intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hiện trạng phân bố của cây thuốc Sa sâm nam (Launaea sarmentosa) tại vùng đất cát ven biển Đà Nẵng - Quảng Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

5
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Hiện trạng phân bố của cây thuốc Sa sâm nam (Launaea sarmentosa) tại vùng đất cát ven biển Đà Nẵng - Quảng Nam đánh giá hiện trạng phân bố của Sa sâm nam ở các khu vực khác nhau ở Đà Nẵng - Quảng Nam, nhằm tạo cơ sở khoa học phục vụ cho công tác bảo tồn và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên cây thuốc này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hiện trạng phân bố của cây thuốc Sa sâm nam (Launaea sarmentosa) tại vùng đất cát ven biển Đà Nẵng - Quảng Nam

  1. BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM - HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 5 DOI: 10.15625/vap.2022.0025 HIỆN TRẠNG PHÂN BỐ CỦA CÂY THUỐC SA SÂM NAM (Launaea sarmentosa) TẠI VÙNG ĐẤT CÁT VEN BIỂN ĐÀ NẴNG - QUẢNG NAM Phạm Công Anh1, Ngô Thị Hoàng Vân1, Trần Quang Dần1,* Tóm tắt. Sa sâm nam (Launaea sarmentosa) là một loài cây thuốc có giá trị y học, phân bố tự nhiên tại các vùng đất cát ven biển Đà Nẵng - Quảng Nam. Tuy nhiên, tốc độ phát triển của đô thị hoá và khu du lịch ven biển ở các địa phương này đang đe dọa đến môi trường sống tự nhiên của cây. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá hiện trạng phân bố của Sa sâm nam ở các khu vực khác nhau ở Đà Nẵng - Quảng Nam, nhằm tạo cơ sở khoa học phục vụ cho công tác bảo tồn và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên cây thuốc này. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mật độ phân bố có sự thay đổi giữa các khu vực khảo sát. Mật độ trung bình của cây tại Đà Nẵng thấp (5,07 cây đơn/m2 và 15,26 dạng bò/m2), cây phân bố thành từng cụm tại những nơi có bãi cát rộng. Trong khi đó, mật độ phân bố của cây tại Quảng Nam cao hơn Đà Nẵng từ 1,5 - 2 lần (7,39 cây đơn/m2 và 23,98 cây dạng bò/m2), cây phân bố xen lẫn với các loài thực vật khác. Ngoài ra, vị trí phân bố của cây so với mức thuỷ triều cũng thay đổi không đáng kể giữa các khu vực khảo sát. Từ khóa: Cây thuốc, hiện trạng phân bố, Sa sâm nam, vùng đất cát ven biển. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam sở hữu một nguồn tài nguyên cây thuốc đa dạng và có giá trị, tuy nhiên nó đang bị đe doạ bởi những ảnh hưởng do biến đổi khí hậu gây ra. Các hiện tượng do biến đổi khí hậu như: nhiệt độ tăng, nước biển dâng, xâm nhập mặn, hạn hán, và rối loạn chu kì thời tiết đã tác động đến môi trường sống tự nhiên, dẫn đến sự suy giảm về trữ lượng và mức độ đa dạng loài. Đặc biệt mức độ bị ảnh hưởng sẽ lớn hơn đối với các loài cây thuốc phân bố ở các vùng ven biển, có khí hậu khắc nghiệt (Nguyễn Văn Thắng, 2010). Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng cây thuốc trong chăm sóc sức khoẻ của người dân ngày càng tăng cao, trong khi nguồn cung cấp chủ yếu từ cây mọc tự nhiên. Điều này sẽ góp phần gia tăng áp lực đối với việc duy trì bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc, và làm tăng nguy cơ tuyệt chủng các loài cây thuốc quý hiếm (Huỳnh Minh Tư và Võ Châu Tuấn, 2010; Phạm Hồng Ban, 2014). Do đó, cần có những nghiên cứu để đánh giá hiện trạng phân bố định kì, đặc biệt đối với những loài cây thuốc có giá trị; qua đó đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam. Đà Nẵng và Quảng Nam (gọi tắt Đà Nẵng - Quảng Nam) là 2 tỉnh/thành phố lớn nằm liền nhau thuộc khu vực miền Trung Việt Nam, với hơn 150 km đất liền tiếp giáp với Biển Đông và diện tích vùng đất cát ven biển và nội đồng lớn. Cả 2 tỉnh/thành phố này đều có kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng, với mùa khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 7 và mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12 (https://vi.wikipedia.org/wiki). Chính đặc điểm về vị trí địa lý và khí hậu đã hình thành những thảm thực vật rất đặc trưng ở vùng đất 1 Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng *Email: tqdan@ued.udn.vn
  2. 224 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM cát ven biển, trong đó có mặt nhiều loài cây thuốc có giá trị đã được khai thác sử dụng trong y học cổ truyền và hiện đại như: Sa sâm nam, Bạch cổ đinh, Từ bi biển, Lức dây, Bạch tật lê, Sam lông, Dừa cạn, Củ gấu (Đỗ Tất Lợi, 2004; Đặng Ngọc Phái và cộng sự, 2017). Tuy nhiên, các loài cây thuốc phân bố ở Đà Nẵng - Quảng Nam đang đứng trước nguy cơ mất dần môi trường sống do tốc độ đô thị hoá đang diễn ra nhanh chóng của hai tỉnh/thành này, kết hợp với hiện tượng xâm thực và sạt lở bờ biển. Sa sâm nam (Launaea sarmentosa) thuộc họ Cúc là một loài thực vật có hoa, thân thảo, sống lâu năm. Thân cây bò dài 20 - 30 cm; lá mọc thành hoa thị, phiến hình mác dài 3 - 8 cm, rộng 0,5 - 1,5 cm; cụm hoa thưa, mọc ở giữa túm lá thành đầu hình trụ; hoa màu vàng, quả bế hình trụ có cạnh (Võ Văn Chi, 2004). Cây phân bố tự nhiên ở nhiều nơi trên thế giới (Beentje và cộng sự, 2000). Ở Việt Nam, Sa sâm nam được tìm thấy ở các vùng đất cát gần bờ biển ở miền Trung, trong đó có Đà Nẵng - Quảng Nam (Trần Quang Dần và cộng sự, 2022). Trong y học cổ truyền, cây được sử dụng để giải độc gan, kích thích tuyến sữa, chống ho, lợi tiểu, lọc máu,… (Đỗ Tất Lợi, 2004; Yusriya và cộng sự, 2011). Lá và rễ cây có chứa nhiều hợp chất có hoạt tính sinh học như: alkaloids, amino acids, carbohydrates, glycosides, tannin, taraxasterol, taraxerol acetate, saponin, polyphenol, flavonoid và steroids (Raju và cộng sự, 2014; Salih và cộng sự, 2013). Vì sự phân bố tự nhiên ở Đà Nẵng - Quảng Nam nên Sa sâm nam có thể được xem là một đối tượng cây thuốc tiềm năng cần được nghiên cứu bảo tồn và phát triển (Trần Quang Dần và cộng sự, 2022). Tuy nhiên, hiện nay chưa có bất kì một nghiên cứu nào quan tâm đến vấn đề này. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá hiện trạng phân bố, thông qua mật độ và vị trí phân bố của cây tại các vùng đất cát ven biển của Đà Nẵng - Quảng Nam và thảo luận các yếu tố tác động, qua đó làm cơ sở để bảo tồn và phát triển hợp lý nguồn tài nguyên này. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Thiết lập tuyến điều tra thực địa Đối với mỗi địa phương, khu vực khảo sát là vùng đất cát gần bờ biển có sự phân bố của cây Sa sâm nam. Các khu vực khảo sát ở Đà Nẵng với tuyến (trong ngoặc đơn) gồm: Hải Vân (từ 16°07'54.2"N 108°07'23.7"E đến 16°07'59.0"N 108°07'22.2"E); Nam Ô (từ 16°07'07.8"N 108°07'48.0"E đến 16°07'18.2"N 108°07'30.5"E); Xuân Thiều (từ 16°06'31.8"N 108°08'03.5"E đến 16°05'50.9"N 108°08'39.4"E); Thanh Bình (từ 16°04'25.5"N 108°12'02.8"E đến 16°04'49.1"N 108°10'07.8"E); Phạm Văn Đồng (từ 16°04'34.0"N 108°14'45.7"E đến 16°04'45.9"N 108°14'48.2"E ); Ngũ Hành Sơn (từ 16°01'25.7"N 108°15'32.6"E đến 16°01'11.1"N 108°15'40.2"E). Các khu vực khảo sát ở Quảng Nam gồm: Điện Dương (từ 15°58'10.6"N 108°17'14.0"E đến 15°56'15.3"N 108°18'40.0"E); Cửa Đại (từ 15°55'00.4"N 108°20'09.9"E đến 15°53'59.7"N 108°21'43.6"E); Duy Xuyên (từ 15°51'57.1"N 108°24'14.9"E đến 15°51'01.8"N 108°24'14.6"E); Bình Minh (từ 15°46'38.3"N 108°25'52.0"E đến 15°45'56.9"N 108°26'17.2"E); Bình Hải (từ 15°43'59.7"N 108°27'27.8"E đến 15°43'59.7"N 108°27'27.8"E); Bình Nam (từ 15°43'59.7"N 108°27'27.8"E đến 15°39'29.9"N 108°30'19.0"E); Tam Kỳ (từ 15°37'49.1"N 108°31'27.7"E đến 15°36'43.8"N 108°32'12.7"E); Núi Thành (từ 15°26'13.0"N 108°41'55.6"E đến 15°25'01.8"N
  3. PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 225 108°43'02.2"E). Các tuyến khảo sát phải đảm bảo đi qua tất cả các vùng sinh thái khác nhau, mang tính đại diện cho khu vực khảo sát và ưu tiên qua những nơi hiển thị thảm thực vật (Hình 1). Hình 1. Sơ đồ khu vực khảo sát tại vùng đất cát ven biển Đà Nẵng - Quảng Nam 2.2. Xác định mật độ phân bố Ở mỗi tuyến khảo sát, các ô thu mẫu hình chữ nhật có chiều rộng 10 m, chiều dài bắt đầu từ vị trí cây gần bờ nhất đến vị trí xa bờ nhất đã được xác định. Các ô thu mẫu này cách nhau 50 m. Trong mỗi ô thu mẫu, tiến hành lựa chọn ngẫu nhiên 10 ô tiêu chuẩn (kích thước 1 m x 1 m) để quan sát số lượng cây. Mật độ phân bố của cây được xác định theo phương pháp được mô tả bởi Hoàng Chung (2006). Cây hình thành từ thân bò lan trên mặt đất (cây dạng bò) được xác định thông qua trung bình tất cả số lượng cây phát sinh từ thân bò lan trong các ô tiêu chuẩn. Mật độ phân bố cây đơn được xác định thông qua trung bình số cây đơn mọc riêng rẽ không hình thành từ thân bò lan trong các ô tiêu chuẩn. 2.3. Xác định vị trí phân bố Tại các tuyến khảo sát, vị trí phân bố của cây Sa sâm nam đối với mức thuỷ triều đã được xác định, bao gồm khoảng cách của cây gần bờ nhất đến vị trí thuỷ triều dâng cao nhất (KC1); khoảng cách của cây xa bờ nhất đến vị trí thuỷ triều xuống thấp nhất (KC2); khoảng cách của cây xa bờ nhất đến vị trí thuỷ triều dâng cao nhất (KC3); khoảng cách của cây gần bờ nhất đến vị trí thuỷ triều dâng thấp nhất (KC4) (Hoàng Chung, 2006). 2.4. Xử lý dữ liệu Số liệu được thu thập và xử lý thống kê bằng phần mềm Microsoft Excel. So sánh sai khác về mật độ phân bố giữa các khu vực khảo sát theo Duncan’s test với mức ý nghĩa α = 0,05 bằng phần mềm Minitab 16.
