intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hệ thống thông tin môi trường part 2

Chia sẻ: Pham Duong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:34

141
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mức quần thể (toàn bộ các sinh vật cùng nòi giống trong một vùng giới hạn, các sinh vật này có khả năng tự sinh trong một khoảng thời gian dài), Mức quần xã (toàn bộ các sinh vật của các loài khác nhau, sống trong cùng một khu vực và trong cùng thời gian, có khả năng cùng tồn tại ổn định và tái sinh lâu dài),

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hệ thống thông tin môi trường part 2

  1. Mức quần thể (toàn bộ các sinh vật cùng nòi giống trong một vùng giới hạn, các sinh vật này có khả năng tự sinh trong một khoảng thời gian dài), Mức quần xã (toàn bộ các sinh vật của các loài khác nhau, sống trong cùng một khu vực và trong cùng thời gian, có khả năng cùng tồn tại ổn định và tái sinh lâu dài), Mức hệ sinh thái hay mức sinh học quần lạc (quần xã sinh vật có sự tác động qua lại với thế giới vô sinh có trong tự nhiên từ lâu đời, là thành phần riêng (bên trong) của quần thể này). Trong từng mức độ này có thể nói về các đối tượng có phạm vi không gian – thời gian khác nhau: ở mức quần thể – từ mức quần thể địa phương đến tập hợp các quần thể, tạo nên dạng cơ thể sống tương ứng; ở mức quần xã – từ tập hợp tương đối thuần nhất cụ thể với kích thước tuyến tính trong phạm vi từ vài chục mét đến các biom; ở mức hệ sinh thái – từ các hệ sinh thái cụ thể với kích thước tuyến tính của một quần xã cụ thể đến cả sinh quyển. Tương ứng có thể thu thập thông tin sinh thái ở mức quần thể, mức quần xã và ở mức hệ sinh thái có lưu ý tới các đối số tương ứng. Thêm vào đó đối với mức quần thể đối số có thể là thông tin phản ánh trạng thái của quần xã. Chặt chẽ nhất là thông tin về thực vật, mà tập hợp các loài này rất dễ quan sát như một khối thống nhất. Thông tin về các sinh vật dị dưỡng (heterotrophy) ở mức quần xã được biểu diễn chủ yếu thông qua tập hợp các chỉ số riêng. Mức phân loại thông tin sinh thái chia nhỏ nó ở quần thể và quần xã, chứ không có trong mức hệ sinh thái. Ở mức hệ sinh thái, các dạng chức năng của các sinh vật tạo thành một vùng không gian đặc trưng. Thông tin sinh thái có thể phân loại theo các dạng sinh học. Cách phân loại này nhiều khi trùng hợp với cách phân loại độc tính, ví dụ; Thực vật > (thực vật bậc cao ((cỏ (…,…), cây (…,…), bụi cây (…,…))), thực vật bậc thấp (…,…))))) Sinh vật dị dưỡng > (thực vật bậc 1 (không xương sống, có xương sống),… Tên gọi của dạng sinh vật ở từng mức phản ảnh mối quan hệ của đối tượng đối với cấu trúc của toàn bộ hệ thống và tương ứng là ý nghĩa chức năng thông tin của nó. Trong thông tin ở mức quần thể và ở mức quần xã, thông tin về các thông số môi trường thường được đưa vào theo các loại biến số và ở mức khối lượng thông tin cần thiết tương ứng với quan điểm chung để phản ánh các mối quan hệ. Ví dụ như, đối với thực vật, đó là các loại thông tin như tổng lượng bức xạ quang hợp trực tiếp và tán xạ, nhiệt độ trung bình, tổng nhiệt độ hoạt tính sinh học, nhiệt độ tới hạn trung bình, biên độ nhiệt độ trung bình trong một khoảng thời gian xác định, độ ẩm của không khí (các giá trị tới hạn) theo các thời kỳ trong năm, tổng lượng mưa trong năm, các chỉ số cân bằng bức xạ và chỉ số đặc trưng cho độ khô,… Đó là các biến số được giả thuyết là có thể ảnh hưởng đến trạng thái và chức năng của các loài thực vật. Hoàn toàn dễ hiểu là trong nhiều trường hợp, loại thông tin này là kết quả của sự biến đổi đặc biệt của các thông tin thu thập được trong phạm vi hẹp. Trong đa số các trường hợp, các đối số được thể hiện qua loại thông tin thứ cấp. Trong mức hệ sinh thái, thông tin sinh thái có kiểu phân loại hoàn toàn khác. Ở đây, trong từng phần của hệ thống, không chỉ quan sát đến các sinh vật mà còn quan tâm đến các biến số vô sinh, và giá trị của biến vô sinh là các hàm số của mối tương tác giữa vật chất sống với các thông số bên ngoài trong dòng bức xạ mặt trời. Bản thân vât chất sống về mặt cấu trúc đã là biến số, còn về mặt chức năng (quá trình sản xuất) lại là hàm số của chính vất chất sống và các biến số còn lại. 23
  2. Các biến số chính làm cơ sở cho sự phân loại chung của thông tin sinh thái là vật chất sống, các thông số nhiệt động học, thành phần pha, nguyên tố hóa học. Nếu phân loại theo các thành phần môi trường thì có: khí quyển, thủy quyển, môi trường đất (sự phong hóa vỏ quả đất theo thời gian), môi trường không khí trong đất. Tương ứng các thông số nhiệt động học tạo nên các tổ hợp sau đây với các thành phần môi trường: nhiệt độ và áp suất của khí quyển, nhiệt độ và áp suất của thủy quyển, nhiệt độ và áp suất của đất, thành phần pha của các loại môi trường trên, thành phần khí của các loại môi trường, thành phần hóa học của các loại môi trường,… Tổng hợp các thông số này có thể xác định được nội dung của thông tin. Ví dụ, thông số nhiệt động học, mức hệ sinh thái địa phương, khí quyển, thành phần hóa học; mức hệ sinh thái toàn cầu (khí quyển, pha khí),… Như đã nói ở trên, có thể xác định thứ tự phát biểu cho mỗi loại khái niệm như sau: - Thứ nhất: đặt tên chung cho biến số; - Thứ hai: mức hệ thống; - Thứ ba: mức không gian (không gian – thời gian); - Thứ tư: môi trường thành phần; - Thứ năm: vùng đối tượng chính (hàm số). - Tất nhiên là có thể có các kiểu sắp xếp khác. Các hàm số phải được thể hiện trong các hệ thống đo đạc với mức độ chi tiết cao, với khối lượng thông tin lớn hơn biến số bên ngoài. Nói chung, các biến số bên trong nằm trong phạm vi không gian – thời gian của hệ thống là các biến số bên ngoài của hệ thống cùng loại nhưng ở mức thấp hơn: các hệ sinh thái địa phương là thành phần của sinh quyển, còn các biến số của sinh quyển cũng là các đối số của chúng. Nói chung, dạng thông tin được xác định tương ứng theo các biến số. 2.6 Các cơ quan thu thập thông tin môi trường trên ví dụ Tp. Hồ Chí Minh Thông thường việc thu thập, đo đạc, xử lý các số liệu về môi trường thường được thực hiện bởi một số cơ quan nhà nước. Tuy nhiên việc tiếp cận chúng rất khó khăn do những thông tin này ít được phổ biến rộng rãi và bị phân tán trong nhiều đề tài, dự án khác nhau. Lý do chính là bởi mỗi cơ quan chỉ quản lý một vài thông số về một môi trường nhất định, hệ quả là xã hội hiểu biết rất ít về các vấn đề môi trường ở mức độ tổng quan. Dưới đây giới thiệu một số cơ quan thu thập và lưu trữ các dữ liệu môi trường trên ví dụ của Tp. Hồ Chí Minh. Tác giả giáo trình này nhận thức rằng, những thông tin dưới đây chưa phải là đầy đủ. Rất nhiều Viện, Trung tâm khác đóng trên địa bàn Tp. HCM hàng năm đã thực hiện nhiều đề tài, dự án cho ra những thông tin môi trường quí giá. Bạn đọc quan tâm sẽ có thể tìm hiểu thêm trong phần tài liệu tham khảo dưới đây: Phân Viện khí tượng thủy văn Chức năng, nhiệm vụ được nhà nước giao ở đây là thực hiện việc điều tra, khảo sát, phân tích, tiến hành thực nghiệm về khí tượng thủy văn, hải văn, môi trường không khí và nước theo kế hoạch. Trong thời gian qua đơn vị này đã thực hiện quan trắc, thu thập số liệu về khí tượng, thủy văn và môi trường. Một số đề tài tiêu biểu được thực hiện trong thời gian qua như: điều kiện khí tượng thủy văn nông nghiệp Tp. Hồ Chí Minh, điều tra khảo sát chất lượng nước hệ thống sông Sài gòn - Đồng nai, nghiên cứu một số yếu tố khí tượng thủy văn ảnh 24
