intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hệ thống kiểm soát đầu vào trong quản lý đánh bắt thủy sản: Kinh nghiệm của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Hệ thống kiểm soát đầu vào trong quản lý đánh bắt thủy sản: Kinh nghiệm của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam nghiên cứu hệ thống kiểm soát đầu vào và hệ thống kiểm soát đầu ra trong quản lý đánh bắt thủy sản của Trung Quốc từ đó rút ra bài học cần thiết cho ngành thủy sản Việt Nam trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hệ thống kiểm soát đầu vào trong quản lý đánh bắt thủy sản: Kinh nghiệm của Trung Quốc và bài học cho Việt Nam

  1. HỆ THỐNG KIỂM SOÁT ĐẦU VÀO TRONG QUẢN LÝ ĐÁNH BẮT THỦY SẢN: KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Hà Thị Thanh Thủy, Đỗ Diệu Linh Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội Tóm tắt Trung Quốc là quốc gia đứng đầu về giá trị xuất khẩu thủy sản, đồng thời đứng vị trí số một thế giới về sản lượng đánh bắt thủy sản trên biển. Cũng giống như Việt Nam và nhiều quốc gia khác, nguồn lợi thủy sản của Trung Quốc đang phải đối mặt với áp lực suy giảm về trữ lượng do đánh bắt quá mức. Bởi vậy, bài viết nghiên cứu hệ thống kiểm soát đầu vào và hệ thống kiểm soát đầu ra trong quản lý đánh bắt thủy sản của Trung Quốc từ đó rút ra bài học cần thiết cho ngành thủy sản Việt Nam trong thời gian tới. Từ khoá: Quản lý; Đánh bắt thuỷ sản; Việt Nam; Trung Quốc. Abstract Fishing management system and measures: Case in China and lessons for Vietnam China is the leading country in terms of seafood export value, and ranks number one in the world in terms of fishing output at sea. Like Vietnam and other countries, China’s fishery resources are facing downward pressure due to overfishing. Therefore, the article studies the input control system and output control system of China’s fisheries management, thereby drawing necessary lessons for Vietnam’s fishing industry in the future. Keywords: Fisheries management; Fishing; Vietnam; China. 1. Mở đầu Trung Quốc là quốc gia đứng vị trí số 1 thế giới về giá trị xuất khẩu thủy sản (với gần 20 tỷ USD). Đồng thời, Trung Quốc cũng dẫn đầu thế giới về sản lượng khai thác thủy sản trên biển. Do áp lực về sản lượng khai thác thủy sản dẫn đến tình trạng khai thác quá mức kéo dài cùng với ô nhiễm môi trường biển đã làm suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi thủy sản biển và giảm sút sức khỏe hệ sinh thái biển và ven biển ở Trung Quốc. Ngày càng nhiều vùng biển của Trung Quốc xuất hiện hiện tượng “cá hiếm trên biển”. Đối diện với vấn đề giảm sút nguồn lợi thủy sản, trước áp lực về kinh tế và xã hội, chính phủ Trung Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý quyết liệt. Việt Nam sở hữu nhiều lợi thế tự nhiên để phát triển kinh tế thủy sản. Tận dụng lợi thế sẵn có, ngành thủy sản đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là thúc đẩy xuất khẩu, tạo việc làm, cải thiện sinh kế cho cộng đồng ngư dân, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước. Tuy nhiên, do khai thác quá mức, khai thác tận diệt dẫn đến nguồn lợi thủy sản ở Việt Nam hiện nay đã và đang bị giảm sút nghiêm trọng. Như vậy, cũng giống như Trung Quốc, tài nguyên thủy sản ở biển Việt Nam đang bị giảm sút nghiêm trọng. Vì thế, việc nghiên cứu những kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc áp dụng các hệ thống kiểm soát đầu vào và hệ thống kiểm soát đầu ra trong quản lý đánh bắt thủy sản biển sẽ giúp Việt Nam có được những bài học tham khảo thiết thực. