TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Số 6 (9/2016) tr 160 - 166<br />
<br />
HIỆU LỰC CỦA MỘT SỐ LOẠI CHẾ PHẨM SINH HỌC PHÒNG TRỪ<br />
RỆP ĐÀO (Myzus persicae Sulzer) TRÊN CÂY BẮP CẢI<br />
<br />
Hoàng Văn Thảnh<br />
Trường Đại học Tây Bắc<br />
<br />
Tóm tắt: Rệp đào (Myzus percicae Sulzer) là loài dịch hại có tính đa thực, gây hại nhiều trên các cây<br />
trồng trong đó có cây bắp cải. Trong điều kiện thí nghiệm, ba loại chế phẩm sinh học Gottsu-A (Paecilomyce<br />
tenuipes), BotaniGard (Beauveria bassiana) và Mycotal (Verticillium lecanii) đều có tác dụng phòng trừ Rệp<br />
đào. Ở điều kiện ẩm độ thấp sau khi phun, các chế phẩm sinh học có hiệu lực trừ rệp không cao: chỉ đạt từ 6,7 -<br />
13,0% sau 7 ngày xử lý ở trong điều kiện nhà kính và 20 % - 53% sau 20 ngày sau phun ở điều kiện phòng thí<br />
nghiệm; Hiệu lực của các chế phẩm này thấp hơn so với thuốc hóa học Actellic 50EC. Trong điều kiện ẩm độ<br />
cao, hiệu lực trừ rệp của ba loại chế phẩm đạt từ 78,2 - 95,9 % sau 15 ngày xử lý và không có sự khác nhau với<br />
thuốc Actellic 50EC.<br />
Từ khóa: rệp, Rệp đào, cây bắp cải, chế phẩm sinh học.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Rệp đào (Myzus percicae Sulzer ) là loài sâu hại chính trên trên nhiều loại cây trồng:<br />
cây đào, mơ mận, cây bắp cải, su hào, cải củ và nhiều loại cây trồng khác. Thời gian vòng đời<br />
của Rệp đào phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường. Thời gian hình thành một thế hệ của Rệp đào<br />
từ 10 - 12 ngày. Trong điều kiện thời tiết bình thường, một năm Rệp đào có 20 lứa (Horsfall<br />
JL, 1924). Rệp non tuổi một ban đầu có màu xanh lục sau đó chuyển sang màu vàng nhạt và<br />
rệp sinh sản đơn tính đẻ ra rệp non. Rệp có 4 tuổi với thời gian trung bình mỗi tuổi tương ứng<br />
là 2,0; 2,1; 2,3; và 2,0 ngày. Con cái đẻ con sau khi sinh từ 6 đến 17 ngày, thời gian trung bình<br />
là 10,8 ngày [2] Hiện nay có rất nhiều loại thuốc hóa học bảo vệ thực vật được sử dụng phòng<br />
trừ Rệp đào. Tuy nhiên, Rệp đào rất dễ chống thuốc [2].<br />
Trong tự nhiên, có hàng trăm loài thiên địch của Rệp đào đã được phát hiện như bọ rùa<br />
(bộ Coleoptera: họ Coccinellidae), ruồi ăn rệp (bộ Diptera: họ Syrphidae), ong ký sinh (bộ<br />
Hymenoptera: họ Braconidae) và nấm ký sinh. Sử dụng thiên địch trong phòng trừ sâu hại nói<br />
chung và Rệp đào nói riêng trên nhiều loại cây trồng đang được nghiên cứu và áp dụng ở<br />
nhiều quốc gia trên thế giới.<br />
Có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về sử dụng nấm gây bệnh côn trùng trong phòng trừ<br />
rệp, các nghiên cứu đã cho thấy có thể sử dụng nhiều loài nấm như là tác nhân sinh học để<br />
quản lý đối tượng thuộc họ rệp muội (Aphids) trên nhiều loại cây trồng [3]. Khi sử dụng chế<br />
phẩm sinh học có nguồn gốc nấm Beauveria bassiana ký sinh trên côn trùng có hiệu lực<br />
phòng trừ nhện nhỏ Tetranychus urticae và Rệp đào Myzus persicae trung bình 83% so với<br />
đối chứng [1]. Khi sử dụng chế phẩm Gottsu-A (có nguồn gốc nấm Paecilomyce tenuipes) và<br />
chế phẩm Mycotal ( có nguồn gốc nấm Verticillium lecanii) phòng trừ rệp Aphis<br />
<br />
Ngày nhận bài: 23/5/2016. Ngày nhận đăng: 25/9/2016<br />
Liên lạc: Hoàng Văn Thảnh, e - mail hoangthanhtbu@gmail.com<br />