  3. hưởng tới xâm nhập mặn vào trong sông và nội đồng, nghiên cứu sự lan truyền mặn trên hệ thống sông Sài gòn - Đồng nai. Đài khí tượng thủy văn Nam bộ Tại Tp. Hồ Chí Minh đây là một trong những cơ quan nhà nước thu thập nhiều số liệu nhất liên quan tới môi trường. Chức năng và nhiệm vụ được giao là: Quản lý, tổ chức đo đạc, chỉnh lý lưu trữ các dữ liệu điều tra cơ bản về khí tượng thuỷ văn, hải văn, môi trường, bức xạ, ozone và tia cực tím ; Dự báo khí tượng thuỷ văn ngắn hạn, hạn vừa, dài hạn và các hiện tượng thời tiết thuỷ văn nguy hiểm, phục vụ nền kinh tế quốc dân, quốc phòng và đời sống xã hội; Ký kết các hợp đồng dịch vụ kinh tế trong và ngoài nước hoạt động trên lãnh thổ Việt nam, kể cả trên đất liền, trên biển và trên không trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, tính toán cung cấp số liệu khí tượng thuỷ văn …. Địa bàn hoạt động: 18 tỉnh thành Nam Bộ, lãnh hải và bầu trời Việt Nam từ Phan Thiết trở vào. Là cơ quan Nhà nước có trách nhiệm đo đạc, khảo sát, đánh giá cơ sở dữ liệu khí tượng thuỷ văn, hải văn và thực hiện các dịch vụ tư vấn khí tượng thuỷ văn trên địa bàn rộng lớn. Với một lực lượng hùng hậu bao gồm: 4 phòng chức năng chính, 17 trung tâm dự báo khí tượng thuỷ văn tại 17 tỉnh, 1 trạm Ra đa thời tiết, 1 trạm thu ảnh vệ tinh, 28 trạm khí tượng, 51 trạm thuỷ văn, 25 trạm kiểm soát môi trường nước, 4 trạm đo chất lượng không khí, 32 trạm đo mặn và 92 điểm đo mưa cùng nhiều công cụ trợ giúp hiện đại khác, đây là nơi cung cấp thông tin chất lượng cao về các vấn đề khí tượng, khí hậu, thuỷ văn, hải văn và giám sát môi trường. Viện môi trường và tài nguyên - Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh Cùng với Phân viện khí tượng thủy văn và Đài khí tượng thủy văn Nam bộ, Viện môi trường và tài nguyên thuộc Đại học quốc gia Tp. HCM là đơn vị thu thập rất nhiều số liệu liên quan tới môi trường thuộc khu vực phía Nam. Đây là Cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện quan trắc môi trường quốc gia khu vực phía Nam và hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai. Trong thời gian qua Viện đã thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu khoa học các cấp khác nhau và đã thu thập được một khối lượng lớn các dữ liệu. Viện kỹ thuật nhiệt đới và bảo vệ môi trường Là một trong số những Viện tại Tp. HCM tiến hành nhiều công trình trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Trong số chức năng nhiệm vụ được giao có: - Quan trắc và đánh giá chất lượng môi trường không khí, nước và đất, đáp ứng yêu cầu phục vụ nền kinh tế quốc dân. Đánh giá tác động môi trường cho các dự án kinh tế quốc dân. - Nghiên cứu, thiết kế, thi công, triển khai công nghệ xử lý ô nhiễm khí thải, nước thải, chất thải rắn và chất thải nguy hại. Trong hơn 10 năm qua, Viện đã được giao 10 đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, hơn 50 đề tài nghiên cứu cấp Tỉnh, Thành, Bộ, nhiều đề tài hợp tác quốc tế về bảo vệ 25
  4. môi trường. Một số đề tài nghiên cứu về khảo sát, đánh giá chất lượng môi trường không khí, nước được đánh giá cao như các đề tài khảo sát, quan trắc nước sông Sài gòn - Đồng nai, nghiên cứu vùng thượng lưu sông Đồng Nai, khảo sát môi trường hầu hết các tỉnh thành phía Nam. 2.7 Một số ấn phẩm chứa đựng thông tin môi trường tại Việt Nam Tạp chí Khí tượng - Thủy văn Đây là tạp chí chuyên ngành do Tổng cục khí tượng thủy văn trước đây phát hành (nay gọi là Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia). Hàng tháng tạp chí này đều công bố số liệu quan trắc chất lượng nước và không khí cũng như số liệu về khí tượng - thủy văn trung bình tháng tại các trạm do Tổng cục khí tượng - thủy văn quản lý. Tạp chí Hóa học Đây là tạp chí do Viện Khoa học và Công nghệ Việt nam phát hành, mỗi năm 4 số. Tạp chí Hoá học đăng những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học và thực tiễn trong lĩnh vực hoá học và công nghệ hoá học. Tạp chí Các khoa học về trái đất Đây là tạp chí do Viện Khoa học và Công nghệ Việt nam phát hành 4 số trong một năm. Tạp chí Các khoa học về trái đất đăng các kết quả các công trình nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai, ứng dụng, giới thiệu phương pháp điều tra nghiên cứu mới, trao đổi về các công trình đã công bố; phê bình và giới thiệu sách mới; đưa tin về các hội nghị trong và ngoài nước thuộc các ngành địa học. Tạp chí Khoa học và công nghệ Biển Tạp chí này do Viện khoa học và công nghệ Việt nam phát hành, đăng các bài tổng quan, nêu các kết quả khoa học các công trình nghiên cứu và thông tin ngắn về Khoa học và Công nghệ biển. Tạp chí khoa học và công nghệ Tạp chí này do Viện khoa học và công nghệ Việt nam phát hành, đăng các bài tổng quan, nêu các kết quả khoa học các công trình nghiên cứu và thông tin ngắn về Khoa học và Công nghệ. Với tần xuất 12 số trong một năm tạp chí này có một số chuyên mục về hoá học, sinh học, công nghệ thông tin, môi trường,… Tạp chí Bảo vệ môi trường Đây là tạp chí do Cục bảo vệ môi trường thuộc Bộ tài nguyên và môi trường ấn phẩm với chu kỳ hàng tháng một số. Một số chuyên mục của tạp chí này là: Điều tra nghiên cứu, Sự 26
  5. kiện, Trao đổi kinh nghiệm, Thông tin hoạt động,Văn bản. Một số số liệu quan trắc liên quan tới chất lượng nước các con sông chính của đất nước như sông Cầu, sông Nhuệ - sông Đáy, sông Sài gòn - Đồng nai (lấy từ các đề tài, dự án khác nhau). Trong trang Web của Cục Bảo vệ môi trường ( www.nea.gov.vn) chứa đựng nhiều thông tin môi trường rất hữu ích cho nghiên cứu, ứng dụng như: CSDL các văn bản quy phạm pháp Luật về Bảo vệ môi trường, CSDL các chỉ tiêu thống kê môi trường, CSDL an toàn hóa chất, CSDL quản lý cán bộ, chuyên gia môi trường, CSDL công nghệ môi trường, CSDL dự án môi trường, CSDL các báo cáo đánh giá tác động môi trường, CSDL quan trắc môi trường, CSDL thanh tra môi trường, CSDL đề tài nhiệm vụ nghiên cứu về môi trường, CSDL tin tức về môi trường, CSDL tạp chí Bảo Vệ Môi Trường, CSDL sách đỏ Việt Nam, CSDL, GIS môi trường: Hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên của Việt nam, rừng ngập mặn, dân số và môi trường, khu kinh tế trọng điểm phía Nam. Với quan điểm chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến 2020 : "Phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển" trong thời gian tới, định hướng của tạp chí này là tăng cường các hoạt động tuyên truyền, cung cấp thông tin nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về môi trường. Các số liệu điều tra, thống kê, đánh giá và phân loại các nguồn gây ô nhiễm chính, các giải pháp quản lý và kỹ thuật để xử lý các nguồn thải; các hoạt động quan trắc, thanh tra kiểm soát cũng sẽ được thông tin trên tạp chí. Trong tạp chí cũng công khai thông tin về các cơ sở gây ô nhiễm, mức độ ô nhiễm môi trường ở lưu vực sông. Tiêu chuẩn Việt nam Trong điều kiện và khả năng hiện nay của công nghệ, chưa thể loại trừ hoàn toàn chất thải ô nhiễm trong quá trình sản xuất. Chính vì vậy, dựa vào các kết quả nghiên cứu về vệ sinh dịch tễ người ta đã xây dựng các tiêu chuẩn đảm bảo cho môi trường