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Quản lý đánh bắt thủy sản Quản lý đánh bắt thuỷ sản được hiểu là quá trình tổng hợp thu thập thông tin, phân tích, lập kế hoạch, tham vấn, ra quyết định, phân bổ nguồn lực, xây dựng và thực hiện, với việc thực thi khi cần thiết, các quy định hoặc quy tắc chi phối các hoạt động thủy sản nhằm đảm bảo năng suất liên Giải pháp kết nối và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác đào tạo, 91 quản lý lĩnh vực tài nguyên môi trường
  2. tục của các nguồn lợi và việc hoàn thành các mục tiêu thủy sản (FAO, 2001). Quản lý đánh bắt thuỷ sản bao gồm một loạt các nhiệm vụ phức tạp và trên phạm vi rộng, mà mục tiêu cơ bản là đạt được lợi ích tối ưu bền vững từ các nguồn tài nguyên. Mục tiêu tổng quát của quản lý đánh bắt thuỷ sản là sử dụng bền vững lâu dài nguồn tài nguyên thủy sản, bao gồm các mục tiêu cụ thể về: Sinh học sinh thái, kinh tế và xã hội. Về sinh học và sinh thái, quản lý đánh bắt thuỷ sản nhằm duy trì các loài mục tiêu ở mức bằng hoặc cao hơn cần thiết để đảm bảo năng suất sinh học, giảm thiểu tác động của việc đánh bắt đối với môi trường tự nhiên và đối với các loài thuỷ sản. Về kinh tế, mục tiêu quản lý nhằm tối đa hoá thu nhập ròng của các ngư dân tham gia đánh bắt thuỷ sản. Về xã hội, quản lý đánh bắt thuỷ sản nhằm tối đa hoá cơ hội việc làm, tạo sinh kế cho những người dân vùng biển. Để đạt được các mục tiêu này đòi hỏi một cách tiếp cận chủ động và cần tích cực tìm cách tối ưu hóa các lợi ích thu được từ các nguồn lực sẵn có (FAO, 2001). 2.1.2. Hệ thống kiểm soát đầu vào và đầu ra trong quản lý đánh bắt thủy sản Hệ thống kiểm soát đầu vào và đầu ra trong quản lý đánh bắt thủy sản nằm trong các hệ thống và biện pháp trong quản lý đánh bắt thủy sản bao gồm 6 nhóm: Kiểm soát đầu vào, kiểm soát đầu ra, các biện pháp quản lý hoặc kiểm soát kỹ thuật, các biện pháp kiểm soát kinh tế, hệ thống quản lý nghề cá xa bờ và các cơ chế hợp tác quốc tế về quản lý nghề cá. Thứ nhất, hệ thống kiểm soát đầu vào đánh bắt thuỷ sản bao gồm: Hệ thống giấy phép đánh bắt thủy sản, hệ thống hạn chế tàu cá và ngư cụ, hệ thống hỗ trợ tái định cư cho ngư dân, hệ thống ngắt mạch tàu cá. Hệ thống giấy phép đánh bắt thủy sản được cơ quan quản lý Nhà nước về đánh bắt thuỷ sản cấp cho cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động đánh bắt; Giấy phép quy định số lượng khai thác đánh bắt, vùng đánh bắt, tiêu chuẩn ngư cụ đánh bắt; Giấy phép này có thể được bán, cho thuê, chuyển nhượng hoặc không, tùy theo quy định ở mỗi quốc gia. Hệ thống hạn chế tàu cá và ngư cụ nhằm hạn chế số lượng tàu, công suất tàu tham gia khai thác, đánh bắt thuỷ sản. Hệ thống hỗ trợ tái định cư cho ngư dân là một hệ thống, biện pháp quản lý đánh bắt thuỷ sản nhằm mục tiêu về xã hội, hệ thống này bao gồm việc bồi thường, trợ cấp cho những người rút khỏi hoạt động đánh bắt thuỷ sản, hỗ trợ an sinh, tái