TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br />
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br />
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)<br />
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
HOẠT ĐỘNG NGHĨA THỤC Ở BẮC TRUNG KỲ (VIỆT NAM)<br />
ĐẦU THẾ KỶ XX<br />
“Free school” activities in the North Central Region of Vietnam<br />
at the beginning of the twentieth century<br />
<br />
Dương Thị Kim Oanh<br />
Trường THCS Thiệu Khánh, Thanh Hóa<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Đầu thế kỷ XX, phong trào chống xâm lược Pháp ở Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt, trong đó<br />
phong trào Nghĩa thục là một cuộc vận động văn hóa, chính trị, tư tưởng quan trọng với những hoạt<br />
động phong phú, sáng tạo, có sức lan tỏa nhanh chóng và sâu rộng. Bắc Trung Kỳ là vùng có hoạt động<br />
Nghĩa thục phát triển, có liên kết chặt chẽ với phong trào Duy Tân và Đông Du. Tuy nhiên, các nghiên<br />
cứu trước đây chưa mô phỏng và phân tích chi tiết hoạt động Nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ với các phong<br />
trào cùng thời kỳ. Bài viết sẽ tổng hợp nguồn tư liệu lưu trữ và phục dựng lại hoạt động Nghĩa thục ở<br />
Bắc Trung Kỳ trên các bình diện: hoạt động của các trường học với thành phần tham gia, chương trình<br />
học tập, nguồn kinh phí, mối liên kết giữa hoạt động Nghĩa thục với các phong trào đang diễn ra ở đầu<br />
thế kỷ XX. Từ đó, khẳng định vai trò, đóng góp của nhân dân Bắc Trung Kỳ với phong trào đấu tranh<br />
của dân tộc Việt Nam.<br />
Từ khóa: Bắc Trung Kỳ, cách mạng dân tộc, phong trào cách mạng, nghĩa thục<br />
Abstract<br />
In the early twentieth century, the movements against French aggression took place strongly and<br />
drastically in Vietnam. Among those, the “nghia thuc” (literally meaning “free school”) movement was<br />
a cultural, political, and ideological movement which spread quickly and extensively. The North Central<br />
region of Vietnam was one of the regions where “nghia thuc” activities strongly developed in close<br />
connection with Duy Tan and Dong Du movements. In fact, the previous studies have not described and<br />
analyzed in depth the “nghia thuc” activities as well as those movements in the same period. This<br />
article, based on archives, aims to describe “nghia thuc” activities in the North Central region of<br />
Vietnam in the following perspectives: school activities and its participants, school curriculum, the link<br />
between “nghia thuc” activities and the other movements in the early twentieth century. It might be<br />
concluded that the North Central region’s contribution to the Vietnamese revolution should be<br />
acknowleged.<br />
Keywords: the North Central region of Vietnam, national revolution, revolutionary movement, nghia<br />
thuc (free school)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Email: thanhhai78dhv@gmail.com<br />
<br />
145<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề nét nổi bật nhất về hoạt động của các<br />
Bắc Trung Kỳ (North – Annam), theo trường học do văn thân, sĩ phu yêu nước<br />
cách gọi của người Pháp gồm ba tỉnh đầu thế kỷ XX ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ<br />
Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Đây là An, Hà Tĩnh lập nên như thành phần tham<br />
