việc đẩy lùi các “trở lực” của chủ nghĩa xã hội nhƣ sự chống phá của lực lƣợng thù địch, các thói quen, truyền thống lạc hậu và chủ nghĩa cá nhân dƣới mọi hình thức. Trong các trở lực nói trên thì chủ nghĩa cá nhân - thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng” là nguy hiểm nhất. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng: “Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”31. Nhƣ vậy, hệ động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh hết sức phong phú. Xét về giá trị, đó là động lực vật chất và động lực tinh thần; xét về lĩnh vực tác động, đó là động lực kinh tế, chính trị, văn hóa; xét về cƣơng vực địa lý, đó là động lực nội sinh và ngoại sinh; xét về chủ thể hành động thì đó là động lực con ngƣời với tƣ cách cá nhân và cộng đồng… Trong hệ động lực xác định, Đảng với tƣ cách là “động lực hạt nhân” có trách nhiệm tạo dựng môi trƣờng để các “vectơ” động lực có thể vận động “cùng chiều” nhằm tạo ra hợp lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nƣớc. 3. Kết luận Lật đổ chủ nghĩa tƣ bản, thiết lập xã hội cộng sản - một xã hội tốt đẹp mà ở đó “sự phát triển tự do của mỗi ngƣời là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi ngƣời”32 là 30 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.12. 31 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.609. 32 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.628. 235 |
  11. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam lý tƣởng cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin. Kế thừa tinh thần đó, Hồ Chí Minh luôn khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu “bất biến” của cách mạng Việt Nam. Mặc dù khi Hồ Chí Minh còn sống, chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam chỉ là “chủ nghĩa xã hội thời chiến” với sự biến dạng của không ít quy luật kinh tế nhƣng với trí tuệ kiệt xuất, Hồ Chí Minh đã bƣớc đầu xác định đƣợc hệ thống động lực rất phong phú của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nếu so sánh hệ động lực của chủ nghĩa Mác - Lênin và hệ động lực của Hồ Chí Minh thì rõ ràng là có nhiều điểm tƣơng đồng nhƣ đều đề cao động lực kinh tế, động lực con ngƣời, động lực lợi ích, động lực khoa học kỹ thuật… Tuy nhiên, Ph. Ăngghen đã tuyên bố, rằng “lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà ngƣời ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”33; Lênin cũng khẳng định học thuyết Mác “không phải là một giáo điều mà là một kim chỉ nam hành động”34. Với bản lĩnh sáng tạo và tinh thần tự chủ, Hồ Chí Minh cũng khẳng định “chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”35. Hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam đã thúc giục Hồ Chí Minh - ngƣời cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam, phát triển sáng tạo lý luận về hệ động lực của chủ nghĩa xã hội. Căn cứ vào điều kiện dân tộc và thời đại, Hồ Chí Minh đã đặc biệt nhấn mạnh các động lực tinh thần nhƣ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc và động lực quốc tế. Bằng cách đó, Hồ Chí Minh đã làm giàu cho lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề này. Không chỉ là cống hiến trên phƣơng diện lý luận, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm1960 đến nay, suy cho cùng, chính là quá trình triển khai hệ động lực của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Vì thế, Hồ Chí Minh đã để lại cho hậu thế kinh nghiệm và hình mẫu quý báu về phƣơng cách tiếp nhận và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. 33 C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.796. 34 V.I. Lênin (1980) Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.99. 35 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.120. |236
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2