định cư cho ngư dân chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi các điều luật liên quan đến quản lý đánh bắt thuỷ sản. Thứ hai, hệ thống kiểm soát đầu ra đánh bắt thuỷ sản bao gồm: Hệ thống hạn ngạch đánh bắt (TAC) và chính sách “Tăng trưởng bằng không” và “Tăng trưởng âm” liên quan đến sản lượng khai thác trên biển. Quản lý đánh bắt thuỷ sản cần có sự kết hợp nhịp nhàng cả hai hệ thống kiểm soát đầu vào và đầu ra để góp phần đảm bảo đạt được mục tiêu sử dụng bền vững lâu dài nguồn tài nguyên thủy sản. 2.2. Phương pháp nghiên cứu * Phương pháp thu thập dữ liệu Tác giả thu thập dữ liệu thứ cấp thông qua Báo cáo kết quả điều tra nguồn lợi hải sản biển Việt Nam, các đề tài nghiên cứu về đánh bắt thuỷ sản, quản lý đánh bắt thuỷ sản ở Trung Quốc, Luật Thuỷ sản của Trung Quốc. * Phương pháp xử lý dữ liệu Tác giả thực hiện phương pháp tổng hợp và phân tích dữ liệu: Thực hiện tổng hợp các dữ liệu liên quan đến phát triển kinh tế biển từ dữ liệu thứ cấp đã thu thập được, lập bảng và phân tích về hệ thống kiểm soát đầu vào, đầu ra trong quản lý đánh bắt thuỷ sản. 92 Giải pháp kết nối và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác đào tạo, quản lý lĩnh vực tài nguyên môi trường
  3. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Thực trạng áp dụng hệ thống kiểm soát đầu vào và hệ thống kiểm soát đầu ra trong quản lý đánh bắt thủy sản tại Trung Quốc Kể từ khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chính phủ Trung Quốc đã liên tục ban hành và thực hiện hàng loạt hệ thống, biện pháp quản lý khai thác thủy sản nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành thủy sản, phù hợp với điều kiện kinh tế và xã hội thực tế của nước này. Các hệ thống và biện pháp quản lý đánh bắt thủy sản được khái quát thành 6 nhóm như sau: Kiểm soát đầu vào, kiểm soát đầu ra, các biện pháp quản lý hoặc kiểm soát kỹ thuật, các biện pháp kiểm soát kinh tế, hệ thống quản lý nghề cá xa bờ và các cơ chế hợp tác quốc tế về quản lý nghề cá. Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả tập trung nghiên cứu hệ thống kiểm soát đầu vào và hệ thống kiểm soát đầu ra trong quản lý đánh bắt thuỷ sản của Trung Quốc. Bảng 1. Các hệ thống và biện pháp quản lý đánh bắt thủy sản của Trung Quốc Kiểu loại Hệ thống hoặc biện pháp Hệ thống giấy phép đánh bắt thủy sản. Hệ thống hạn chế tàu cá và ngư cụ. Kiểm soát đầu vào Hệ thống hỗ trợ tái định cư cho ngư dân. Hệ thống ngắt mạch tàu cá. Hệ thống TAC. Kiểm soát đầu ra Chính sách “Tăng trưởng bằng không” và “Tăng trưởng âm” liên quan đến sản lượng khai thác trên biển. Khu vực đóng cửa biển cho nghề lưới kéo đáy. Lệnh cấm đánh bắt cá biển vào mùa hè. Thời gian hoặc khu Lệnh cấm đánh bắt cá vào mùa xuân ở sông Dương Tử. vực đóng cửa Lệnh cấm đánh bắt cá vào mùa xuân ở sông Chu Giang. Thời gian đánh bắt hoặc việc đóng cửa khu vực do chính quyền địa phương thiết lập. Các biện pháp quản lý Các khu vực được bảo vệ: hoặc kiểm soát kỹ thuật Khu bảo tồn tài nguyên mầm thủy sinh. Khu dự trữ thủy sinh. Khu bảo tồn biển (MPA). Giới hạn mắt lưới của lưới đánh cá. Giới hạn kích thước cá cho phép. Giới hạn tỷ lệ đánh bắt dưới kích thước. Các phương pháp đánh bắt bị cấm: đánh bắt bằng máy nổ, bằng chất độc