vùng đất có nhiều nét tương đồng về địa lý gia, kinh phí hoạt động.v.v. Làm rõ mối<br />
tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội, chiếm liên kết giữa hoạt động Nghĩa thục với Duy<br />
giữ một vị trí quan trọng trong khu vực Tân Hội, Phong trào Đông Du và Phong<br />
Trung Kỳ, là căn cứ tốt nhất, mạnh nhất và trào Duy Tân trên địa bàn Bắc Trung Kỳ.<br />
hiệu quả nhất trong các cuộc đấu tranh của 2. Từ Đông Kinh Nghĩa thục đến<br />
cả nước. phong trào nghĩa thục ở Việt Nam<br />
Đầu thế kỷ XX, cuộc vận động chống Sau khi cơ bản hoàn tất quá trình chinh<br />
Pháp diễn ra với nhiều xu hướng khác phục và bình định Việt Nam, chính quyền<br />
nhau, tiêu biểu là xu hướng cứu nước của thực dân Pháp nhanh chóng bắt tay vào<br />
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Phong khai thác thuộc địa nhằm bòn rút của cải,<br />
trào Đông Du, Duy tân và Đông Kinh làm giàu cho chính quốc. Dưới tác động<br />
Nghĩa thục diễn ra sôi nổi mạnh mẽ, lôi của Chương trình khai thác bóc lột thuộc<br />
cuốn đông đảo thành phần tham gia. Trong địa lần thứ nhất (1897-1914) của tư bản<br />
đó, hoạt động Nghĩa thục lan tỏa khắp các Pháp, Việt Nam đã có biến đổi rõ rệt về cả<br />
tỉnh vùng châu thổ sông Hồng như Hà hai mặt cấu trúc kinh tế và phân hóa xã hội.<br />
Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Trong quá trình phân hóa xã hội ở Việt<br />
Dương sang Thái Bình, Nam Định, mở Nam đầu thế kỷ XX, nhiều thành phần giai<br />
rộng xuống vùng Trung Kỳ. Sự lan tỏa của cấp, tầng lớp mới hình thành, song đứng ra<br />
phong trào Nghĩa thục đã đánh dấu tư duy tiếp thu trào lưu tư tưởng mới – tư tưởng<br />
cứu nước của các nhà yêu nước Việt Nam, dân chủ tư sản từ ngoài đưa vào thông qua<br />
đồng thời mở đầu cho một thời kỳ mới Tân thư, Tân văn từ Trung Quốc và Nhật<br />
trong lịch sử đấu tranh chống Pháp của Bản – lại là những văn thân, sĩ phu yêu<br />
nhân dân ta. nước có xu hướng tiến bộ. Phan Bội Châu,<br />
Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà Sử Phan Châu Trinh là người đề xướng và đại<br />
học đã dành nhiều thời gian, tâm huyết diện cho khuynh hướng cứu nước dân chủ<br />
nghiên cứu về Đông Kinh Nghĩa thục và tư sản ở Việt Nam. Hai ông và nhiều văn<br />
các hoạt động Nghĩa thục ở Bắc Kỳ, Trung thân sĩ phu yêu nước đã nhận thức con<br />
Kỳ bởi nó mang tư tưởng hiện đại của nội đường cứu nước mới là thực hiện khai hóa<br />
dung học tập và hơi thở của thời đại mới. dân trí, nâng cao dân khí và làm cho dân<br />
Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng trống giàu, nước mạnh, tiến tới tự lập, tự cường.<br />
trong nghiên cứu hoạt động Nghĩa thục tại Từ tấm gương thành công của Nhật Bản<br />
các địa phương như mối liên hệ, tính vùng trên con đường cải cách đất nước ở cuối<br />
miền.v.v. Trên cơ sở tiếp cận nguồn tài liệu thế XIX, đầu thế kỷ XX đã mở ra trong đầu<br />
lưu trữ của chính quyền Pháp, kế thừa óc các sĩ phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam<br />
những công trình nghiên cứu về phong trào một thế giới mới lạ, đầy sức hấp dẫn và<br />
duy tân cải cách, về hoạt động Nghĩa thuyết phục. Chính vì vậy, Phan Bội Châu,<br />
thục… bài viết cố gắng khái quát những Phan Châu Trinh đã tìm đường sang Nhật,<br />
<br />
<br />
146<br />
DƯƠNG THỊ KIM OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