  4. 226 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Hiện trạng phân bố của cây Sa sâm nam tại các vùng đất cát ven biển Đà Nẵng Kết quả khảo sát thực địa cho thấy, mật độ phân bố của cây có sự khác nhau giữa các khu vực khảo sát. Dọc theo vùng đất cát từ Hải Vân đến Ngũ Hành Sơn, mật độ phân bố cây đơn có xu hướng tăng dần và cao nhất tại vùng đất cát ven biển Ngũ Hành Sơn với 7,73 cây đơn/m2. Tuy nhiên, mật độ cây dạng bò có xu hướng cao hơn tại các khu vực khảo sát có mật độ cây đơn thấp, mật độ cây dạng bò cao nhất quan sát được ở khu vực Hải Vân với 18,06 cây dạng bò/m2 (Bảng 1). Cây đơn hình thành từ hạt có xu hướng xuất hiện tại vùng đất cát gần bờ và mọc tách biệt với các loài thực vật khác. Đa số cây đơn không ra hoa cho đến khi cây phát sinh ra thân bò lan trên mặt đất sẽ bắt đầu ra cụm hoa và hình thành quả bế chứa hạt. Bên cạnh đó, cây dạng bò phát sinh từ cổ rễ mọc ra thân bò lan trên mặt đất, dài khoảng 20 - 90 cm, các rễ xuất hiện tại các đốt thân tiếp xúc với đất và hình thành cây mới. Vị trí phân bố của cây trải dài từ gần bờ có sự xen kẽ với các loài thực vật khác đến vị trí xa bờ hơn cây hình thành từng cụm, nhằm thích ứng với sự tác động của gió mạnh và tăng khả năng hấp thu nước. Kết quả khảo sát tại 2 khu vực khảo sát: Hải Vân và Nam Ô, có sự tương đồng về sinh cảnh với đặc điểm bãi cát rộng và cây mọc xen kẽ các loài thực vật khác nhau như: Rau muống biển (Ipomoea pes-caprae (L.) Sweet), Củ gấu (Cyperus rotundus L.), Bạch cổ đinh (Polycarpaea corymbosa (L.) Lam.). Tuy nhiên vị trí phân bố của cây là khác nhau, phụ thuộc vào chiều rộng của vùng đất cát. Khoảng cách từ cây gần bờ nhất đến cây xa bờ nhất đạt 70 m đã được quan sát tại khu vực Nam Ô, mật độ phân bố ở khu vực này cũng cao hơn so với các khu vực còn lại vì chưa có sự khai thác du lịch. Tương tự, sự tương đồng về sinh cảnh cũng được thể hiện ở hai khu vực khảo sát là Xuân Thiều và Thanh Bình, với đặc điểm vùng đất cát ngắn, mật độ phân bố thưa thớt và xen lẫn với loài Rau muống biển (Hình 2). Vị trí phân bố của cây tại hai khu vực này chủ yếu là sau hàng cây Phi lao (Casuarina equisetifolia L.), với khoảng cách phân bố ngắn nhất giữa cây gần bờ nhất và cây xa bờ nhất tại khu vực Xuân Thiều là 24 m. Bảng 1. Mật độ và vị trí phân bố của cây Sa sâm nam ở các khu vực khảo sát tại Đà Nẵng Mật độ phân bố Vị trí phân bố Khu vực khảo Cây Kí Cây đơn KC1 KC2 KC3 KC4 KC4 sát dạng bò hiệu (cây/m2) (m) (m) (m) (m) (m) (cây/m2) D1 Hải Vân 2,58a 18,06b 35,00c 38,00d 43,00bc 78,00d 73,00c D2 Nam Ô 3,75b 14,57b 70,00d 25,00a 75,00a 145,00a 9,005a D3 Xuân Thiều 5,54c 16,55a 24,00c 35,00d 45,00c 69,00e 59,00d D4 Thanh Bình 5,37bc 13,98b 30,00b 48,00c 54,00c 84,00cd 78,00c D5 Phạm Văn Đồng 5,48a 13,98b 48,00c 37,00d 42,00b 90,00bc 85,00bc D6 Ngũ Hành Sơn 7,73c 14,40a 38,00b 57,00b 65,00bc 103,00ab 95,00b Trung bình 5,07 15,26 40,80 40,00 54,00 94,00 80,80 * Các chữ cái khác nhau trong một cột là sai khác giữa các nghiệm thức theo Duncan’s test với p- value < 0,05.