hoặc bằng điện, v.v. Công cụ kinh tế Phí bảo vệ nguồn lợi thủy sản Hệ thống ứng dụng và phê duyệt nghề cá xa bờ. Hệ thống kiểm tra và công nhận năng lực hàng năm cho các doanh nghiệp khai thác thủy sản ở vùng nước xa bờ. Quản lý nghề cá xa bờ Hệ thống quản lý đối với nghề cá xa bờ. Giám sát vị trí tàu, tiêu chuẩn đánh bắt, sổ nhật ký. Quan sát viên nhà nước, chứng chỉ đánh bắt hợp pháp. Hệ thống quản lý thuyền viên và tàu đánh bắt xa bờ. Cơ chế tự điều chỉnh và điều phối của nghề cá xa bờ. Cơ chế hợp tác quốc tế Các hiệp định song phương về nghề cá của Trung Quốc với Nhật Bản, Hàn Quốc về quản lý nghề cá và Việt Nam Nguồn: Shuolin Huang, Yuru He, 2019. Giải pháp kết nối và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác đào tạo, 93 quản lý lĩnh vực tài nguyên môi trường
  4. 3.1.1. Hệ thống kiểm soát đầu vào + Hệ thống giấy phép đánh bắt thủy sản Hệ thống giấy phép nghề cá được thông qua vào năm 1979 là một trong những hệ thống quản lý được thực hiện bởi các cơ quan hành chính quốc gia có thẩm quyền của Trung Quốc để lập kế hoạch và kiểm soát hoạt động và sản xuất thủy sản. Hệ thống giấy phép nghề cá của Trung Quốc ban đầu được xác định theo “Quy định về tái tạo và bảo tồn nguồn lợi thủy sản” do Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1979. Cùng năm, Tổng cục Thủy sản Nhà nước ban hành Quy định tạm thời về một số vấn đề liên quan đến giấy phép khai thác thủy sản. Hệ thống giấy phép đánh bắt thủy sản được xác định bởi Luật Thủy sản năm 1986. Điều 16 của Luật Thủy sản quy định “Đơn vị, cá nhân nào có ý định khai thác thủy sản nội địa, đánh bắt ven bờ trước hết phải xin cấp phép khai thác thủy sản tại Cục Quản lý thủy sản. Giấy phép sử dụng lưới kéo lớn và lưới kéo trong đánh bắt hải sản sẽ được cấp khi được sự chấp thuận của Cục Quản lý nghề cá thuộc Quốc vụ viện. Các giấy phép khai thác thủy sản khác sẽ được cấp khi có sự chấp thuận của chính quyền địa phương ở cấp hạt hoặc cao hơn, nhưng giấy phép đánh bắt cho các hoạt động trên biển đã được cấp không được phép sử dụng lưới kéo và các ngư cụ khác vượt quá hạn ngạch do tiểu bang quy định. Các biện pháp cụ thể do chính quyền nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện. “Giấy phép khai thác thủy sản không được bán, cho thuê hoặc chuyển nhượng bằng các phương tiện bất hợp pháp khác và chúng không được thay đổi”. Các quy định về trách nhiệm pháp lý liên quan đến vi phạm về giấy phép khai thác thủy sản được nêu rõ tại điều 30, điều 31, điều 32 của Luật Thủy sản. Theo đó, “Người nào đánh cá mà không có giấy phép khai thác theo quy định của Luật này sẽ bị tịch thu sản phẩm đánh bắt và thu nhập trái pháp luật và đồng thời có thể bị phạt tiền. Trong trường hợp nghiêm trọng, ngư cụ của anh ta cũng có thể bị tịch thu” (Điều 30); “Người nào đánh bắt vi phạm loại hình hoạt động, địa điểm, thời hạn và số lượng ngư cụ đã ghi trong giấy phép, sẽ bị tịch thu sản phẩm đánh bắt và thu nhập trái pháp luật và đồng thời bị phạt tiền. Trong trường hợp nghiêm trọng, ngư cụ của anh ta cũng có thể bị tịch thu và bị thu hồi giấy phép đánh bắt” (Điều 31) và “Người nào buôn bán, cho thuê hoặc chuyển nhượng giấy phép đánh bắt bằng các phương tiện bất hợp pháp khác sẽ bị tịch thu thu nhập