chứng kiến tận mắt bài học Âu hóa mà với hoàn cảnh đất nước lúc đó, vì thế mà<br />
đông đảo các chí sĩ khác của châu Á đã đến trong một thời gian ngắn, sau hơn một<br />
đây để suy ngẫm về bài học duy tân của tháng khai trường Đông Kinh Nghĩa Thục<br />
Nhật Bản. đã thu hút được gần 400 người theo học<br />
Sau khi về nước, hai nhà chí sĩ yêu (Phan Bội Châu, 1990, tr. 41).<br />
nước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh Nội dung và phương pháp dạy học của<br />
đã gặp gỡ lớp nho sĩ yêu nước thức thời ở Đông Kinh Nghĩa Thục với các môn học<br />
Hà Thành như: Lương Văn Can, Nghiêm sử, địa, toán pháp, luân lý cùng các môn tự<br />
Xuân Quảng, Nguyễn Quyền cùng với nhiên, học sinh tiếp cận một nền học thuật<br />
những trí thức tân học như Nguyễn Văn mới qua các sách giáo khoa nhà trường<br />
Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Trần Hữu Đức, Phan biên soạn như Nam quốc vĩ nhân, Luân lý<br />
Huy Thịnh họp bàn về mô hình Khánh giáo khoa thư, Quốc dân độc bản… cùng<br />
Ứng Nghĩa Thục (Keio – Gijuku) - Trường nhiều bài học được soạn bằng chữ Nôm và<br />
học đào tạo nhân tài, xây dựng đất nước do chữ Quốc ngữ theo vần thơ lục bát để học<br />
Phúc Trạch Dụ Cát sáng lập (Fukugawa sinh dễ nhớ. Vì vậy, sức lan tỏa của trường<br />
Yukuchi, 1835-1901) năm 1858. Những rộng lớn, số lượng học sinh có lúc lên tới<br />
con người thuộc hai thế hệ đang trăn trở 1.000 người, chia làm 8 lớp, có cấp tiểu<br />
trước vận mệnh của đất nước đã hợp sức học và trung học (Chương Thâu, 2007).<br />
lại, lập ra Đông Kinh Nghĩa thục (Trường Mô hình giáo dục của Đông Kinh<br />
tư thục dạy học vì nghĩa mở tại Đông Kinh Nghĩa Thục lấy chữ Quốc ngữ làm phương<br />
(tên thành Thăng Long đời nhà Hồ) vào tiện giảng dạy chủ yếu, coi trọng thực học,<br />
tháng 3 - 1907. Khởi đầu, trường đặt tại học đi đôi với hành, kết hợp việc giảng dạy<br />
ngôi nhà số 4, phố hàng Đào, nhà ở của gia trên lớp với sinh hoạt ngoài lớp (diễn<br />
đình cụ Lương Văn Can, sau phát triển thuyết, bình văn…) là sự kế thừa truyền<br />
sang nhà số 10 cùng phố. Trên Đăng Cổ thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận những<br />
tùng báo, số 797 ra ngày 27/4/1907, ở mục giá trị văn hóa phương Tây du nhập vào<br />
tín văn Hà Nội có đưa thông tin quan trọng nước ta khi nền Nho học đang trên bước<br />
về Đông Kinh Nghĩa Thục, cụ thể: đường suy tàn. Vì vậy, phong trào đã tạo ra<br />
- Trường lập theo Nghị định cải cách sức hút mạnh mẽ, một phản ứng dây<br />
giáo dục ở Bắc Kỳ ra ngày 16/1/1906; chuyền tích cực trong xã hội đương thời.<br />
- Trường được phân thành nhiều lớp Khi mới thành lập Đông Kinh Nghĩa thục,<br />
tùy theo lứa tuổi (người lớn, trẻ con) tùy Giám học Nguyễn Quyền đã nói: "Chúng<br />
theo giới (con trai, con gái), tùy theo trình tôi lập Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội là<br />
độ (lớp dành cho những nho sĩ học chữ cốt thử nghiệm. Nếu thấy thành hiệu thì<br />
Pháp, lớp dành cho những người biết chữ trong ít lâu, ở mỗi Kỳ, Trung, Nam, Bắc sẽ<br />
Pháp thì học chữ nho, các em nhỏ chưa biết có một Đại học đường như thế, rồi tính lần<br />
chữ nho, chữ Pháp thì học chữ Quốc ngữ); lần về sau, mỗi tỉnh, mỗi phủ, huyện cũng<br />
- Thời gian học cả ngày và đêm; người có Đông Kinh Nghĩa Thục nữa" (Nguyễn<br />