<br />
160<br />
gossypii, rệp Myzus persicae và Macrosiphum euphorbiae có hiệu lực cao. Độ hữu hiệu đối<br />
với Rệp đào của chế phẩm Gottsu-A đạt 58% và Mycotal là 90%. Nghiên cứu cho thấy, nhiệt<br />
độ thích hợp để cho chế phẩm sinh học Gottsu-A phát huy hiệu lực là 15°C tới 28°C, hiệu lực<br />
trừ sâu của chế phẩm tăng khi ẩm độ không khí cao và hiệu lực đạt cao nhất khi ở trong điều<br />
kiện ẩm độ bão [4]. Nhiều thử nghiệm chỉ ra rằng, hiệu lực của Gottsu-A đạt cao đòi hỏi duy<br />
trì điều kiện ẩm độ không khí cao trong vòng 8 giờ sau khi phun [3]. Hiệu lực của chế phẩm<br />
chứa Verticillium lecanii đối với Rệp đào ở ba nồng độ bào tử khác nhau (107, 105, and 104,<br />
bào tử/ml), ở nồng độ 104 hiệu lực thấp hơn so với 105 và 107 bào tử/ml (Mahabbat Khan,<br />
1990). Tuy nhiên ở Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh học phòng trừ<br />
sâu hại được triển khai trên đối tượng sâu thuộc bộ cánh vảy (Lepidoptera) và bộ cánh cứng<br />
(Coleoptera), có rất ít kết quả nghiên cứu việc sử dụng nấm gây hại côn trùng để phòng trừ<br />
Rệp đào trên cây bắp cải và các cây trồng khác.<br />
Nghiên cứu này được triển khai nhằm đánh giá hiệu lực của các chế phẩm có nguồn gốc<br />
từ các nấm B. bassiana, P. tenuipes và V. lecanii trừ Rệp đào. Kết quả nghiên cứu góp phần<br />
giúp người sản xuất nhận thấy ưu điểm của việc sử dụng chế phẩm sinh học phòng trừ Rệp<br />
đào trong canh tác rau và cây trồng khác.<br />
2. Nội dung<br />
2.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu<br />
- Địa điểm: Phòng thí nghiệm, Trung tâm Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản Thành phố<br />
Tsukuba (JICA-Tsukuba), Nhật Bản.<br />
- Thời gian: Tháng 3 - 11/2014.<br />
2.2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu<br />
2.2.1. Vật liệu<br />
Nghiên cứu được thực hiện với 3 loại chế phẩm sinh học khác nhau và một loại thuốc<br />
hóa học: Chế phẩm Gottsu-A (Paecilomyce tenuipes) là sản phẩm của Công ty hóa chất<br />
Sumitomo tại Nhật Bản, với nồng độ là 5,0 x 108 bào tử/ml, nồng độ 0,2%. Chế phẩm<br />
BotaniGard (Beauveria bassiana) là sản phẩm của Công ty Arysta Life Science Nhật Bản với<br />
6 x 1010 bào tử/ml, nồng độ sử dụng 1%; Mycotal (Verticillium lecanii) lượng bào tử 3,0 x 109<br />
bào tử/g, nồng độ phun 0,1 %; Thuốc hóa học Actellic 50EC (hoạt chất Pirimiphos-methyl)<br />
của công ty Syngenta, nồng độ sử dụng 0,2%<br />
Giống bắp cải Hyb.Teruyoshi được sử dụng cho thí nghiệm. Hộp nhựa kích thước<br />
đường kính 10 cm, sâu 15 cm dùng trồng bắp cải để nuôi sâu trong tủ sinh trưởng. Lồng<br />
trồng cây bắp cải có kích thước 24 x 30 x 37cm được phủ lưới xung quanh để nuôi Rệp đào<br />
trong nhà kính.<br />
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu<br />
Thí nghiệm được thực hiện với 4 công thức: Gottsu-A (Got-A), BotaniGard (Bot-G),<br />
Actellic 50EC (Chem), phun nước lã làm đối chứng (Control), 3 lần nhắc lại. Rệp đào được<br />
bắt ngoài đồng ruộng và thả trong lồng nuôi sâu có trồng bắp cải là nguồn rệp phục vụ cho thí<br />
nghiệm. Thả 15 rệp trưởng thành, khỏe mạnh trên một cây bắp cải trong lồng nuôi sâu, sau đó<br />
161<br />
1 ngày tiến hành loại bỏ toàn bộ rệp trưởng thành để được rệp tuổi một. Sử dụng 10 rệp tuổi<br />