không khí tương đối trong sạch. Mức độ sạch của không khí, nước được đánh giá bằng nồng độ chất độc hại chứa trong một đơn vị trọng lượng hay một đơn vị thể tích không khí, nước. Đơn vị đo lường thường là trọng lượng chất ô nhiễm chứa trong 1 m3 không khí (mg/m3) đối với nước là (mg/l). Người ta thường phân ra nồng độ từng lần (cực đại), nồng độ trung bình 1 giờ, nồng độ trung bình 8 giờ, trung bình ngày và trung bình qua một thời gian dài như trung bình tháng, trung bình năm. Nồng độ từng lần là nồng độ chất độc hại chứa trong không khí đi qua ống hút trong một khoảng thời gian tương đối ngắn (10 – 20 phút). Trị số nồng độ lớn nhất nhận được trong quá trình quan trắc từng lần gọi là nồng độ cực đại từng lần. Dựa theo mức độ tác hại của chất độc hại đối với cơ thể con người, người ta phân thành : giới hạn cho phép, giới hạn nguy hiểm đối với sự sống và mức gây tử vong. Trong tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí người ta thường dùng trị số nồng độ cực đại cho phép, đó là nồng độ lớn nhất của chất độc hại trong không khí mà không gây tác tại đối với con nguời. Năm 1995, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi truờng nước ta đã ban hành Tiêu chuẩn môi truờng. Đến năm 2001, một số tiêu chuẩn môi trường được bổ sung. (xem www.nea.gov.vn ). 2.8 Thông tin về các vấn đề môi trường đặc trưng 27
  6. Trong mục này chúng ta xem xét thông tin môi trường đặc trưng cũng như các phương pháp nhận thông tin môi trường cũng như các nguồn có thông tin liên quan tới môi trường : chất lượng môi trường, hoạt động của các xí nghiệp gây ô nhiễm. Mục này có ý nghĩa quan trọng cho mục tiêu ứng dụng trong phần 2 của cuốn giáo trình này. Các nội dung chính được trình bày trong chương này gồm: thế nào là chất lượng môi trường, thông tin về các cơ sở sản xuất (CSSX) như là một trong những nguồn thông tin môi trường quan trọng, các thông tin môi trường quan trọng trong mỗi CSSX và vấn đề sức khỏe của người dân như là chỉ số quan trọng phản ánh chất lượng môi trường. 2.8.1 Chất lượng nước, không khí, đất Hiện nay không ai có thể phủ nhận rằng một trong những yếu tố quan trọng nhất xác định chất lượng cuộc sống chính là chất lượng môi trường. Vấn đề môi trường thường đứng đầu trong sự quan tâm của dân chúng trong nhiều trường hợp vượt qua nhiều vấn đề chính trị xã hội. Không ngạc nhiên khi các chương trình quảng cáo trên các phương tiện nghe nhìn thường chọn những thảm cỏ xanh hay những vùng có môi trường cho các chương trình. Thực vậy có một khối lượng rất lớn thông tin liên quan tới thông tin môi trường phản ánh mức độ sạch hay nói chính xác hơn mức độ ô nhiễm môi trường. Chính các thông tin này trong nhiều trường hợp chiếm vị trí đầu tiên trong các phiếu thăm dò xã hội. Nếu đặt vấn đề một cách chính xác hơn thì ở đây muốn nói tới độ lệch các đặc trưng hóa, lý, sinh học của không khí, nước, đất so với một số giá trị mà ta gọi là chuẩn. Chúng ta đưa ra một số định nghĩa như sau. Cụm từ chất lượng không khí được hiểu là tập hợp các tính chất của khí quyển xác định mức độ tác động của các yếu tố vật lý, hóa học và sinh học lên con người, thực vật và thế giới động vật, cũng như lên vật liệu, kết cấu và môi trường nói chung. Chất lượng không khí được xác định bằng các tiêu chuẩn, ví dụ như giới hạn cho phép nồng độ các chất độc hại trong khu vực sản xuất, khu dân cư,… Cụm từ chất lượng nước được hiểu là đặc trưng thành phần và các tính chất của nó, cho phép xác định tính sử dụng của nó cho các đối tượng sử dụng nước cụ thể. Theo tiêu chuẩn vệ sinh người ta thiết lập chỉ số vi sinh và ký sinh trùng của nước (số vi sinh và vi trùng của nhóm vi khuẩn đường ruột trên một đơn vị thể tích). Các chỉ số độc hại của nước đặc trưng cho mức độ độc hại thành phần hóa học của nó, được xác định bởi hàm lượng các chất hóa học, hàm lượng này không được vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Cuối cùng khi xác định chất lượng nước người ta lưu ý tới một số tính chất khác như: nhiệt độ, độ đục, màu, mùi, vị và độ cứng. Nguyên lý chuẩn hóa hàm lượng các hợp chất hóa học trong đất dựa trên sự gia nhập của chúng vào cơ thể diễn ra chủ yếu thông qua các môi trường tiếp xúc với đất. Các khái niệm cơ bản của ô nhiễm hóa học của đất xem trong các tài liệu qui phạm. Nói chung, trong những vấn đề liên quan tới chất lượng môi trường người ta lưu ý tới một số khía cạnh sau đây: - về đại lượng các đặc trưng cần quan tâm (ví dụ như nồng độ chất ô nhiễm) trong môi trường cụ thể (ví dụ như môi trường nước). - về đại lượng và bản chất của các qui phạm được xây dựng cho các đặc trưng này. - về các tính chất của các chất ô nhiễm được phát hiện và các yếu tố khác của sự tác động - mức độ nguy hiểm của chúng đối với con người và các cơ thể khác, về nguồn gốc phát sinh của chúng và về các con đường lan truyền của chúng,… 28
  7. Phần dưới đây chúng ta xem xét một số vấn đề liên quan tới các nguồn gốc thông tin liên quan tới từng vấn đề được nêu ra ở trên. Trong một số vấn đề sẽ gặp phải một số vấn đề liên quan tới hoạt động của các xí nghiệp gây ô nhiễm và các yếu tố tác động khác. Việc tìm kiếm thông tin, như người ta vẫn hay thường tiến hành thường bắt đầu từ tài liệu tham khảo. Công việc đọc tài liệu tham khảo giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về các vấn đề quan tâm, trong một số trường hợp khác có thể nhận được các dữ liệu cần thiết. Sau đó có thể tới các cơ quan, tổ chức nhà nước thực hiện quan trắc, thu thập số liệu với những yêu cầu cụ thể để tìm thông tin mà mình cần. Có thể lưu ý tới một đặc điểm là phần lớn các công trình được công bố có dẫn ra các số liệu thực tế của chính các tổ chức thu thập số liệu. Mục tiêu và nhiệm vụ của các tổ chức này cùng các nguyên lý làm việc được phản ánh trong cấu trúc và nội dung các công bố. 2.8.2 Thông tin về các xí nghiệp gây ô nhiễm Trước khi đi vào phân tích các nguồn thông tin cơ bản phản ánh tác động của xí nghiệp lên môi trường ta xem xét một số khái niệm cơ bản được sử dụng trong các nguồn thông tin này. Trong tài liệu khoa học kỹ thuật dưới cụm từ tác động lên môi trường xung quanh người ta hiểu là những dòng vật chất bất kỳ, năng lượng và thông tin trực tiếp được hình thành trong môi trường hay dự kiến sẽ hình thành do kết quả hoạt động của con người và dẫn tới những thay đổi theo chiều hướng xấu cho môi trường cũng như những dẫn tới những hậu quả của các thay đổi này. Các nguồn cơ bản tác động lên môi trường được chia thành: Các nguồn phát thải chất ô nhiễm - những chất liên quan tới sự lan truyền và khuếch tán các chất ô nhiễm trong khí quyển, trong số này còn phải kể tới sự lan truyền do việc chôn các nguồn thải; Các nguồn xả thải chất ô nhiễm, nghĩa là liên quan tới sự gia nhập và pha loãng các chất ô nhiễm xuống nước mặt hay nước ngầm cũng như trong các con kênh mương, từ các cống thải; Các nguồn tác động hóa – lý lên môi trường như các nguồn gây ồn, rung, bức xạ ion, trường điện từ, các nguồn phát thải và xả thải nhiệt; Các nguồn ô nhiễm sinh học cho môi trường; Trong thuật ngữ được ứng dụng cho khí quyển có thể chỉ nói về phát thải, ứng dụng cho các đối tượng nước chỉ nói về xả thải. Lưu ý rằng chất có thể gọi là chất bẩn, có hại hay độc hại. Các nguồn được phân loại thành nguồn cố định và nguồn di động. Vị trí của các nguồn di động thay đổi trong không gian thay đổi phụ thuộc vào thời điểm tác động của chúng; ví dụ như các tàu di chuyển hay sự loang của chất lỏng (ví dụ như dầu trong môi trường nước). Các nguồn cố định phát thải và xả thải chất ô nhiễm được chia ra thành các nguồn có tổ chức và không có tổ chức (bãi cháy, khối cháy). Ví dụ của nguồn thải cố định là ống khói của một nhà máy cố định hay một con kênh mương xả chất ô nhiễm xuống sông của một xí nghiệp nào đó. Ví dụ của nguồn không có tổ chức như một bãi cháy thuộc xí nghiệp. Các chất có hại từ các sản phẩm dầu, chất lỏng độc hại có thể rơi vào môi trường nước và có thể bốc hơi vào không khí. 29