dạy không có lương, người học không mất Hiến Lê, 1966, tr. 22). Đúng như lời của<br />
tiền, trường làm việc nghĩa; Giám học Nguyễn Quyền nói, chỉ trong<br />
- Một mô hình trường học thích hợp thời gian ngắn, sức lan tỏa rộng lớn, nhanh<br />
<br />
<br />
147<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)<br />
<br />
<br />
chóng của hoạt động Nghĩa thục diễn ra tuổi, đã lập được ba phân hiệu Nghĩa thục<br />
khắp các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Ban ở thôn Canh, Tân Mỗ (Hoài Đức), ở Tân<br />
đầu, tư tưởng khai dân trí của Phan Châu Hội, (Đan Phượng). Ở Bắc Ninh, một số<br />
Trinh từ địa bàn trung tâm Bắc Kỳ là Đông lớp học theo kiểu Đông Kinh Nghĩa thục<br />
Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội lan vào các cũng được mở ra, trong số đó, tại làng<br />
trường học ở Quảng Nam vùng Trung Kỳ. Đình Xuyên, việc tổ chức quy củ và số<br />
Trên Đăng Cổ Tùng Báo số 82, ra lượng đông đảo con em tham gia học. Ở<br />
ngày 3-10-1907 đã mô tả lại: từ trung tâm Hưng Yên, xuất hiện Nghĩa thục ở các<br />
Hà Nội, làng Hoàng Mai, huyện Hoàn huyện Văn Giang, Yên Mỹ. Ở Hải Dương,<br />
Long, những văn thân hào mục trong làng nhiều nhà nho tiến bộ đứng lên tuyên<br />
đã họp nhau lại quyên góp tiền bạc, lập truyền cổ động cho công cuộc duy tân, mở<br />
trường có tên là Mai Lâm Nghĩa Thục và trường dạy học theo lối mới, lập hiệu buôn<br />
được Thống sứ Bắc Kỳ phê duyệt điều lệ (Hiệu buôn Hưng Lợi Tế của Tùng<br />
của nhà trường vào ngày 10-8-1907 (Phạm Hương), hội đọc sách báo, bình thơ văn<br />
Xanh, 2007, tr. 41). Buổi ra mắt ngôi (làng Tạ Xá, Hương Yên).v.v.<br />
trường có sự hiện diện của Bouzat, đại diện Quảng Nam – quê hương của những<br />
Phủ Thống sứ Bắc Kỳ và Đỗ Thận, nghị nhà duy tân như Phan Châu Trinh, Trần<br />
viên hạt Hoàn Long. Trong bài diễn văn Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đã nhanh<br />
thành lập trường, Đăng Cổ Tùng Báo, số chóng mở trường học bởi đó là mục tiêu<br />
820, ra ngày 3-10-1907 cho biết những khai dân trí của các ông. Vì thế, Quảng<br />
người đứng đầu đã nói rõ mục đích của Nam trở thành trung tâm Nghĩa thục sau<br />
việc lập ra Mai Lâm Nghĩa thục là: “Hội Hà Nội, có ảnh hưởng và lan tỏa rộng lớn<br />
này lập ra là chú ý để dạy dỗ các con em ra toàn vùng Nam Trung Kỳ. Theo thống<br />
trong làng, cứ theo như tân nghị về việc kê thì tại Quảng Nam thành lập được 40<br />
học mà nhà nước đã định, trước là cho trường học kiểu mới (Tạ thị Thúy, 2017,<br />
được phổ thông chữ Quốc ngữ, chữ Nho, tr. 318). Nội dung, chương trình học tập<br />
chữ Pháp, sau là cho được học tập lấy kỹ hướng theo Đông Kinh Nghĩa thục, trong<br />
nghệ, toán pháp, địa dư và hóa học bên đó tất cả các môn học đều được học bằng<br />
Thái tây. Bởi trong hạ Bắc Kỳ ta nhiều xã chữ Quốc ngữ. Báo cáo tình hình chính trị<br />
khai trường học theo tân thức rồi, mà làng ở Trung Kỳ năm 1908 của Pháp có ghi lại<br />
nào chưa có trường thì cũng lục đục đặt như sau: “Hoạt động của các hội viên<br />
hương sư cả, cho nên mấy anh em chúng trong hội kín ở Quảng Nam diễn ra chủ<br />
tôi trộm nghĩ rằng làng mình ở tiếp giáp yếu ở phủ Thăng Bình và phủ Tam Kỳ, các<br />
thành phố Hà Nội, là kinh đô Bắc Kỳ và thành viên trong hội tham gia vào các<br />
kinh đô của Đông Dương, mà không lo trường học trong làng. Họ định hướng việc<br />