1/cây bắp cải có số lá bằng nhau (giai đoạn 5 - 7 lá), 3 cây bắp cải/lần nhắc lại, 30 rệp tuổi<br />
1/công thức. Cây bắp cải được phun ướt đều bằng chế phẩm sinh học hoặc thuốc hóa học, đối<br />
chứng phun ướt bằng nước lã. Rệp được theo dõi hàng ngày ở các công thức thí nghiệm.<br />
a) Thí nghiệm 1<br />
Thí nghiệm được tiến hành sử dụng chế phẩm sinh học trừ rệp đào ở trong điều kiện nhà<br />
kính. Rệp được nuôi vào ngày 8/6/2014, phun thuốc sau đó 1 ngày, điều kiện nhiệt độ 28oC.<br />
Đánh giá hiệu lực thuốc ở 7 và 10 ngày sau phun, sử dụng công thức Abbott tính hiệu lực<br />
thuốc:<br />
<br />
<br />
<br />
* Ghi chú: Ca = Số rệp còn sống ở công thức đối chứng sau phun;<br />
Ta = Số rệp còn sống ở công thức sử dụng thuốc sau khi.<br />
Số liệu hiệu lực thuốc (%) được chuyển sang cung Arcsin trước khi phân tích thống kê.<br />
b) Thí nghiệm 2<br />
Được thực hiện trong điều kiện tủ sinh trưởng để nuôi rệp, rệp nuôi ngày 19/6/2014,<br />
nhiệt độ 22oC, ẩm độ 65% (không duy trì ẩm độ cao), điều kiện chiếu sáng 9 giờ/ngày đêm,<br />
phun thuốc vào ngày 20/6/2014. Hiệu lực thuốc được đánh giá sau phun 15 và 20 ngày bằng<br />
công thức Abbott.<br />
c) Thí nghiệm 3: phun kép 2 lần, lần một cách lần hai 7 ngày; duy trì độ ẩm trên 80% trong 48<br />
giờ bằng cách đậy nắp petri; bắt đầu phun lần một trên rệp 1 ngày tuổi; thời gian thí nghiệm<br />
30/7/2014.<br />
d)Thí nghiệm 4: phun kép 2 lần, lần một cách lần hai 7 ngày; duy trì độ ẩm trên 80% trong 24<br />
giờ bằng cách đậy nắp petri; bắt đầu phun lần một trên rệp 1 ngày tuổi; thời gian thí nghiệm<br />
23/9/2014.<br />
Hiệu lực thuốc được đánh giá sau khi xử lý thuốc 15 và 20 ngày bằng công thức Abbott.<br />
2.3. Kết quả và thảo luận<br />
2.3.1. Thí nghiệm 1: Hiệu lực trừ Rệp đào của chế phẩm sinh học trong điều kiện<br />
nhà kính.<br />
Hiệu lực của chế phẩm sinh học và thuốc hóa học có sự khác nhau thống kê ở độ tin<br />
cậy 95%. Hiệu lực thuốc hóa học đạt 100%, chế phẩm sinh học đạt từ 6,7 - 13,0% sau 7<br />
ngày xử lý.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
162<br />
Bảng 1. Hiệu lực trừ Rệp đào của chế<br />
phẩm sinh học trong điều kiện nhà kính<br />
Hiệu lực (%)<br />
Công thức<br />
7 DAS 10 DAS<br />
Got-A 6,67 b 6,67 b<br />
Bot-G 13,33 b 13,33 b<br />
Myc 10,0 b 10,0 b<br />
Chem 100 a 100 a<br />
LSD (5%) 15,04 15,05<br />
* Ghi chú: + DAS - ngày sau phun; Hình<br />
+ Số liệu hiệu lực thuốc (%) đã được chuyển 1: Hiệu lực trừ Rệp đào của chế phẩm<br />
sang Arcsin trước khi phân tích thống kê; sinh học<br />
+ Các chữ cái cùng một cột giống nhau thì số<br />
liệu không khác nhau ở độ tin cậy 95%<br />
Hiệu lực trừ rệp của ba loại chế phẩm không có sự khác nhau ở cả 7 và 10 ngày sau khi<br />
xử lý. Trong điều kiện thí nghiệm, tác dụng trừ Rệp đào của cả loại chế phẩm đều thấp. Nấm<br />
gây bệnh cho côn trùng cần điều kiện ẩm độ cao và nhiệt độ thích hợp để nấm xâm nhập, tạo<br />
mối quan hệ ký sinh và gây độc đối với côn trùng [3]. Có thể do điều kiện thí nghiệm chưa<br />
thuận lợi để nấm xâm nhập gây bệnh nên hiệu lực chế phẩm đạt thấp, đây là vấn đề đặt ra để<br />
các nghiêu cứu về điều kiện sử dụng chế phẩm sinh học có nguồn gốc từ nấm gây bệnh côn<br />
trùng trong công tác bảo vệ thực vật.<br />