bất hợp pháp và bị thu hồi giấy phép đánh bắt, đồng thời có thể bị phạt tiền” (Điều 32). Để phù hợp với các quy định của Luật Thủy sản năm 1986 và các quy định thi hành, MOA đã xây dựng và ban hành “Quy định về giấy phép đánh bắt” và đưa ra các quy định cụ thể về hệ thống giấy phép đánh bắt trong các vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Quy định này được sửa đổi vào năm 1997. Năm 2000, Luật Thủy sản được sửa đổi, củng cố các quy định liên quan của hệ thống giấy phép đánh bắt (Shuolin Huang, Yuru He, 2019). Mặc dù hệ thống giấy phép đánh bắt thủy sản được củng cố xong trên thực tế, theo kết quả từ cuộc tổng điều tra quốc gia đầu tiên về tàu cá được thực hiện vào năm 2000 do MOA tổ chức cho thấy vẫn còn 67.200 lượt tàu trái phép không có giấy phép khai thác thủy sản, giấy chứng nhận đăng ký tàu cá, giấy chứng nhận đăng kiểm tàu cá, ​​ chiếm 27,5 % tổng số tàu thuyền (Huang KJ, 2001). Năm 2002, để tăng cường quản lý giấy phép khai thác thủy sản, MOA đã ban hành “Quy chế quản lý giấy phép khai thác thủy sản”. Quy chuẩn này đã quy định cụ thể về tiêu chuẩn để được cấp phép khai thác thủy sản, vùng đánh bắt, số lượng ngư cụ được phép khai thác và các hình thức xử phạt nếu vi phạm quy định. Quy định này đã được sửa đổi vào năm 2004 và 2007 (Gongming Shen, Mikko Heino, 2014). 94 Giải pháp kết nối và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác đào tạo, quản lý lĩnh vực tài nguyên môi trường
  5. Nhìn chung, việc cấp giấy phép đánh bắt thủy sản ở Trung Quốc được dựa trên tình trạng của nguồn lợi thủy sản và được xác định trên cơ sở sinh khối và tổng sản lượng đánh bắt cho phép (TAC). Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết này thường bị bỏ qua trong thực tiễn của Trung Quốc, vì vậy hệ thống này chỉ đóng một vai trò rất hạn chế trong việc phục vụ bảo vệ nguồn lợi thủy sản. + Hệ thống hạn chế tàu cá và ngư cụ Năm 1987, Trung Quốc bắt đầu triển khai hệ thống kiểm soát tổng thể trên cả tổng số tàu cá và tổng công suất động cơ của chúng, được gọi là hệ thống “Kiểm soát kép” (Ou và cộng sự, 2011). Tuy nhiên, trên thực tế, kết quả không cho thấy một hiệu ứng tổng thể tốt. Ở nhiều vùng ven biển, hệ thống “Kiểm soát kép” vẫn chưa được thực hiện đầy đủ. Từ năm 1986 đến năm 2002, số lượng tàu cá tăng hơn 60.000 chiếc và công suất máy của chúng tăng hơn gấp đôi (Gongming Shen, Mikko Heino, 2014). Kể từ năm 2003, Trung Quốc chủ trương tăng cường hệ thống “Kiểm soát kép”. Năm 2003, MOA đã ban hành “Thái độ thực hiện đối với việc kiểm soát tàu đánh cá trên biển giai đoạn 2003 - 2010” đưa ra mục tiêu rõ ràng cũng như các yêu cầu cụ thể để thực hiện. Mục tiêu là giảm số lượng và tổng công suất máy của đội tàu đánh cá lần lượt là 30.000 tàu và khoảng 1,27 triệu kilowatt vào năm 2010. Kết quả là, mặc dù số lượng tàu cá đã giảm kể từ năm 2003, nhưng tổng số máy công suất đã tăng đều đặn, ngoại trừ năm 2003. Như vậy, có thể thấy hệ thống “Kiểm soát kép” đã không đạt được mục tiêu của nó. Hệ thống này đã thất bại trong việc ngăn chặn động lực tăng nỗ lực đánh bắt, đặc biệt là của tổng công suất của các tàu cá. Có ba vấn đề chính có thể giải thích hiệu quả thấp của hệ thống “Kiểm soát kép” là: 1) Việc kiểm tra hạn chế của chính