nghĩ vào việc học hành cho được văn minh học tập, họ đưa cho những học viên trẻ<br />
ra, thì sợ ngày sau phải đớn hèn không những quyển sách có dụng ý ca ngợi lòng<br />
được bằng anh em ở các xã khác” (Phạm yêu nước, căm thù quân xâm lược, coi<br />
Xanh, 2007, tr. 42). thường cái chết. Ai cũng phải sẵn sàng hi<br />
Ở Hà Đông, quê hương của nhiều sáng sinh cuộc sống của mình vì Tổ quốc. Đó là<br />
lập viên của Đông Kinh Nghĩa thục có tên những bài học về sức mạnh rất hay…”<br />
<br />
<br />
148<br />
DƯƠNG THỊ KIM OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
(Rapport politique, 1907, tr. 3). 1990, tr. 100). Từ đây, trí thức yêu nước xứ<br />
Từ trung tâm Quảng Nam, phong trào Nghệ đã nhanh chóng sáng lập “nông hội,<br />
Nghĩa thục mở rộng đến tỉnh Bình Thuận. học hội” khắp mọi nơi (Phan Bội Châu,<br />
Tỉnh Bình Thuận, nơi hội tụ những nhà 1956, tr. 59). Báo cáo của Công sứ Nghệ -<br />
nho khí tiết từ Đồng Nai trong phong trào Tĩnh gửi Toàn quyền Đông Dương cho<br />
chống Pháp cuối thế kỷ XIX đến đầu thế biết: công cụ tuyên truyền tại vùng đất này<br />
kỷ XX như Nguyễn Quý Anh, Nguyễn được tiến hành bằng “công kích”, “thóa<br />
Trọng Lội, Hồ Tá Bang, Trần Lê Chất, mạ” và “những tập tài liệu phổ biến” ở<br />
Nguyễn Hiệt Chi cùng những nhà nho yêu khắp Trung Kỳ đã được in tại Nhật. Năm<br />
nước thức thời khác hùn vốn lập Công ty 1906, lời kêu gọi đầu tiên của Phan Bội<br />
nước mắm Liên Thành do Nguyễn Trọng Châu trong “Huyết thư của một người An<br />
Lội làm Tổng lý. Nhờ làm ăn phát đạt năm Nam”, kèm theo bức ảnh của Cường Để và<br />
1907, Công ty mở trường tư thục kiểu mới Phan Bội Châu được lưu hành trong dân<br />
đặt tên Dục Thanh do Nguyễn Quý Anh chúng và truyền tay nhau ở Nghệ - Tĩnh<br />
làm tổng đốc. Với chương trình dạy và học (Rapport Gouverneur, 1908). Năm 1906,<br />
theo lối mới, ngoài giờ học chính, học sinh Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh có ghé<br />
còn được học hát và học thể dục nên học qua Thanh Hóa gặp Nguyễn Thượng Hiền<br />
sinh có lúc lên tới 70 người. Trường không và nhóm sĩ phu yêu nước xứ Thanh như<br />
chỉ thu hút học sinh trong tỉnh mà cả vùng Nguyễn Xứng, Nguyễn Soạn, Nguyễn Lợi<br />
Nam Kỳ thuộc địa ra học. Thiệp… để bàn bạc xu hướng cứu nước<br />
Như vậy, từ hai trung tâm, Hà Nội ở mới. Như vậy, có thể thấy rõ, những hoạt<br />
Bắc Kỳ, Quảng Nam ở Trung Kỳ, phong động ban đầu của Phan Bội Châu và các sĩ<br />
trào Nghĩa thục như làn sóng dâng trào phu yêu nước ở Bắc Trung Kỳ là cơ sở cho<br />
mạnh mẽ, lôi cuốn tâm nguyện của các văn hoạt động Nghĩa thục nơi đây.<br />
thân, sĩ phu trước trào lưu mới – khai dân Vào cuối năm 1905, đầu năm 1906,<br />
trí. Gia nhập vào trào lưu chung đó, trí thức Duy Tân Hội lần lượt hình thành ở các tỉnh<br />
yêu nước Bắc Trung Kỳ đã hành động tạo Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, lãnh đạo<br />
phong khí cách mạng mới mà chúng tôi cố Hội có có Đặng Thái Thân, Đặng Tử Kính<br />
gắng làm rõ ở phần tiếp dưới đây. (Nghệ An), Lê Võ, Ngô Đức Kế, Lê Huân<br />
3. Hoạt động Nghĩa thục ở Bắc (Hà Tĩnh), Nguyễn Xứng (Thanh Hóa).v.v.<br />
Trung Kỳ Hội viên tham gia gồm đông đảo những<br />
Dưới sự vận động của trí thức Nho học “thân bằng cố hữu”, “cừu gia đệ tử”, với<br />
yêu nước tiến bộ, hoạt động Duy Tân Hội nhiều thế hệ thầy trò; những người đã từng<br />