  5. PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 227 A B C D Hình 2. Phân bố của cây Sa sâm nam tại các vùng đất cát ven biển Đà Nẵng. A, cây phân bố thành cụm xen kẽ với loài thực vật khác tại Nam Ô; B, vùng đất cát tại khu vực Nam Ô; C, vùng đất cát tại khu vực Xuân Thiều; D, vùng đất cát tại khu vực Ngũ Hành Sơn Trong khi đó, hai khu vực khảo sát: Phạm Văn Đồng và Ngũ Hành Sơn chỉ còn phân bố rải rác tại các bãi đất trống chưa có công trình xây dựng, thành phần loài thực vật ở đây tương đối ít, phân bố của Sa sâm nam tại hai khu vực này đang bị thu hẹp dần và có nguy cơ biến mất do khu vực này đã có thiết lập các công trình xây dựng (Bảng 1, Hình 2). Nhìn chung, Đà Nẵng có mật độ phân bố cây thưa thớt và kiểu phân bố cụm thông qua phát sinh cây dạng bò là chiếm ưu thế. Vị trí phân bố của cây chủ yếu ở các vùng đất cát gần bờ không chịu tác động của thủy triều, hoặc ở những bãi đất trống nơi ít nhiều có tác động của thủy triều. Mật độ phân bố của cây phụ thuộc vào chiều rộng bãi cát và điều kiện sinh thái của từng khu vực. Tại những vùng đất cát xa khu dân cư như khu vực Nam Ô và Hải Vân, có thành phần các loài thực vật đa dạng, ít chịu tác động của con người thì dễ bắt gặp cây khi đi khảo sát. Tuy nhiên, mật độ phân bố của cây vẫn thưa thớt hơn loài thực vật chiếm ưu thế ở đây là Rau muống biển. Bên cạnh đó, mật độ phân bố của cây giảm dần tại các bãi cát ngắn, cây xuất hiện chủ yếu dưới tán Phi lao và nơi chịu tác động lớn của thủy triều có sự đa dạng về các loài thực vật thấp như khu vực Xuân Thiều. Hầu hết phân bố của cây tập trung ở những nơi có điều kiện thuận lợi nhất. Từ những kết quả quan sát được có thể nhận định rằng, hiện trạng cây phân bố tại vùng đất cát ven biển Đà Nẵng sẽ có xu hướng giảm dần khi hoạt động du lịch phát triển mạnh. Từ đó có thể thấy, cần những biện pháp bảo tồn cây này thông qua việc phát triển du lịch bền vững, phát triển loài cây này trở thành một loài cây trang trí hoặc cây trồng phổ biến trong sinh cảnh của địa phương.