  8. Các chất thải — cặn bã của nguyên liệu, các chất thải từ các xí nghiệp chế biến thực phẩm, rác sinh hoạt,… Người ta chia ra làm hai loại chất thải là chất thải sản xuất và chất thải tiêu thụ phụ thuộc vào nguồn gốc hình thành. Bản thân chất thải không nhất thiết phải là các nguồn tác động lên môi trường, nhưng chúng tạo ta các nguồn thải trong quá trình phân bổ và xử lý. Người ta phân biệt sự phân bổ chất thải ra làm hai loại là có tổ chức và không có tổ chức. Sự phân bổ có tổ chức chất thải được hiểu là sự tuân thủ theo lịch trình và được thực hiện tương ứng với các chuẩn và qui tắc rõ ràng trong việc tách, thu thập, vận chuyển, chôn cất (hay xử lý), có lưu ý tới việc sử dụng tiếp theo hay không sử dụng tiếp (chôn luôn). Quá trình phân bố không có tổ chức là quá trình diễn ra không tuân thủ theo qui trình hay lịch trình. Xử lý chất thải – là tổng hợp các quá trình phân bổ, xử lý, sử dụng, xóa bỏ hay chôn chất thải. Khi xử lý chất thải người ta có thể áp dụng nhiểu biện pháp và công nghệ khác nhau. 2.8.3 Thông tin về cơ sở sản xuất - các dạng chính của báo cáo môi trường Trong thực tế tại bất cứ xí nghiệp nào cũng có các dạng nguồn tác động lên môi trường được mô tả ở trên. Ngoài ra, bản thân xí nghiệp cũng có thể xem xét như một tập hợp các nguồn. Tồn tại một số các văn bản quy định cũng như phản ánh thực tế tác động của xí nghiệp lên môi trường. Trong số này các đánh giá phát thải giới hạn cho phép, các thiết kế qui hoạch chất thải, giấy phép môi trường, cũng như các dạng báo cáo thống kê. Phát thải cho phép và nồng độ giới hạn cho phép Qui phạm tác động lên môi trường đối với một số đối tượng sản xuất được qui định (có cơ sở khoa học) trong phát thải cho phép và nồng độ giới hạn cho phép. Các qui phạm này có liên quan tới các tiêu chuẩn chất lượng môi trường. Phát thải giới hạn cho phép (PTGHCP)– là lượng chất chứa trong khí thải, cực đại cho phép phát thải vào khí quyển trong một đơn vị thời gian. Xả thải giới hạn cho phép (XTGHCP) – là lượng chất chứa trong nước thải, cực đại cho xả qua cống vào đối tượng nước với chế độ định trước trong một đơn vị thời gian. Các tiêu chuẩn phát thải giới hạn cho phép và xả thải giới hạn cho phép được thiết lập đối với mỗi nguồn thải của mỗi xí nghiệp và đối với từng loại chất ô nhiễm có lưu ý tới sự tổ hợp của tác động. Nguyên lý chung thiết lập PTGHCP và XTGHCP là ở chỗ kết quả của phát thải (xả thải) các qui phạm được thiết lập đối với không khí và nước không được phép vượt PTGHCP (đối với không khí) và XTGHCP (và đối với nước) Cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định PTGHCP và XTGHCP là phương pháp tính toán nồng độ chất ô nhiễm do nguồn sinh ra tại các điểm được kiểm soát có lưu ý tới sự phát tán (pha loãng), sự đóng góp từ các nguồn khác, viễn cảnh phát triển,… Trong trường hợp khi mà các giá trị PTGHCP và XTGHCP vì nguyên nhân nào đó không thể tiến hành được, thì đối với các xí nghiệp đó người ta thiết lập các phát thải tạm thời theo thỏa thuận (các xả thải tạm thời theo thỏa thuận) đối với các chất độc hại và người ta đưa ra sự giảm theo từng giai đoạn chỉ số phát thải (xả thải) các chất độc hại tới các giá trị đảm bảo sự tuân thủ PTGHCP và XTGHCP. 30
  9. Công việc thiết lập PTGHCP và XTGHCP thường được tiến hành ở giai đoạn thiết kế và bắt buộc phải xem xét lại trong trường hợp thay đổi công suất, công nghệ sản xuất hay chế độ làm việc của xí nghiệp. Tương tự như trên đối với chất thải cần phải xây dựng các tiêu chuẩn, qui phạm cho phép giới hạn chất thải. Hình 2.7. Báo cáo môi trường đối với từng CSSX Giấy phép môi trường của xí nghiệp Mỗi xí nghiệp bắt buộc phải có một tài liệu đặc biệt - giấy phép môi trường. Giấy phép môi trường của mỗi xí nghiệp công nghiệp là một văn bản mang tính pháp lý được cấp phép và đưa vào thực hiện theo qui định của nhà nước. Tài liệu này được xây dựng với mục tiêu hệ thống hóa thông tin xác định ảnh hưởng của xí nghiệp lên môi trường, kiểm soát các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và các qui tắc trong quá trình sản xuất. Giấy phép môi trường thường chứa thông tin tổng quát về công nghệ được sử dụng (của các quá trình khác nhau được thực hiện tại xí nghiệp), về các nguồn tác động (các nguồn phát thải, các nguồn xả thải, tạo ra chất thải). Trong tài liệu này dẫn ra sơ đồ vị trí các nguồn thải, kết quả tính toán phát thải chất ô nhiễm môi trường xung quanh. Trong đa số các trường hợp giấy phép môi trường là tài liệu mở và được lưu trữ trong Cơ quan bảo vệ môi trường địa phương. Một số nhà máy xí nghiệp có những thông tin bảo mật sẽ có chế độ bảo vệ đặc biệt. Báo cáo thống kê Trách nhiệm của mỗi xí nghiệp là phải nộp báo cáo tổng kết về hoạt động bảo vệ môi trường tương ứng với các biểu mẫu thống kê quốc gia. Các dạng chính của biểu mẫu thống kê môi trường gồm các mẫu sau: Biểu mẫu về môi trường không khí. Báo cáo tổng kết về bảo vệ môi trường không khí. Đây là báo cáo hàng năm trong đó dẫn ra số liệu về các phát thải chất ô nhiễm vào không khí, quá trình xử lý, làm sạch chúng, dữ liệu về phát thải vào môi trường không khí các chất khí đặc biệt; các nguồn phát thải các chất ô nhiễm; quá trình thực hiện các biện pháp giảm thiểu phát thải. 31
  10. Biểu mẫu về tình trạng sử dụng nước. Báo cáo tổng kết về sử dụng nước. Đây là báo cáo hàng năm và chứa các dữ liệu cấp nước cho các xí nghiệp, dữ liệu về hệ thống dẫn nước, hệ thống cung cấp nước, các giới hạn lấy nước. Biểu mẫu về các chất thải độc hại. Báo cáo tổng kết về sự tạo thành và xử lý chất thải độc hại. Đây là báo cáo hàng năm và chứa các dữ liệu về các chất thải loại I, II, III và IV theo mức độ nguy hiểm (sự tạo thành, sự gia nhập từ các xí nghiệp khác, sử dụng, khử trùng, phân loại hữu cơ và vô cơ, chôn). Biểu mẫu về hệ thống kênh mương. Báo cáo tổng kết về hệ thống kênh mương. Báo cáo bao gồm phần giới thiệu các công trình đào kênh mương trong một năm. Biểu mẫu về hệ thống ống dẫn nước. Báo cáo tổng kết về ống dẫn. Bao gồm các dữ liệu các công trình xây dựng ống dẫn nước và công việc đào trong một năm. Biểu mẫu về Chi phí môi trường. Báo cáo tổng kết về chi phí cho công tác bảo vệ môi trường và tình hình thu phí môi trường. Tất cả các dạng báo cáo thống kê đều được nộp cho Trung tâm thống kê quốc gia. Ngoài ra các tài liệu trên cần thiết phải nộp cho Cơ quan bảo vệ môi trường. Hình 2.8. Các dạng báo cáo môi trường Lưu ý rằng ngoài các tài liệu trên còn có rất nhiều các tài liệu khác liên quan tới các quá trình công nghệ của quá trình vận hành. Tuy