quyền địa phương; 2) Tàu đánh bắt bất hợp pháp; 3) Sự xuất hiện của những ngư dân mới (Ou HK, Yu CD, 2011). + Hệ thống hỗ trợ tái định cư cho ngư dân Theo số liệu thống kê, tính đến ngày 31/01/2021, Trung Quốc đã tài trợ 25,167 tỷ nhân dân tệ (3,84 tỷ USD) cho việc bồi thường và trợ cấp cho những người đã rút khỏi hoạt động đánh bắt cá. Tại các vùng biển trọng điểm, 129.743 người đã được chuyển sang ngành nghề khác, 171.626 người được bảo đảm an sinh xã hội. Đơn cử trường hợp hỗ trợ tái định cư cho ngư dân bị ảnh hưởng bởi Lệnh cấm đánh bắt cá kéo dài 10 năm trên các tuyến đường thủy tự nhiên dọc sông Dương Tử có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2021 cho thấy quyết tâm của Trung Quốc trong việc phục hồi sinh thái. Đây được gọi là chính sách “fish in and people out” (cá vào và người ra) nhằm mục đích không chỉ khôi phục đàn cá trên sông mà còn tạo ra cuộc sống mới cho những ngư dân đánh bắt xa bờ. Lệnh cấm này có ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng 231.000 ngư dân và gần 111.000 tàu thuyền ở một chục khu vực cấp tỉnh bởi vậy chính quyền địa phương đã tích cực hỗ trợ ngư dân tái định cư. Ngoài việc trao cho những người từ bỏ tàu đánh cá và thiết bị của họ một khoản bồi thường tài chính một lần hơn 200.000 nhân dân tệ (30.562 USD), chính quyền địa phương cũng đã phát triển và thực hiện một loạt chính sách tái định cư, bao gồm giới thiệu việc làm, hỗ trợ bảo hiểm và trợ cấp sinh hoạt hàng tháng. Nhiều ngư dân đã được giới thiệu làm việc ở khu công nghiệp. Thực tế cho thấy “Hệ thống hỗ trợ tái định cư cho ngư dân” là một biện pháp tốt trong quản lý tài nguyên thủy sản ở Trung Quốc. 3.1.2. Hệ thống kiểm soát đầu ra + Hệ thống hạn ngạch đánh bắt (TAC) Hệ thống hạn ngạch đánh bắt (TAC) được ban hành bởi Luật Thủy sản sửa đổi năm 2000 đã đặt ra một thách thức lớn cho chính quyền Trung Quốc về mặt thực thi. Bởi vậy, Trung Quốc đã áp dụng TAC với một thái độ thận trọng. Giải pháp kết nối và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác đào tạo, 95 quản lý lĩnh vực tài nguyên môi trường
  6. Dự án thí điểm hạn ngạch đánh bắt cua biển (Portunus trituberculatus) và sứa (Rhopilema esculentum) ở phía Bắc tỉnh Chiết Giang và vịnh Lai Châu của tỉnh Sơn Đông. Các dự án đã lên kế hoạch xác định TAC và phân bổ hạn ngạch khai thác và thiết lập một loạt hệ thống hỗ trợ, bao gồm: Quản lý nhật ký đánh bắt, kinh doanh đánh bắt tại các khu vực thị trường được chỉ định, quy trình kiểm tra tàu cá, quan sát viên nghề cá, hệ thống quản lý biển, hệ thống khen thưởng và trừng phạt, cũng như cơ chế phòng ngừa hạn ngạch đánh bắt (Chen, 2017). Năm 2018, các chương trình thí điểm đã được mở rộng đến 5 tỉnh: Chiết Giang, Sơn Đông, Liêu Ninh, Phúc Kiến và Quảng Đông. Đối với các loài thí điểm, Chiết Giang bao gồm cá Cơm bạc (Engraulis japonicas) trong danh sách thí điểm; Sơn Đông tiếp tục đặt hạn ngạch đánh bắt Sứa (Ropilema esculentum), Liêu Ninh chọn Tôm sú trung quốc (Fenneropenaeus chinensis) từ một số vùng biển nhất định ở vùng Pulandian của Đại Liên; Phúc Kiến đã chọn Cua bơi (Portunus trituberculatus) từ vùng biển của thành phố Chương Châu; Trong khi Quảng Đông đã chọn Vỏ bò (Monetariaosystema) ở cửa sông Châu Giang. Theo