  6. 228 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM 3.2. Hiện trạng phân bố của cây Sa sâm nam tại vùng đất cát ven biển Quảng Nam Kết quả khảo sát cho thấy, sự phân bố của Sa sâm nam tại các vùng đất cát ven biển Quảng Nam còn khá phổ biển và có sự tương đồng giữa một số khu vực khảo sát. Với các khu vực có bờ cát rộng và cách xa đường dân sinh, cây có mật độ xuất hiện tương đối lớn và trở thành loài cây phổ biến tại các khu vực như: Điện Dương, Duy Xuyên, Thăng Bình. Cây phân bố chủ yếu thành từng cụm với mật độ cây dạng bò lớn nhất là 27 cây dạng bò/m2 tại khu vực Bình Nam (Bảng 2). Các khu vực khảo sát có thảm thực vật khá phong phú và đa dạng về thành phần loài mọc xen kẽ với Sa sâm nam như: Từ bi (Vitex rotundifolia L.f), Cỏ lông chông (Spinifex littoreus (Burm. f.) Merr.), Rau muống biển (Ipomoea pes-caprae (L.) Sweet), Lứt bò (Epaltes australis Less.), Lức dây (Phyla nodiflora (L.) Greene), Rau đắng đất (Glinus oppositifolius (L.) DC.). Với độ dài bờ cát rộng, ít chịu tác động của các hoạt động kinh tế ven biển và địa hình vùng đất cát đa dạng với các cồn cát nhỏ kéo dài từ hàng cây Phi lao ra gần vùng triều lên cao dẫn đến vị trí phân bố của cây Sa sâm nam được dài hơn so với các khu vực khảo sát tại Đà Nẵng (Hình 3). Kết quả khảo sát cho thấy cây Sa sâm nam tại vùng ven biển Cửa Đại do tác động của triều cường và các hoạt động du lịch dẫn đến mật độ cây phân bố ở khu vực này thấp nhất là 19,22 cây dạng bò/m2 (Bảng 2). Điều này có thể giải thích là do khoảng cách phân bố của cây tại khu vực Cửa Đại đã ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ phân bố của cây. Khi điện tích phân bố giảm đã dẫn đến khoảng cách phân bố của các cây giảm và từ đó kéo theo sự suy giảm về mật độ phân bố. Mật độ phân bố của cây bị chi phối bởi chiều rộng vùng đất cát cũng tương tự tại khu vực Bình Minh với khoảng cách cây xa bờ nhất cách cây gần bờ nhất chỉ đạt 21 m tại (Bảng 2). Tại 2 khu vực khảo sát là Tam Kỳ và Núi Thành có địa hình ven biển đa dạng với các vùng đất cát bằng phẳng tiếp giáp với địa hình đồi núi và ít chịu tác động của các hoạt động du lịch ven biển dẫn đến cây Sa sâm nam vẫn phân bố phổ biến xen lẫn với các loài thực vật khác. Nhìn chung, hiện trạng cây phân bố tại vùng đất cát Quảng Nam vẫn rất phổ biến, tần suất dễ bắt gặp khi đi khảo sát và phân bố xen lẫn với các thảm thực vật khác. Như vậy, có thể nhận định rằng, ngay trong các khu vực khảo sát sự thay đổi về mật độ vị trí phân bố đã có sự biến động phân bố theo không gian, với xu hướng tăng dần từ Bắc vào Nam. Bảng 2. Mật độ và vị trí phân bố của cây Sa sâm nam ở các khu vực khảo sát tại Quảng Nam. Mật độ phân bố Vị trí phân bố Khu vực Kí Cây đơn Cây dạng KC1 KC2 KC3 KC4 KC4 khảo sát hiệu (cây/m2) bò (cây/m2) (m) (m) (m) (m) (m) Q1 Điện Dương 11,97ab 22,92a 37,00b 54,00a 73,00b 110,00a 91,00a Q2 Cửa Đại 7,32b 19,22ab 37,00d 41,00d 49,00b 86,00cd 78,00d Q3 Duy Xuyên 7,26ab 24,33ab 45,00d 30,00b 56,00a 101,00cd 75,00b Q4 Bình Minh 6,58ab 20,28ab 21,00c 41,00c 46,00c 67,00d 62,00e Q5 Bình Hải 7,18ab 24,42ab 35,00c 43,00c 49,00b 84,00b 78,00c Q6 Bình Nam 5,83a 27,00ab 23,00c 45,00c 49,00c 72,00bcd 68,00d Q7 Tam Kỳ 4,58a 25,75b 34,00c 41,00c 49,00b 83,00bc 75,00c Q8 Núi Thành 8,43ab 24,95ab 32,00a 68,00a 73,00b 105,00a 100,00b Trung bình 7,39 23,98 33,00 45,38 55,50 88,50 78,38 * Các chữ cái khác nhau trong một cột là sai khác có ý nghĩa giữa các nghiệm thức theo Duncan’s test với p-value < 0,05.