nhiên đối với người dân và các tổ chức xã hội thì khả năng được tiếp cận với các số liệu thực tế được giới hạn bởi PTGHCP và XTGHCP cũng như vị trí và giới hạn chất thải rắn cũng như các biểu mẫu báo cáo thống kê hàng năm. Cần lưu ý rằng các tài liệu được mô tả ở trên chứa rất nhiều mảng thông tin quí giá. Nếu biết cách khai thác sử dụng tốt các dữ liệu này thì có thể nắm được những thông tin quí giá về tình hình môi trường của xí nghiệp. Để kiểm soát ô nhiễm cần thiết phải tính toán sự phát tán ô nhiễm. Tuy nhiên trên thực tế để tính toán này có thể thực hiện cần phải tiến hành khảo sát lượng phát thải. Tuy nhiên đây là việc làm không phải lúc nào cũng đơn giản bởi vì lượng phát thải luôn có thể thay đổi (phụ thuộc vào nhiên liệu và công nghệ được sử dụng) Những lưu ý trên quan trọng khi phân tích hoạt động bảo vệ môi trường của xí nghiệp cũng như khi xây dựng các báo cáo tóm tắt và tổng quát hoá các số liệu Các nguồn thông tin khác về ô nhiễm công nghiệp Các biểu mẫu của Tổng cục thống kê quốc gia là những biểu mẫu quan trọng nhất những chúng không phải là duy nhất chứa thông tin về xí nghiệp. 32
  11. Thông tin về xí nghiệp gây ô nhiễm hay về tình trạng môi trường xung quanh xí nghiệp có thể năm ở một số các tổ chức nhà nước khác. Ví dụ thông tin về chất ô nhiễm có thể nằm trong báo cáo Đánh giá tác động môi trường do Vụ thẩm định môi trường (cấp Trung ương) hay Phòng quản lý môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường quản lý hay trong một số tạp chí, nếu các nhà máy này gần các vị trí quan trắc thuộc các Đài khí tượng thủy văn các tỉnh. Do vậy để nhận được thông tin cần quan tâm về tác động của các nhà máy gây ô nhiễm tới môi trường xung quanh nên lập các phiếu điều tra và gửi trực tiếp tới các Cơ quan nhà nước này. Ưu điểm nổi bật của các nguồn thông tin này là nó hoàn toàn dựa vào kết quả quan trắc đo đạc. Bên cạnh thông tin về tác động của một chất ô nhiễm cụ thể, trong thực tiễn luôn cần thiết phải nắm được các qui luật tổng quát sự tác động các nguồn thải lên môi trường xung quanh. Điều này quan trọng bởi vì, thứ nhất để hiểu đúng và diễn giải đúng thông tin về xí nghiệp cụ thể. Thứ hai, các kiến thức này có thể giúp một cách chính xác và cụ thể đặt câu hỏi cho các tổ chức khác nhau (ví dụ như yêu câầ thông tin về nồng độ các chất xác định trong nước sông nằm dưới nguồn xả nước bẩn vào sông theo dòng chảy). Một số thông tin về các tác động đặc trưng của các ngành và các vấn đề liện quan có thể nhận trong các báo cáo về tình trạng môi trường mức vùng và mức quốc gia. Các báo cáo này chức thông tin tổng quát về các xả thải và phát thải của các xí nghiệp trong phạm vi đất nước hay phạm vi vùng. Trong các báo cáo này có thể lưu ý tới một số xí nghiệp lớn. 2.8.4 Sức khoẻ của nhân dân Vấn đề sức khoẻ của người dân và tình trạng môi trường liên quan chặt chẽ với nhau. Chính sự tác động của các yếu tố môi trường lên sức khoẻ người dân là một khía cạnh của các vấn đề môi trường. Đây cũng là mối quan tâm của đại bộ phận người dân. Chính vì vậy chúng ta xem xét vấn đề này khi đề cập tới thông tin môi trường. Các khái niệm cơ bản Trong Điều lê của tổ chức Y tế thế giới cụm từ sức khoẻ được định nghĩa như là trạng thái hoàn toàn khoẻ mạnh về mặt thể lực, tinh thần và xã hội, mà không chỉ là sự không có bệnh tật hay khuyết tật gì đó. Tuy nhiên bất kỳ một định nghĩa nào về sức khoẻ thậm chí kể cả định nghĩa trên được coi là tuyệt đối. Người ta phân biệt “sức khoẻ của cá thể” và “sức khoẻ của dân chúng”. Khái niệm “sức khoẻ của cá thể” rất khó định nghĩa một cách chính xác bởi vì nó liên quan tới một phạm vi rất rộng giao động các chỉ tiêu quan trọng nhất của cuộc sống con người với khả năng thích nghi của cơ thể. Chính vì lý do vậy ở đây xuất hiện khái niệm “con người khoẻ trên thực tế”, được hiểu ở đây là có một số chênh lệch trong cơ thể theo một chuẩn nào đó nhưng không gây nguy hiểm cho sự tồn tại và khả năng làm việc của con người và không được xem xét như là có bệnh. Sức khoẻ của người dân nói chung hay một nhóm người dân (sức khoẻ xã hội) thường được mô tả bởi các chỉ số thống kê vệ sinh dịch tễ như: - Mức sinh sản - Tỷ lệ tử vong - Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh - Tỷ lệ bệnh tật - Mức độ phát triển thể chất của con người - Tuổi thọ trung bình Có nhiều yếu tố gây ảnh hưởng lên sức khoẻ người dân như các yếu tố sinh học, thiên nhiên và xã hội. Sức khoẻ người dân phụ thuộc rất nhiều vào môi trường xã hội và chế độ 33
  12. sống sinh hoạt của người dân, vào các điều kiện của cuộc sống, sự phát triển của y tế và của tình trạng môi trường. Trong một thời gian dài các thông tin về ảnh hưởng của môi trường lên tình trạng sức khoẻ người dân không được công bô. Chỉ sau khi có Hội nghị thượng đỉnh về môi trường tại Brazil năm 1992 người ta mới quan tâm nhiều hơn tới ảnh hưởng của môi trường lên tình trạng sức khoẻ của dân. Một khái niệm được các chuyên gia đưa ra ở đây là vùng có môi trường sống không thuận lợi. Ví dụ tại Liên xô cũ các chuyên gia đã xác định có từ 50 – 70 triệu người sống trong vùng có môi trường không thuận lợi. Người ta đưa ra 4 mức theo thứ tự tăng dần đối với những vùng có môi trường không thuận lợi : - Vùng có tình trạng môi trường ở mức báo động - Vùng có tình trạng môi trường ở mức báo động cao - Vùng có tình trạng môi trường ở mức báo động khẩn cấp - Vùng có tình trạng thiên tai nặng nề - Mối quan hệ giữa sức khoẻ người dân và tình trạng môi trường Trước đi vào vấn đề điểm lại các nguồn thông tin có thể, ta cần lưu ý tới tầm quan trọng của bài toán thiết lập mối quan hệ giữa tình trạng sức khoẻ người dân với ô nhiễm môi trường. Việc thiết lập mối liên hệ như vậy là một bài toán phức tạp không có câu trả lời thống nhất. Bởi vì như đã biết có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sức khoẻ người dân như yếu tố môi trường, kinh tế, xã hội. Thêm vào đó không chỉ tình trạng sức khoẻ chung của dân chúng, trên thực tế có thể sự lan truyền một bệnh dịch nào đó là kết quả của cùng một lúc nhiều yếu tố khác nhau (mà không chỉ là do môi trường). Do vậy xác định mối liên hệ nhân quả của sự liên hệ giữa một yếu tố xác định và sự gia tăng tần suất của một loại bệnh nào đó hay một nhóm bệnh nào đó là một vấn đề phức tạp. Trong trường hợp diễn ra đồng thời (ví dụ như ngộ độc) thì mối liên hệ như vậy là hiển nhiên. Bài toán phức tạp hơn liên quan tới bệnh nghề nghiệp do gắn với một loại hình sản xuất xác định và diễn ra trong một thời gian dài. Trong những vùng có tình trạng môi trường phức tạp, ví dụ tại các khu công nghiệp, loại bệnh liên quan tới sự ảnh hưởng không thuận lợi của các yếu tố bên ngoài có thể chiếm một tỷ lệ áp đảo. Không hiếm khi các bác sĩ lâm sàng có thể đoán ngay ra bệnh của bệnh nhân khi biết họ tới từ những vùng có tình trạng môi trường không thuận lợi. Tuy nhiên để chứng minh rằng có mối liên hệ nhân quả của mối liên hệ giữa đại đa số loại bệnh với tác động của một chất độc hại nào đó thì ngay cả y học hiện đại cũng không thể làm được. Câu hỏi và bài tập 1. Thông tin môi trường là gì và vai trò của nó trong việc thông qua các quyết định về môi trường. 2. Trình bày cách sản sinh ra thông tin môi trường cũng như sự phân loại thông tin môi trường. 3. Nêu rõ dữ liệu môi trường được đo đạc và thu thập ở những cơ quan nào xét trên ví dụ thành phố Hồ Chí Minh. 4. Trình bày những nội dung của thông tin môi trường đối với từng cơ sở sản xuất. 5. Trình bày những thông tin môi trường chứa đựng trong các báo cáo thống kê của các cơ sở sản xuất. 34