lịch trình, các tỉnh ven biển ở Trung Quốc nên chọn ít nhất một khu vực có hạn ngạch tương đối trưởng thành để quản lý hạn ngạch khai thác vào năm 2020. Các dự án thí điểm này thể hiện một bước cụ thể để thúc đẩy việc thực hiện hạn ngạch đánh bắt thủy sản ở Trung Quốc, tạo thuận lợi để giải quyết các vấn đề khó thực hiện, tìm ra cách khả thi để bảo tồn hiệu quả nguồn lợi thủy sản và khám phá một mô hình mới để sử dụng hợp lý nguồn lợi thủy sản ở Trung Quốc. + Chính sách “Tăng trưởng bằng không” và “Tăng trưởng âm” liên quan đến sản lượng khai thác trên biển Để giảm thiểu áp lực của nỗ lực đánh bắt, Trung Quốc bắt đầu xem xét việc kiểm soát tổng sản lượng đánh bắt thủy sản biển bằng chế độ giới hạn sản lượng đánh bắt, không còn coi sản lượng đánh bắt cao như một thành tựu chính trị của chính quyền địa phương. Năm 1999, MOA đề xuất chính sách “Tăng trưởng bằng không”. Năm 2000, để tăng cường thực hiện chính sách, MOA đã đề xuất chính sách “Tăng trưởng âm”. Trước sự cạn kiệt của nguồn lợi thủy sản biển, đồng thời với nhu cầu bảo vệ sinh kế của ngư dân (được coi là nhóm dễ bị tổn thương), chế độ giới hạn sản lượng đánh bắt nhằm kiểm soát tổng sản lượng đánh bắt và duy trì mức đánh bắt được xem là một biện pháp thích hợp ở Trung Quốc. 3.2. Một số bài học kinh nghiệm cho quản lý đánh bắt thủy sản ở Việt Nam Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.260 km, vùng đặc quyền kinh tế rộng hơn 1 triệu km2, hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ (2.773 đảo ven bờ và hơn 200 đảo xa bờ), có 114 cửa sông, 12 đầm phá, 50 vũng/vịnh ven bờ, trong đó vùng nội thủy, lãnh hải chiếm 37 % diện tích, có nhiều đảo, cụm đảo xen kẽ tạo nên tính đa dạng về cảnh quan tự nhiên, sinh thái và nguồn lợi thủy sản. Tuy nhiên, do khai thác quá mức, khai thác tận diệt cùng với sự gia tăng ô nhiễm môi trường biển dẫn đến nguồn lợi thủy sản ở Việt Nam hiện nay đã và đang bị giảm sút nghiêm trọng. Theo “Báo cáo kết quả điều tra nguồn lợi hải sản biển Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015” của Viện Nghiên cứu Hải sản công bố năm 2018, trữ lượng thủy sản biển so sánh giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2000 - 2005 cho thấy: Trữ lượng các nhóm nguồn lợi hải sản chủ yếu thấp hơn 13,9 % (tương đương khoảng 710 ngàn tấn); Trữ lượng nhóm cá nổi nhỏ giảm 3,2 %; Nhóm hải sản tầng đáy giảm 41,7 %; Nhóm cá nổi lớn giảm 10,2 % (Viện Nghiên cứu Hải sản, 2018). Nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng hệ thống kiểm soát đầu ra và hệ thống kiểm soát đầu vào trong quản lý đánh bắt thủy sản biển của Trung Quốc có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam như sau: Một là, cần đơn giản hóa các hệ thống, biện pháp quản lý đánh bắt thủy sản. Bởi lẽ, cũng giống như Trung Quốc, hiện nay Việt Nam không thiếu các biện pháp quản lý trong việc bảo vệ 96 Giải pháp kết nối và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác đào tạo, quản lý lĩnh vực tài nguyên môi trường