  7. PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 229 A B C D Hình 3. Phân bố của Sa sâm nam tại các vùng đất cát ven biển Quảng Nam. A, cây phân bố thành cụm xen kẽ với loài thực vật khác; B, vùng đất cát tại khu vực Điện Dương; C, vùng đất cát tại khu vực Cửa Đại; D, vùng đất cát tại khu vực Duy Xuyên. 4. KẾT LUẬN Kết quả khảo sát đã cho thấy rõ hiện trạng phân bố của cây Sa sâm nam tại Đà Nẵng - Quảng Nam, sự phân bố thay đổi theo khu vực khảo sát. Mật độ phân bố của cây ở Đà Nẵng thấp, cây phân bố khá thưa thớt, khó bắt gặp, mọc thành từng cụm tại những nơi có bãi cát rộng và ít chịu tác động của thuỷ triều. Trong khi đó, mật độ phân bố của cây ở các vùng đất cát ven biển Quảng Nam cao hơn Đà Nẵng. Có sự tương đồng giữa các khu vực với chiều rộng bờ cát dài, sự phân bố của cây vẫn phổ biển và xen lẫn với các loài thực vật khác như: Từ bi (Vitex rotundifolia L. f.), Cỏ lông chông (Spinifex littoreus (Burm. f.) Merr.), Rau muống biển (Ipomoea pes-caprae (L.) Sweet) , Lứt bò (Epaltes australis Less.), Lức dây (Phyla nodiflora (L.) Greene), Rau đắng đất (Glinus oppositifolius (L.) DC.), Bạch cổ đinh (Polycarpaeacorymbosa (L.) Lam.). Với địa hình phân bố rộng, ít chịu tác động của khai thác du lịch nên hiện trạng Sa sâm nam phân bố tại Quảng Nam vẫn còn phổ biến hơn tại vùng đất cát ven biển Đà Nẵng. Các nghiên cứu tiếp theo cần được thực hiện nhằm góp phần bảo tồn và phát triển loài cây thuốc có giá trị này.