  13. 6. Vì sao phải xem xét vấn đề sức khỏe của người dân khi xem xét chất lượng môi trường. Trình bày một số cơ sở lý luận. 7. Đề tài liểu luận: Xây dựng hệ thống thông tin môi trường cung cấp thông tin cho nhiều đối tượng quan tâm. Gợi ý: xây dựng cơ sở dữ liệu về các cơ quan, tổ chức làm việc trong lĩnh vực môi trường; xây dựng cơ sở dữ liệu quan trắc môi trường nước, không khí phản ánh chất lượng môi trường trên địa bàn quan tâm. Tài liệu tham khảo 1. Tiềm lực và vai trò Khoa học - Công nghệ Việt Nam, Tập 1, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Nhà xuất bản thống kê, 2003. 2. Bùi Tá Long và CTV, 2002. Hệ thống thông tin trợ giúp công tác quản lý, qui hoạch và đánh giá tác động môi trường. Báo cáo tổng hợp kết quả đề tài cấp Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia 1999 – 2000, 121 trang. 3. Đặng Mộng Lân, 2001. Các công cụ quản lý môi trường. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, 199 trang. 4. Lưu Đức Hải, 2001. Cơ sở khoa học môi trường. Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà nội, 2001, 232 trang. 5. Võ Văn Huy, Huỳnh Ngọc Liễu, 2001. Hệ thống thông tin quản lý. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, 290 trang. 6. Socolov V.E., 1992. Thông tin môi trường. Nhà xuất bản Khí tượng – Thủy văn Sankt – Peterburg, 1992. (tiếng Nga). 7. Guseva T.V. và các đồng tác giả, 1998. Thông tin môi trường và các nguyên lý làm việc với chúng. Nhà xuất bản Ecoline, Moscow. 205 trang (tiếng Nga). 35
  14. CHƯƠNG 3 CÁC GIAI ĐOẠN LÀM VIỆC VỚI THÔNG TIN MÔI TRƯỜNG Trong các chương trước chúng ta đã xem xét các nguồn thông tin chủ yếu, một số phương pháp nhận được nó và làm việc với nó. Mặc dù có sự đa dạng của tình huống, cũng như có rất nhiều phương pháp nhận được thông tin nhưng tồn tại một số qui luật, nguyên lý chung được áp dụng để làm việc với thông tin môi trường trong đại đa số trường hợp. Các qui luật này là nội dung được xem xét trong chương này. Ngoài ra nhiệm vụ ở đây là xem xét quá trình làm việc với thông tin một cách thống nhất. Trong chương này đề xuất sơ đồ tổng quát của dòng thông tin. Sơ đồ này phản ánh các giai đoạn chính cũng như phản ánh sự phụ thuộc của chúng. /Hình 3.1/. Trong chương này sử dụng khái niệm dự án thông tin. Cụm từ này chỉ một công việc có mục đích rõ ràng liên quan tới thông tin được thực hiện “từ đầu tới cuối” - từ khi xác định mục tiêu và bắt đầu thu thập thông tin cho tới khi ứng dụng các kết quả của công việc này. Cụm từ mà chúng ta gọi là dự án thông tin trong thực tế cơ quan, tổ chức có thể là một nhánh của dự án lớn liên quan tới thông tin hoặc cũng có thể là một hướng độc lập của tổ chức. Đây có thể là công việc được tổ chức để nghiên cứu một bài toán xác định ví dụ như tác động lên môi trường của một nhà máy cụ thể. Kết quả của nghiên cứu này được sử dụng cho những người có thẩm quyền thông qua quyết định. Kết quả của sản phẩm này là phần mềm máy tính trợ giúp tính toán. Cũng có thể là công việc xây dựng các nguồn thông tin cho sự truy cập mở - thư viện hay cơ sở dữ liệu chuyên đề trên Internet. Chúng ta lưu ý hai vấn đề sau đây. Thứ nhất không nên suy nghĩ rằng những nguyên lý và phương pháp tiếp cận được mô tả ở đây là phức tạp và khó thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên trên thực tế các nguyên lý và phương pháp tiếp cận này đã được nhiều cơ quan tổ chức sử dụng. Thứ hai là một số lời khuyên ở đây cần được xem xét một cách mềm dẻo chứ không nên xem xét một cách cứng nhắc. 36
  15. Hình 3.1.Các giai đoạn chính của dự án thông tin. Đường kẻ chấm chỉ rõ một số giai đoạn của dự án có thể quay lại trong quá trình làm việc. 3.1 Xác định mục đích và nội dung công việc Trước khi tiến hành công việc cần thiết phải đặt ra mục tiêu của công việc này. Kinh nghiệm cho thấy trong một dự án công nghệ thông tin được tổ chức tốt thì trong mục tiêu hầu như đã xác định tất cả những gì cần: từ các hướng tìm kiếm, nguồn thông tin và các phương pháp nhận được nó, đến dạng biểu diễn nó và các phương pháp phân phát thông tin. Bản thân mục tiêu của dự án công nghệ thông tin luôn năm ở chỗ tìm kiếm và (hay) phổ biến thông tin cần thiết cho việc thực hiện các hành động cụ thể, thay đổi hành vi của con người, thông qua quyết định. Nói tới thông qua quyết định chúng ta không chỉ hiểu là các quyết định được thông qua bởi những người lãnh đạo cao cấp mà còn cả những quyết định khác có phạm vi tác động nhỏ hơn (trong một nhóm ít người hơn chẳng hạn). Thập chí ngay cả khi mục tiêu công việc không được phát biểu ở dạng tường minh thì một số ý tưởng ở dạng này hay dạng khác đều xuất hiện. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần 37
  16. phải phát biểu mục tiêu này một cách rõ ràng và sau đó cần phải so sánh với các biện pháp được tiến hành nhằm thực hiện mục tiêu này tại mọi giai đoạn của công nghệ thông tin. Điều quan trọng cần phải hiểu là bạn đang thu thập (chuẩn bị, phân phát) không phải “thông tin về …” mà bạn đang thu thập “thông tin cần thiết cho ….” (công việc với lãnh đạo xí nghiệp, báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền, thông qua quyết định… Với mục tiêu được đặt ra một cách rõ ràng sẽ cho phép sử dụng các nguồn lực hạn chế đủ cho những nỗ lực của bạn. Giả sử rằng cần thiết phải tiến hành một dự án công nghệ thông tin trong khuôn khổ cho một tổ chức xã hội với mục tiêu làm giảm thiểu tác động lên môi trường của xí nghiệp ô nhiễm. Mục tiêu của công trình này là chuẩn bị thông tin cần thiết cho các hoạt động làm giảm tác động lên môi trường và có mục tiêu đánh thức ý thức của một nhóm người có liên quan tới vấn đề này (dân chúng, lãnh đạo xí nghiệp, chính quyền). Có thể xác định mục tiêu chính xác hơn nếu dự án đưa ra xem xét phương pháp tác động cụ thể ví dụ như đối thoại với lãnh đạo xí nghiệp, phản ánh với các cấp lãnh đạo có thẩm quyền,… Khi đó mục tiêu của dự án cụ thể hơn khi chuyên về thông tin cho các hành động cụ thể này. Ví dụ như phụ thuộc vào phương pháp tác động cần tới những tri thức về đặc điểm của chu trình sản xuất hay cần những thời điểm vi phạm qui phạm gây ảnh hưởng không tốt lên môi trường xung quanh. Ta lấy ví dụ để minh họa. Giả sử ta cần thực hiện dự án xây dựng nguồn thông tin truy cập trực tiếp : xây dựng CSDL tra cứu các trung tâm thông tin môi trường cho các tổ chức xã hội. Giả thiết rằng không phải người tổ chức và thực hiện dự án này sẽ ứng dụng công nghệ này mà người sử dụng mới là người ứng dụng. Khi đó mục tiêu của dự án là cung cấp cho các tổ chức xã hội thông tin cần thiết cho sự tìm kiếm nhanh chóng bằng cách truy cập tới các trang Web này. Trong một số trường hợp khi xuất hiện dự án phức tạp thường ta không rõ các hành động cụ thể hay con đường giải quyết nó. Mục tiêu của dự án trong trường hợp này có thể là phân tích tình hình và xác định các khả năng có thể giải quyết vấn đề. Điều quan trọng cần hiểu ở đây là: đây chỉ là mục tiêu trung gian, và