  7. nguồn lợi thủy sản tuy nhiên cái thiếu là ở chỗ Việt Nam chưa thực hiện tốt các biện pháp hiện có. Do vậy, các biện pháp quản lý cần phải đơn giản hóa, dễ thực thi. Hai là, cần đẩy mạnh hệ thống tái định cư cho ngư dân. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy đây là một biện pháp mang lại hiệu quả cao trong quản lý đánh bắt thủy sản. Lý lẽ quan trọng nhất để ngư dân rời bỏ nghề cá là cơ hội tiếp cận việc làm mới, các hỗ trợ tài chính cho việc chuyển đổi sinh kế, tái định cư để ổn định cuộc sống mới. Ba là, nghiên cứu việc áp dụng hệ thống hạn ngạch đánh bắt (TAC) đối với từng loài, từng vùng biển. Bốn là, cần xem xét việc áp dụng chính sách “Tăng trưởng bằng không” và thậm chí là “Tăng trưởng âm” khi cần thiết để bảo vệ nguồn lợi thủy sản. 4. Kết luận Thực tiễn quản lý đánh bắt thủy sản ở Trung Quốc cho thấy nước này chú trọng áp dụng hơn các biện pháp kiểm soát đầu vào và còn hạn chế trong áp dụng hệ thống kiểm soát đầu ra. Hệ thống kiểm soát đầu vào của Trung Quốc đã đạt được mức độ bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhất định. Từ những kinh nghiệm áp dụng hệ thống kiểm soát đầu vào và hệ thống kiểm soát đầu ra trong quản lý đánh bắt thủy sản của Trung Quốc có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam trong việc tăng cường các biện pháp đẩy mạnh hệ thống tái định cư cho ngư dân, nghiên cứu áp dụng hạn ngạch đánh bắt (TAC) đối với từng loài, từng vùng biển và xem xét việc áp dụng chính sách “Tăng trưởng bằng không” và thậm chí là “Tăng trưởng âm” khi cần thiết để bảo vệ nguồn lợi thủy sản. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. VASEP (2021). Tổng quan ngành Thủy sản Việt Nam. [2]. Viện Nghiên cứu Hải sản (2018). Báo cáo kết quả điều tra nguồn lợi hải sản biển Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015. http://www.rimf.org.vn/bantin/chitiet/bao-cao-ket-qua-%C4%91ieu-tra-nguon-loi-hai-san- bien-viet-nam-giai-%C4%91oan-2011-2015. [3]. Chen, S (2017). Pilot work on quota fisheries system has been steadily promoted. China Fisheries, 11, 7 (In Chinese). [4]. FAO (2018). The state of world fisheries and aquaculture - meeting the sustainable development goals. Rome: FAO. [5]. FAO (2001). Fisheries management. https://www.fao.org/3/y3427e/y3427e03.htm#bm03.7. [6]. Fisheries Law of the People’s Republic of China. . [7]. Gongming Shen, Mikko Heino (2014). An overview of marine fisheries management in China. Marine Policy, Volume 44, Pages 265 - 272. [8]. Huang K. J (2011). Exploration on management means of fishing license. Chinese fisheries economics, 19: 31 (In Chinese). [9]. Ministry of Agriculture (2017). Announcement of the Ministry of Agriculture on releasing the fishing close season in the Pearl River, Minjiang and the inland waters of Hainan provinces. http://jiuban.moa. gov.cn/zwllm/tzgg/tz/201702/t20170224_5495607.htm/. [10]. Ou HK, Yu CD (2011). The research on effectiveness of fishing vessel “Double Control” system. Journal of Zhejiang Ocean University (Natural Science Edition), 30: 432-5, 470 [in Chinese]. [11]. Shuolin Huang, Yuru He (2019). Management of China’s capturefisheries: Review and prospect. Aquaculture and Fisheries 4 (2019) 173 - 182. Chấp nhận đăng: 10/12/2021; Người phản biện: TS. Bùi Thị Thu. Giải pháp kết nối và chia sẻ hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác đào tạo, 97 quản lý lĩnh vực tài nguyên môi trường
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2