và phong trào Nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ tham gia chống Pháp dưới ngọn cờ "phò<br />
diễn ra mạnh mẽ. Tháng 7 năm 1905 Phan Vua cứu nước" và có cả những giáo dân<br />
Bội Châu về Nghệ - Tĩnh gặp gỡ đốc học yêu nước. Duy Tân Hội ở Bắc Trung Kỳ<br />
Đặng Nguyên Cẩn và đi đến thống nhất: hoạt động theo hai phái "Minh xã" và "Ám<br />
"chúng ta nên nhân cơ hội này tổ chức các xã". Phái Minh xã là tiền đề cho phong<br />
hội nông, hội thương, hội học làm cho trào Nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ, đã thực<br />
người ở trong nước biết có đoàn thể, đặng hiện cổ động duy tân, bài trừ những cái<br />
sau dễ cổ động tấn hành" (Phan Bội Châu, không thích hợp với hoàn cảnh và thời đại,<br />
<br />
<br />
149<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)<br />
<br />
<br />
công khai, hợp pháp, lập trường học mới, học tập tư tưởng mới, xóa bỏ lối học xưa<br />
vận động thương hội. Hoạt động phụ trách cũ đã được nhân dân trong vùng hưởng<br />
phân công như sau: Hội thương do Ngô ứng, lưu truyền trong bài ca “Kêu gọi học<br />
Đức Kế, Lê Huân đảm nhận; Hội học do quốc ngữ” như sau:<br />
Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế phụ trách; “ …. Ngoài tứ xứ phong trào xụp rụp<br />
Vận động tài chính do Đặng Thái Thân, Khắp hoàn cầu nam nữ bình quyền<br />
Mai Lão Bạng thực hiện; Phụ trách các Vứt trâm thoa mà đỡ lấy bút nghiên<br />
huyện với trụ sở kinh tài là Vương Thúc Để học tập vài vần quốc ngữ<br />
Quý, Võ Am, Vương Thúc Loan, Phan Kẻ nam giới – tu mi nam tử<br />
Đức Nhuận, Bà Lụa (Quỳnh Lưu, Nghệ Cũng chẳng qua học tập mà nên<br />
An), Phan Thị Hét (Đức Thọ, Hà Tĩnh).v.v. Chị em tôi – phận gái nữ hiền<br />
Để thực hiện khai dân trí, sĩ phu yêu Vì thầy mẹ không cho học thức<br />
nước ở Bắc Trung Kỳ đã tiến hành tuyên Phải chịu ở trong vòng bếp núc<br />
truyền tư tưởng dân quyền thông qua việc Chưa thỏa lòng gặp lúc văn minh<br />
phổ biến "Tân thư", "Tân văn" của Trung Ngoài tứ phương trống đánh biểu tình<br />
Quốc và những sáng tác của Phan Bội Đều Nam – Nữ bình quyền rứa cả<br />
Châu, Phan Châu Trinh, của nhóm Đông Việc gia thất xin chàng thong thả<br />
Kinh Nghĩa Thục.v.v. Từ trung tâm Hà Khuyên anh về nhận dạy học hành<br />
Nội, tiếng vang của Đông Kinh Nghĩa thục Một hai năm cách mệnh hoàn thành<br />
lan tỏa nhanh chóng, lôi cuốn những nhà Chàng với thiếp sẽ về lo liệu”<br />
nho yêu nước thức thời vào phong trào mở (Chương Thâu, 1997, tr.15).<br />
trường học ở các tỉnh miền Trung, trong đó Tại Thanh Hoá, Nghĩa thục thành lập<br />
có Thanh – Nghệ – Tĩnh. vào ngày 5 tháng 5 năm 1907 với tên gọi<br />
Năm 1907, trường học nổi tiếng được “Tri tân học hội Thanh Hóa”. Tài liệu<br />
thành lập ở Nghệ An là trường Võ Liệt, Société D’enseignement Mutuel (Fondée le<br />
huyện Thanh Chương. Đội ngũ giảng dạy 5 Mai 1907) (có kèm theo chữ ký của<br />
là những ông thầy yêu nước có ít nhiều Khâm sứ Trung kỳ Levecque ngày<br />
kiến thức “tân học” như phó bảng Đặng 16/7/1907) ghi lại điều lệ và quá trình<br />
Nguyên Cẩn, Tiến sĩ Ngô Đức Kế.v.v. Học thành lập Hội với 30 điều khoản, gồm<br />
trò theo học tại trường không chỉ ở địa bàn những vấn đề cơ bản như: Mục đích lập<br />
Thanh Chương mà cả ở Hưng Nguyên, hội, tên hội, điều kiện gia nhập, kinh phí,<br />
Nam Đàn, Hương Sơn (Hà Tĩnh). Tài liệu chương trình dạy học, thiết bị.v.v. Điều 1:<br />