cần thiết một công việc tiền dự án cho dự án CNTT. 3.2 Thu thập thông tin Sau khi đã xác định được mục tiêu thì có thể chuyển qua giai đoạn thu thập thông tin. Đây là một quá trình đặc biệt và có một sự “tự do” lớn cho quá trình sáng tạo. Công đoạn này có thể bao gồm việc tập hợp các thông tin đã có sẵn hoặc xây dựng thông tin bổ sung mới. Ở đây cần lưu ý một số thách thức xác định. Như chúng ta đã biết nguồn tài liệu về môi trường rất phong phú. Đó là các cuốn sách, các bài báo, CSDL điện tử. Việc định hướng trong sự đa dạng này không hề đơn giản ngay cả đối với các nhà chuyên nghiệp. Bên cạnh đó có thể xảy ra trường hợp khi cùng một vấn đề nhưng có nhiều tổ chức khác nhau cùng làm. Việc bơi trong bể thông tin, các con số, sự kiện sẽ chiếm rất nhiều thời gian của người nghiên cứu. Trong trường hợp này cần một sự định hướng xác định. Định hướng quan trọng nhất ở đây (có thể coi là ngọn đèn hải đăng) cho chuyển động chính là mục tiêu của công trình của bạn. Mục tiêu có thể giúp chúng ta xác định một số tham số cơ bản của thông tin cần thiết: phạm vi các vấn đề mà ta cần phải tìm câu trả lời (“độ rộng” của thông tin cần thiết) và mức độ chi tiết, chiều sâu của sự phân tích những vấn đề này. Xuất phát từ nhận thức về thông tin cần thiết cần phải giải quyết xem bằng phương pháp nào và từ các nguồn nào có thể nhận được thông tin như vậy. Tồn tại nhiều cách nhận được thông tin ví dụ như: - Làm việc với tài liệu tham khảo và xây dựng thu hoạch; 38
  17. - Làm phiếu thăm dò đối với các tổ chức nắm các thông tin ấy (các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhà máy, xí nghiệp); - Tới làm việc với các chuyên gia, hay những trung tâm tư vấn; - Tìm kiếm thông tin trên Internet; - Tự quan sát hay đo đạc. Hình 3.2. Các phương pháp nhận nguồn thông tin Công việc lựa chọn con đường và phương pháp nhận được thông tin và nguồn gốc của thông tin phụ thuộc vào tình huống cụ thể. Trong đại đa số các trường hợp ta nên kết hợp các phương pháp khác nhau. Kế hoạch hóa việc tìm kiếm thông tin, cần tuân thủ nguyên lý sau: dạng nguồn cần phù hợp với đặc điểm của thông tin cần tìm. Ví dụ các giá trị nồng độ giới hạn cho phép các chất có hại cần tìm trong Tiêu chuẩn Việt Nam do Tổng cục đo lường phát hành hay trong các cuốn sổ tay tương ứng. Công bố trên báo chí không thể coi là nguồn tin cậy. Thông tin về tính chất các chất độc hại có thể tìm trong sách giáo khoa hay các cuốn sổ tay. Nguồn tài liệu đáng tin cậy về ô nhiễm môi trường có thể tìm trong các phiếu đo, các công bố của các tổ chức thực hiện quan trắc, các báo cáo ở các mức độ khác nhau do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố. Thêm vào đó không nên tìm kiếm trong các báo cáo ở mức quốc gia (vì đây đã là những thông tin thứ cấp, đã qua xử lý). Trong nhiều trường hợp trong thực tế “tính pháp lý” của nguồn thông tin rất quan trọng. Nếu yêu cầu được đặt ra là phải thông qua một quyết định này đó dựa trên kết quả các thông tin thu thập được thì cần thiết phải tuân thủ một số yêu cầu bắt buộc đối với nguồn thông tin và các thủ tục để nhận được nó. Lưu ý rằng sau khi giải quyết mọi vấn đề được nêu ra ở trên và bắt đầu làm việc với các nguồn thông tin cụ thể cần lưu ý rằng trong số các tài liệu thu thập được không phải tài liệu nào cũng đảm bảo chất lượng và nếu sử dụng tài liệu chất lượng thấp có thể dẫn tới sự hiểu sai về vấn đề. Trong một số trường hợp, ta có thể gặp phải các vấn đề do tác giả nào đó hiểu sai vấn đề nên đã làm méo mó số liệu. Chính vì vậy đánh giá số liệu là một việc làm cần thiết trước khi sử dụng nó. Để kết thúc mục này xin có một lời khuyên rằng nếu bạn bắt đầu công việc tìm kiếm thông tin trong một lĩnh vực bạn không biết rõ lắm thì sự giúp đỡ của chuyên gia trong việc lựa chọn thông tin là rất cần thiết. 3.3 Đánh giá nguồn thông tin 3.3.1 Tính xác thực và đầy đủ Trước tiên lưu ý rằng trong số các đặc trưng của nguồn thông tin (rất quan trọng để đánh giá thông tin) cần thiết phải nhắc tới tính xác thực và đầy đủ. Tính xác thực được hiểu là thông tin chứa trong nguồn phải tương ứng với thực tế, phải đúng và trung thực. 39
  18. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng một nguồn có thể chứa nhiều thông tin có bản chất khác nhau – có thể là các yếu tố quan sát được, các kết luận và tổng quát hóa dựa trên cơ sở các yếu tố, các giả thiết được đưa ra để giải thích các yếu tố này, các lý thuyết từ các ngành khoa học khác đã được công nhận. Vì vậy trong một nguồn thông tin bên cạnh các yếu tố xác thực có thể có những kết luận không đúng. Trong một số trường hợp khác, dựa trên cơ sở cùng một bộ các yếu tố có thể đưa ra những kết luận khác nhau. Tính đầy đủ có nghĩa là nguồn thông tin phải phản ánh những khía cạnh quan trọng của vấn đề, những yếu tố có giá trị. Thêm vào đó yêu cầu đầy đủ đối với nguồn thông tin được xác định bởi mục tiêu chuẩn bị nguồn thông tin, và định nghĩa “quan trọng” có nghĩa là “quan trọng từ khía cạnh mục tiêu được đặt ra”. Ví dụ bài báo khoa học có mục tiêu là phân tích tác động của chất có hại lên thực vật có thể không chứa bất cứ thông tin nào về tác hại của nó lên động vật. Trong khí đó trong các tài liệu mang tính điểm tin khoa học liên quan tới chất độc hại này không thể thiếu phần ảnh hưởng của nó lên động vật. Chính vì vậy, làm việc với nguồn thông tin thì điều quan trọng là phải hình dung được với mục tiêu nào nguồn thông tin này được xât dựng và nhiệm vụ này được đặt ra cho các tác giả. Trường hợp lý tưởng nhất là trường hợp nguồn thông tin có mục tiên trùng với mục tiêu nghiên cứu của bạn. Trong thực tế có các nguồn thông tin thuộc dạng không đầy đủ, Nếu tài liệu như vậy là nguồn tư liệu duy nhất thì trên cơ sở nó có thể hình thành biểu biết sai lệch về vấn đề. Trong nhiều trường hợp nguồn thông tin thỏa yêu cầu của tính đầy đủ xét từ quan điểm mục tiêu được đặt ra không thể tìm được. Trong trường hợp này những thông tin cần thiết cần phải được thu thập từ một số nguồn khác. Thường thì tính đầy đủ và tính xác thực của nguồn thông tin không thể đánh giá từ bên trong mà không lưu ý tới các nguồn khác cũng như không lưu ý tới ý kiến chuyên gia khi bạn thu thập thông tin cũng như đánh giá thông tin. 3.3.2 Tài liệu tham khảo và luận chứng. Văn hóa làm việc với thông tin Thông tin không tự nhiên xuất hiện, nó hoặc được lấy từ một nguồn khác hoặc do chính tác giả và các đồng nghiệp của anh ta tạo ra. Thông tin có thể tự được tạo ra ví dụ như bằng cách tổng quát các dữ liệu đo đạc hay bằng con đường tính toán hay hay kết luận dựa trên một số thông tin ban đầu. Thêm vào đó, thường thì thông tin mới được tạo ra dựa trên việc sử dụng các phương pháp xác định. Thông tin về quá trình thu thập quan trọng để hiểu đúng và đánh giá hiệu quả của thông tin. Sự hiện diện của các thông tin như vậy trong nguồn thông tin cho phép đánh giá độ chính xác và tính đầy đủ của thông tin. Đối với các công bố khoa học sự hiện diện của các trích dẫn các nguồn tài liệu được sử dụng là bắt buộc. Trong các tài liệu khác ví dụ như trong các phương tiện thông tin đại chúng thì không cần thiết phải dẫn ra tài liệu tham khảo. Tuy nhiên nếu trong bài báo đăng trong báo chí có hiện diện thông tin về tài liệu tham khảo thì sẽ làm tăng sự giá trị của bài báo. Ví dụ khi đăng một yếu tố xác định “nồng độ của BOD trong nước vượt quá tiêu chuẩn cho phép” có thể chỉ ra nguồn gốc thông tin như theo kết luận của đề tài nghiên cứu khoa học hay theo nghiên cứu của giáo sư nào đó. Điều này cho phép người quan tâm có thể tìm được những thông tin tiếp theo. Nếu trong quá trình trình bày tác giả chuyển từ những giả thiết ban đầu qua một số kết luận nào đó thì điều quan trọng là tính toàn vẹn của kết luận logic và tính đầy đủ trong luận chứng. Ví dụ như khi chuyển từ việc mô tả một công nghệ nào đó sang câu kết luận về độ an 40