2.3.2. Thử nghiệm chế phẩm sinh học trừ Rệp đào trong tủ sinh trưởng ở điều kiện<br />
phòng thí nghiệm.<br />
a) Thí nghiệm 2: Đánh giá hiệu lực trừ Rệp đào của chế phẩm sinh học trong điều kiện ẩm độ<br />
thấp<br />
Thí nghiệm duy trì ẩm độ 65% và nhiệt độ 220C trong tủ sinh trưởng nuôi rệp. Kết quả<br />
thí nghiệm cho thấy hiệu lực thuốc hóa học Actellic 50EC đạt 100% tại 15 ngày sau khi xử lý<br />
và cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các chế phẩm sinh học.<br />
<br />
Bảng 2. Hiệu lực chế phẩm sinh<br />
học trừ Rệp đào trong phòng thí<br />
nghiệm<br />
Công Hiệu lực (%)<br />
thức 15DAS 20DAS<br />
b b<br />
Got-A 43,3 46,7<br />
Bot-G 20,0 c 20,0 c<br />
Myc 16,7 c 53,3 b<br />
Chem 100 a 100 a<br />
LSD (5%) 13,73 17.93<br />
<br />
<br />
Hình 2: Hiệu lực trừ Rệp đào của chế phẩm sinh<br />
học điều kiện ẩm độ thấp<br />
<br />
Hiệu lực của các chế phẩm sinh học đều tăng ở 15 và 20 ngày sau phun. Sau phun 20<br />
163<br />
ngày, hiệu lực của chế phẩm Mycotal cao nhất đạt 53% , sau đó đến chế phẩm Gottsu-A đạt<br />
46,7% và thấp nhất là chế phẩm BotaniGard đạt 20%. Nhìn chung ở điều kiện thí nghiệm ẩm<br />
độ 65% và nhiệt độ 220C trong tủ sinh trưởng nuôi rệp, hiệu lực trừ rệp của ba loại chế phẩm<br />
đều đạt thấp.<br />
b) Thí nghiệm 3. Hiệu lực trừ Rệp đào của chế phẩm sinh học với hai lần phun kế tiếp và duy<br />
trì ẩm độ >80% trong vòng 48 giờ.<br />
Trong điều kiện ẩm độ cao, độ hữu hiệu trừ rệp của thuốc Actellic 50EC so với các chế<br />
phẩm sinh học không khác nhau có ý nghĩa thống kê. Hiệu lực của thuốc Actellic 50EC đạt<br />
100%, trong khi đó hiệu lực của ba chế phẩm sinh học đạt từ 78% - 100% sau 15 ngày xử lý.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bảng 3. Hiệu lực trừ Rệp đào của chế<br />
phẩm sinh học ở điều kiện ẩm độ cao<br />
trong phòng thí nghiệm<br />
Hiệu lực (%)<br />
Công thức<br />
15DAS 20DAS<br />
a a<br />
Got-A 95,9 91,5<br />
Bot-G 78,2 a 82,7 a<br />
Myc 100 a 100 a<br />
Chem 100 a 100 a<br />
LSD (5%) 20,67 18,76<br />
<br />
<br />
Hình 3. Hiệu lực trừ Rệp đào chế phẩm sinh học<br />
trong điều kiện ẩm độ >80%<br />
<br />
Trong điều kiện ẩm độ cao, cả ba loại chế phẩm sinh học thử nghiệm đều có hiệu lực<br />
cao trừ Rệp đào. Qua kết quả thử nghiệm cho thấy, khi sử dụng chế phẩm sinh học trừ sâu hại<br />
cần điều kiện ẩm độ cao sau khi phun để giúp nâng cao hiệu lực trừ sâu của các vi sinh vật.<br />
c) Thí nghiệm 4: Hiệu lực trừ Rệp đào của chế phẩm sinh học trong điều kiện phun kép hai<br />
lần và duy trì ẩm độ >80% trong vòng 24 giờ.<br />
Kết quả thử nghiệm ở bảng 4 cho thấy, hiệu lực của thuốc Actellic 50EC cao nhất, đạt<br />
100% sau phun 15 ngày và 20 ngày. Tuy nhiên khi so sánh thống kê, hiệu lực của chế phẩm<br />
Bot-G tương đương với thuốc Actellic 50EC. Nếu so sánh 3 loại chế phẩm sinh học thấy rằng<br />
hiệu lực của cả 3 chế phẩm sinh học đều đạt rất cao, không có sự khác nhau giữa các loại chế<br />
phẩm và với thuốc hóa học.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
164<br />
Bảng 4. Hiệu lực trừ Rệp đào của chế phẩm<br />
sinh học trong điều kiện ẩm độ cao<br />
Hiệu lực (%)<br />
Công thức<br />
15DAS 20DAS<br />
Got-A 92,43 a 82,55 a<br />
Bot-G 95,35 a 89,99 a<br />