giảng dạy, học tập ở đây phần lớn do Đông Mục đích thành lập hội: “Hội tương trợ<br />
Kinh Nghĩa thục ở Hà Nội cung cấp như học tập lấy tên là Tri tân học hội, được<br />
“Văn minh tân học sách”, “Quốc dân độc sáng lập tại Thanh Hóa. Tôn chỉ mục đích<br />
bản”, “Nam quốc địa dư”. Ở Hà Tĩnh lập của Hội là tạo điều kiện cho các hội viên<br />
trường học mới có tên gọi trường Phong thực hành tiếng Pháp, chữ Nho và các trí<br />
Phú ở Thạch Hà, học trò của trường gồm thức thông thường, bằng các phương<br />
đông đảo thanh niên ưu tú của huyện và tiện cần thiết như tủ sách, phòng đọc, hội<br />
các huyện lân cận như Can Lộc, Cẩm họp học tập, diễn giảng…” (“Société<br />
Xuyên, Kỳ Anh.v.v. Tinh thần quyết tâm D’enseignement Mutuel”, 1933, tr.2). Điều<br />
<br />
<br />
150<br />
DƯƠNG THỊ KIM OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
3: Quản lý hội viên: “Hội được quản lý bởi Quỳnh Lưu (Nghệ An) do bà Trần Thị<br />
một hội đồng quản trị gồm chủ tịch, phó Trâm phụ trách, và hiệu buôn Mộng Hanh<br />
chủ tịch, thư ký (cho phần chữ Pháp); thư của Lê Phú Thành (em trai Lê Văn Huân) ở<br />
ký cho phần chữ Hán, thủ qũy (“Société Chợ Trổ, Đức Thọ (Hà Tĩnh).v.v. Với sự<br />
D’enseignement Mutuel”, 1933, tr.5). Điều lan tỏa của "Triều Dương Thương quán" và<br />
16: Về chương trình dạy học: mở các lớp mối liên kết với hiệu buôn ở Trung, Bắc<br />
tiếng Pháp và chữ Nho cho mọi hội viên và Kỳ, Công sứ Hà Tĩnh đã cho rằng:"…<br />
trẻ em theo học. Các cuộc họp để đọc Đặng Nguyên Cẩn và Ngô Đức Kế bắt đầu<br />
giảng tại Hội sáu lần mỗi tuần. Nội dung vận động góp vốn để mở hiệu buôn, nhưng<br />
của một chương trình do chủ tịch chuẩn bị chỉ nhằm để che dấu động cơ chính là gửi<br />
và các hội viên giảng dạy. Thành viên tiền sang Nhật và ủng hộ hội học”<br />
được vào học miễn phí là con em của hội (Résidence de Hà Tĩnh, 1907, tr.2). Hơn<br />
viên và tất cả trẻ em muốn vào học (không thế nữa, “… Bề ngoài là một hội buôn,<br />
kể số lượng)… (“Société D’enseignement nhưng thực chất là để thu nhận các khoản<br />
Mutuel” 1933, tr.7). Về địa điểm, Hội tạm đóng góp, có khi bằng bạo lực, dùng cung<br />
thời thuê một căn nhà làm phòng họp và cấp cho đông đảo người xuất dương sang<br />
phòng học, đó là nhà bà Cả Bát (sau này là Nhật và những hoạt động học tập ở đây…”<br />
hiệu ảnh Nguyễn Khắc Hoan ở phố Lớn (Résident Supérieur Vinh, 1907, tr. 3).<br />
Thanh Hóa). Phong khí cách mạng ở đây Thứ hai, lập Ban liên lạc góp tiền ủng<br />
đã được Huỳnh Thúc Kháng ghi lại, rằng: hộ cho phong trào Đông Du và Duy tân<br />
“Thanh Hóa lúc ấy phong trào duy tân trên địa bàn gồm có các sĩ phu Vương<br />
cũng khá mạnh, hưởng ứng với trào lưu Thúc Quý, Võ An, Vương Thúc Loan,<br />
chung. Phái cựu học và phái tân học lập ra Trần Thị Lụa (Nghệ An); Phan Thị Hét,<br />
Hà Thành Thư xã cùng giao thông với Phan Huy Diễn, Nguyễn Đình Kiên, Phan<br />
Đông Kinh Nghĩa thục ngoài Bắc, Hợp Trọng, Đội Quyên, Đội Phấn (Hà Tĩnh).<br />
thương trong Quảng và Triêu Dương ở Ủng hộ tích cực cho hoạt động này còn có<br />
Nghệ” (Huỳnh Thúc Kháng, 1968). sự tham gia của phụ nữ ở huyện Quỳnh<br />
Để tạo nguồn kinh phí hỗ trợ cho hoạt Lưu, Yên Thành, Nghi Lộc, Nam Đàn<br />
động Nghĩa thục ở Bắc Trung Kỳ, các sĩ (Nghệ An), trong đó tiêu biểu như: Bà Ngô<br />
phu vận động đóng góp kinh phí bằng Thị Khôn Duy (Con gái của Ngô Quảng,<br />