  19. toàn môi trường sinh thái của nó không thể coi là có cơ sở nếu không xem xét tác động của nó lên môi trường và lên sức khoẻ con người. Sự hiện diện của các trích dẫn và luận chứng là dâu hiệu của văn hóa trong làm việc với thông tin. 3.3.3 Một số tiêu chí khác đánh giá nguồn thông tin Chúng ta dẫn ra thêm một số tiêu chí có thể được sử dụng để đánh giá nguồn thông thông. Các tiêu chí này mang ý nghĩa gián tiếp; sự tương thích hay không tương thích bản thân nó không đảm bảo phạm vi ứng dụng hay không ứng dụng nguồn thông tin. Nguồn thông tin có thể cũ đi do sự bổ sung các tri thức mới. Không chỉ hiểu biết khoa học mà đặc trưng của trạng thái môi trường, tiêu chuẩn cho phép, qui phạm pháp luật cũng có thể thay đổi … Vì vậy tính hiện đại của nguồn thông tin có thể có mối liên hệ trực tiếp đối với khả năng ứng dụng của nó. Hình 3.3. Sơ đồ đánh giá nguồn thông tin Khi đánh giá thông tin nên chú ý tới xem ai là tác giả và do nhà xuất bản nào ấn hành. Có thể tác giả được thừa nhận là chuyên gia lớn trong lĩnh vực đã cho. Có thể nhà xuất bản nắm được rất nhiều thông tin trong lĩnh vực được xuất bản. Mặt khác thật là hiếm thấy khi giáo viên trường Trung học phổ thông lại xuất bản cuốn sách về Độc tố trong môi trường. Vì thường tài liệu như vậy là kết quả làm việc của tập thể các tác giả từ các trường đại học tổng hợp. Tất nhiên uy tính khoa học của bản thân tác giả hay của nhà xuất bản không phải là các yếu tố duy nhất cần lưu ý. Có thể là một công ty lớn, đa quốc gia nào đó làm trong lĩnh vực môi trường có thể xuất bản các cuốn sách chuyên khảo trong lĩnh vực của mình. Trong quá trình làm việc với thông tin (các yếu tố, kết luận, luận chứng) nếu có gặp những đánh giá rất gay gắt và cảm tính thì cũng không nên kết luận rằng không thể ứng dụng chúng được vào thực tế. Tuy nhiên, điều này nói lên rằng tài liệu này được chuẩn bị bởi một phía tham gia vào một cuộc tranh chấp hay một vấn đề nóng bỏng và thông tin cần được kiểm tra với việc sử dụng các nguồn thông tin khác. Trong thực tế thường gặp phải các tài liệu chỉ chứa đựng những kết luận hay đánh giá, không hiếm khi ở dạng bức xúc mà không có bất kỳ sự luận chứng nào hay sự trích dẫn tới một tài liệu nào. Có thể hiểu được lý do tồn tại của các loại tài liệu như vậy. Do sự hạn chế của khối lượng đăng nên các tác giả không thể đăng đầy đủ các nội dung đã được thực hiện hoặc sự trình bày nội dung sẽ gặp nhiều khó khăn khi đối tượng nghe không có sự hiểu biết nhiều về lĩnh vực được nghe. Những kết luận mang tính cảm tính có thể hiểu như là mục tiêu của các tác giả muốn tuyên truyền cho mục tiêu xác định. Đối với những tài liệu như vậy có thể đưa ra một số kết luận sau đây: không thể dùng nó như là một tài liệu trích dẫn. Tuy nhiên có thể dùng nó để tham khảo, đặc biệt cần khai thác các nguồn thông tin được chỉ ra trong đề tài đó. 41
  20. Trong một tài liệu lớn nếu không sử dụng được đầy đủ các đề mục của nó, bạn vẫn có thể sử dụng một phần của nó. 3.3.4 Nguyên lý dư thừa và nguyên lý đầy đủ một cách hợp lý Cùng với việc xem xét các vấn đề liên quan tới chất lượng thông tin ta dẫn ra qui tắc sau đây đúng với một nghiên cứu bất kỳ khi làm việc với thông tin nói chung. Nếu bạn chỉ sử dụng một phương pháp, một nguồn để nhận được thông tin thì thông tin mà bạn nhận được có thể là một chiều, không đầy đủ hay có thể là không xác thực. Trong mọi trường hợp bạn sẽ rơi vào sự phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn, không có khả năng kiểm tra tính đầy đủ và xác thực. Luận điểm này đúng không chỉ khi làm việc với dự án thông tin theo một dạng nghiên cứu nào đó mà còn đúng khi xây dựng các nguồn thông tin. Ví dụ khi xây dựng CSDL về các Trung tâm thông tin môi trường, nếu bạn gặp một thông tin nào đó về một đơn vị trước đây bạn chưa từng nghe tời thì lời khuyên dành cho bạn là phải nhanh chóng kiểm tra và điều chính theo các nguồn thông tin khác hay phải liên hệ trực tiếp với trung tâm như vậy. Một nhà nghiên cứu tự nhiên bất kỳ đều biết rằng để nhận được thông tin khách quan và tin cậy đòi hỏi phải tiến hành thí nghiệm độc lập hay ứng dụng các phương pháp độc lập. Mặc dù việc đánh giá khách quan thông tin là cần thiết nhưng trên thực tế nhiều khi không thể lặp lại thí nghiệm và rất khó có thể nhận được thông tin một cách đầy đủ. Tuy nhiên, lưu ý rằng trong một số trường hợp việc kiểm tra với sự trợ giúp của các phương pháp độc lập đặc biệt quan trọng. Điều này trong trường hợp riêng khi bạn: - Có những thông tin mà bạn rất khó kết hợp vào trong một bức tranh chung hay bạn có những yếu tố mâu thuẫn với nhau; - Bạn làm việc trong một lĩnh vực mới đối với bạn; - Bạn làm việc trong tình huống có xung đột nặng nề. Việc kiểm tra đặc biệt cần thiết khi bạn nhận được các kết quả “bất ngờ” – khi từ những thông tin này dẫn tới những hậu quả cho thực tế cũng như về mặt pháp lý. Sự cần thiết phải sử dụng một số nguồn thông tin khi nhận được cùng một thông tin có thể xem như là sự thể hiện “nguyên lý dư thừa”. Sự thể hiện của nguyên lý này có thể mô tả ngắn gọn như sau: cần phải biết nhiều hơn những gì bạn dự định nói. Tất nhiên ở đây vấn đề không phải là bạn chỉ cần giải thích vừa đủ cho đối tượng mà bạn cần trình bày. Ý nghĩa của câu nói trên là ở chỗ thông tin cần được thu thập và phân tích với một sự dự trữ nào đó vượt quá khối lượng mà bạn cần thông báo cho người nghe hay cần trả lời cho những câu hỏi cụ thể mà bạn quan tâm. Phương pháp tiếp cận như vậy sẽ cho phép bạn luôn ở trạng thái sẵn sàng đối với những bước ngoặc của cuộc thảo luận, một cách bình tĩnh và tự tin trả lời những câu hỏi của nguời nghe và những người phản biện. Mức độ của sự vượt mức như vậy xác định bởi tình huống cụ thể. Trong nhiều trường hợp rất cần phải đẩy sự hiểu biết vấn đề đi xa hơn tới sự hiểu biết bức tranh tổng thể chứ không dừng lại ở việc trả lời các câu hỏi có sẵn trong tài liệu. Đây là cơ sở tốt cho việc trả lời nhiều câu hỏi mà rất khó thấy trước hoặc không thể thấy trước. Trong tình huống thực tế, sự nỗ lực của bạn trong việc thu thập thông tin cần được giới hạn theo “chiều rộng” - từ quan điểm phạm vi các nguồn tài liệu hay phương pháp và “theo chiều sâu” - từ quan điểm mức độ chi tiết, độ sâu của quá trình xử lý bài toán. Nếu không có sự giới hạn này thì quá trình tìm kiếm thông tin của bạn sẽ kéo dài vô tận. Ở đây cần tuân thủ nguyên lý vừa đủ hợp lý - đủ cho mục tiêu được đặt ra. Thành công của toàn bộ giai đoạn thông tin phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tìm kiếm sự cân bằng giữa các nguyên lý dư thừa và nguyên lý vừa đủ hợp lý. 42
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2