Myc 89,05 a 83,56 a<br />
Chem 100 a 100 a<br />
LSD (5%) 20.42 27.62<br />
<br />
<br />
Hình 4. Hiệu lực trừ rệp của chế phẩm<br />
sinh học trong điều kiện phun kép 2 lần<br />
và ẩm độ cao<br />
Môi trường ẩm độ cao giúp cho hoạt động nấm gây hại côn trùng. Điều kiện ẩm độ tối<br />
ưu và phun kép chế phẩm sinh học thử nghiệm tiến hành đã tạo điều kiện bào tử nấm nảy<br />
mầm và xâm nhiễm gây chết cho Rệp đào. Khi Rệp đào chết bởi nấm gây bệnh, phát hiện các<br />
sợi nấm màu trắng phát triển trên cơ thể rệp và quan sát được bào tử nấm dưới kính hiển vi. Ở<br />
ngoài đồng ruộng các bào tử này sẽ là nguồn bệnh tiếp tục phát tán, xâm nhiễm gây bệnh cho<br />
côn trùng [1].<br />
3. Kết luận.<br />
Các chế phẩm sinh học Gottsu-A (Paecilomyce tenuipes), BotaniGard (Beauveria<br />
bassiana) và Mycotal (Verticillium lecanii) có tác dụng phòng trừ Rệp đào. Trong điều kiện<br />
ẩm độ cao duy trì trong thời gian 48 giờ, hiệu lực trừ rệp của ba loại chế phẩm sinh học đem<br />
thử nghiệm đều cao sau 15 ngày xử lý và tương đương với thuốc Actellic 50EC.<br />
Duy trì ẩm độ >80% sau khi xử lý và phun kép chế phẩm sinh học là điều kiện thuận lợi<br />
để các chế phẩm sinh học phát huy tốt hiệu lực phòng trừ Rệp đào.<br />
Có thể sử dụng chế phẩm có nguồn gốc nấm Paecilomyce tenuipes, Beauveria bassiana<br />
và Verticillium lecanii phòng trừ Rệp đào trong canh tác rau họ hoa thập tự và trên một số cây<br />
trồng khác.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] Geral Brust 2007, Using Beauveria bassiana in high tunnel pest management, IPM<br />
Vegetable Specialist.<br />
[2] Horsfall JL 1924, Life history studies of Myzus persicae Sulzer. Pennsylvania Agric,<br />
Agricultural Experiment Station Bulletin.<br />
[3] Mahabbat Khan 1990, Biological control of Aphid with a Entomopathogenic fungus,<br />
Pakistan J.Agric.Res.Vol.11.No.3<br />
[4] Takeshi MARUYAMA 2009, Development of a Novel Microbial Insecticide:<br />
Gottsu-A. Sumitomo Chemical Co., Ltd.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
165<br />
THE EFFECTIVENESS OF SOME BIO-PESTICIDES IN<br />
CONTROLLING GREEN PEACH APHIDS (Myzus persicae Sulzer) ON<br />
CABBAGE<br />
<br />
Hoang Van Thanh<br />
Tay Bac University<br />
<br />
Abstract: Green peach aphids are major insect pest on cabbage, radish, spinach, etc in Viet Nam. In<br />
experiment condition, Gottsu-A (Paecilomyce tenuipes), BotaniGard (Beauveria bassiana) ad Mycotal<br />
(Verticillium lecanii) were insecticidal activity on Green peach aphids. In low humidity condition,the<br />
effectiveness sof the bio-pesticides go up from 6.7 - 13.0% after 7 days treatment in green house and 20 -<br />
53% after 20 days spraying in growth chamber, lower than thoese of Actellic 50EC. In high humidity<br />
condition, mortality of Green peach aphids was high at 15 days after treatment (78.2 - 95.9 %) and there<br />
was no significant difference between Actellic 50EC and three kinds of bio-pesticids. Maitenance humidity<br />
of more than 80% just after treatment and two times spraying is suitable for the bio-pesticides on control<br />
aphids.<br />
Keywords: Aphids, green peach aphids, cabbage, bio-pesticides.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
166<br />