  8. 230 BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM Lời cảm ơn: Nhóm tác giả chân thành cảm ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo và Đại học Đà Nẵng (thông qua Đề tài cấp Bộ năm 2021, Mã số: B2021-DNA-10) và Hội Động vật học Frankfurt- CHLB Đức đã hỗ trợ kinh phí để thực hiện các nội dung nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Beentje H. J., Jeffrey C., Hind D. J. N., 2005. Compositae (part 3), Flora of tropical East Africa. Kew, Royal Botanic Gardens. Đặng Ngọc Phái, Phạm Thanh Huyền, Phan Văn Trường, Nguyễn Tập, Phan Công Tuấn, Nguyễn Văn Ánh, Hồ Quý Phương, Trần Hữu Việt Lợi, Trần Cúc, Huỳnh Minh Đạo, 2017. Kết quả điều tra nguồn tài nguyên cây thuốc tại thành phố Đà Nẵng. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 7, 1364-1370. De Langre, E., 2008. Effects of Wind on Plants. Annual Review of Fluid Mechanics, 40(1): 141-168. Đỗ Tất Lợi, 2003. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nxb. Y học, 1247 tr. Hoàng Chung, 2006. Các phương pháp nghiên cứu quần xã thực vật. Nhà xuất bản Giáo dục, Việt Nam, 200 tr. Huỳnh Minh Tư và Võ Châu Tuấn, 2010. Nghiên cứu nhân giống in vitro cây ba kích (Morinda officinalis How). Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 5(40): 191-196. Lê Kim Biên, 2007. Thực vật chí Việt Nam, Tập 7. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 139 tr. Nguyễn Văn Thắng, 2010. Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt Nam. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, 200 tr. Phạm Hồng Ban, 2014. Nghiên cứu bảo tồn, lưu giữ nguồn gen cây dược liệu có nguy cơ tuyệt chủng ở Nghệ An. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nghệ An, 1(9): 8-13. Raju G. S., RahmanMoghal M. M., Hossain M. S., Hassan M. M., Billah M. M., Ahamed S. K., Rana S. M., 2014. Assessment of pharmacological activities of two medicinal plant of Bangladesh: Launaea sarmentosa and Aegialitis rotundifolia roxb in the management of pain, pyrexia and inflammation. Biological Research, 47(1): 1-11. Salih, Y., Harisha, C. R., Shukla, V. J., & Acharya, R., 2013. Pharmacognostical evaluation of Launaea sarmentosa (Willd.) schultz-bip.ex Kuntze root, An International Quarterly Journal of Research in Ayurveda 34(1), 90-94. Trần Quang Dần, Phạm Công Anh, Nguyễn Thị Thanh Trinh, Võ Châu Tuấn, 2022. Đặc điểm hình thái và nảy mầm của hạt Sa sâm nam (Launaea sarmentosa). Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, 20(05): 87-92. Võ Văn Chi, 2012. Từ điển cây thuốc Việt Nam, Tập 2. Nxb. Hà Nội, 1674 tr. Watt, M. S., Moore, J. R. and McKinlay, B., 2005. The influence of wind on branch characteristics of Pinus radiata. Trees. 19(1): 58-65.
  9. PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC 231 Yusriya, S., Harisha, C. R., Shukla, V. J., and Acharya, R. N., 2011. A pharmacognostical and pharmacological evaluation of a folklore medicinal plant “Kulhafila” Launaea sarmentosa (Willd) Schultz Bip. ex Kuntze). MD (Ayu) Dissertation, IPGT and RA, Gujarat Ayurved University, Jamnagar. DISTRIBUTION STATUS OF A MEDICINAL PLANT, Launaea sarmentosa, IN COASTAL SANDY AREAS OF DA NANG - QUANG NAM Anh Cong Pham1, Van Thi Hoang Ngo1, Dan Quang Tran1,* Abstract. Launaea sarmentosa is a potentially valuable medicinal plant and distributed mainly in coastal sandy areas of Da Nang city and province Quang Nam (Da Nang - Quang Nam). However, distribution area of the plant is being threatened by rapidly developing urbanization and coastal tourism. The present study is to evaluate the current status of distribution of plant at different areas in Da Nang - Quang Nam, which may supply useful information for the conservation and sustainable development for L. sarmentosa. Results showed that the distribution density of plant was distinguished between the investigated areas. A low average density of plants was observed at Da Nang with 5,07 single plant/m2 and 15,26 stolon/m2, and the plants grown in clusters in places having a wide sandy beaches and less affected by high tides. Meanwhile, the density of plants in Quang Nam was 1,5-2 folds higher that of Da Nang, with 7,39 single plant/m2 and 23,98 stolon/m2, and the plant grown with other plant species. In addition, distance between the plant and tide level was not significantly changed between the investiaged areas. Keywords: Coastal sandy areas, distribution status, Launaea sarmentosa, Medicinal plant. 1 Universityof Science and Education - The University of Danang *Email: tqdan@ued.udn.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2