nhiều hình thức. vợ của Hồ Học Lãm), Bà Nguyễn Thị<br />
Thứ nhất, góp vốn kinh doanh công Thanh (Con gái đầu của cụ Nguyễn Sinh<br />
thương nghiệp, lập các hội buôn. Tại Sắc, chị gái của chủ tịch Hồ Chí Minh), bà<br />
Thanh Hóa, công ty Phương Lâu thành lập, Tôn Thị Chiêm (Thanh Chương) (là vợ của<br />
có chi nhánh ở Vinh, Hà Tĩnh, Huế. Tại Lê Kim Tường, người yêu nước tích cực ở<br />
Nghệ An, Hà Tĩnh, hai nhân vật nhiệt làng Nguyệt Bổng, huyện Thanh Chương,<br />
thành với công cuộc cải cách là Đặng là nhà mà cụ Nguyễn Sinh Sắc đã chọn gửi<br />
Nguyên Cẩn và Ngô Đức Kế đã cùng góp ông Nguyễn Sinh Khiêm ăn học).<br />
vốn lập nên Triều Dương thương quán (9- Thứ ba, quyên góp tiền bạc trong nhân<br />
1906). Cuối năm 1906, phân hiệu Triều dân. Các tổ chức yêu nước ở địa phương có<br />
Dương thương quán lập tại Cầu Giát, nhiệm vụ trấn áp chức sắc, hào lý giàu có<br />
<br />
<br />
151<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)<br />
<br />
<br />
để thu gom lương thực và tiền bạc. Tài liệu nước", vì vậy quy trách nhiệm cho sĩ phu<br />
của mật thám Pháp ở Nghệ An, Hà Tĩnh duy tân và thẳng tay đàn áp các phong trào.<br />
ghi lại: “Ngày 20-8-1907, Chánh tổng và Cũng như cả nước, trường học, hội buôn<br />
Phó Chánh tổng Nam Kim, huyện Thanh trên toàn địa bàn Bắc Trung Kỳ bị đóng<br />
Chương được báo có một nhóm 5 người lạ cửa. Cảnh bắt bớ, giam cầm bao trùm khắp<br />
mặt đến nhà lý trưởng Đa Lộc đòi các chức cả nước, Phan Châu Trinh đã viết lại, rằng:<br />
sắc cấp lương thực và tiền bạc. Ba tên “… phàm xã thôn nào có trường học, lính<br />
trong bọn đã bị tuần đinh bắt và giải xuống cũng đóng lại một hai ngày, bắt dân sắm<br />
Vinh. Được hỏi cung chúng khai là được ăn uống, nói là bắt phạt, cướp nhiễu cũng<br />
Đề đốc Cao Đạt phái đến đưa thư, hăm nhiều, không kể xiết. Tình hình đó, tỉnh nào<br />
dọa và thu tiền góp được. Cao Đạt là một có trường học thì cũng đều có như vậy,<br />
trong những kẻ cầm đầu phiến loạn cũ nổi nhất là ở Nghệ An, Hà Tĩnh lại càng dữ<br />
tiếng nhất...” (Résidence de Ha Tinh, hơn” (Nguyễn Văn Xuân, 2000, tr. 274).<br />
1907, tr. 2). Thành phần tham gia các hoạt Những nho sĩ Thanh – Nghệ – Tĩnh bị<br />
động quyên góp tiền bạc gồm: “... mọi tầng chính quyền thực dân bắt với tội danh “âm<br />
lớp xã hội, có nhiều quan lại đang tại chức mưu phản loạn”, Nghệ - Tĩnh gồm có: Tiến<br />
ở Hà Tĩnh, những nhà Nho đã đỗ tú tài, cử sĩ Ngô Đức Kế, Cử nhân Đặng Văn Bá, Cử<br />
nhân, tiến sĩ. Cuối cùng là những tay nhân Lê Văn Huân, Cử nhân Võ Bá Hợp,<br />
cường đạo mà công việc chính là ép đám Tú tài Phạm Văn Ngôn, Đào Văn Huân, Tú<br />
nhà giàu tham gia vào công cuộc phục tài Nguyễn Sĩ Vận; Nho sinh Nguyễn Tân<br />
hưng đất nước. Trong số đó có Tiến sĩ Ngô Khiêm, Nho sinh Nguyễn Khắc Hoàng,<br />
Đức Kế, cử nhân Đặng Văn Bá, cử nhân Cựu chánh tổng: Nguyễn Đống, Phan Hữu<br />
Lê Văn Huân, thủ lĩnh cầm đầu các vụ Nghị, Đào Sự... (Huỳnh Thúc Kháng,<br />
cướp có Đội Quyên, tú tài Phạm Văn 1968, tr.45); Thanh Hóa có Nguyễn<br />
Ngôn” (Résidence de Ha Tinh, 1907, tr. 2). Nguyên Thành, Cử Xứng, Cử Soạn, Tú<br />
Kết quả từ phong trào Nghĩa thục Bắc Thiệp, Tú Khải bị đày đi Côn Lôn.<br />
Trung Kỳ là sự nổi dậy mạnh mẽ của nông 4. Một vài nhận xét<br />
dân kháng sưu, thuế năm 1908. Sự kết hợp, Cũng như phong trào Nghĩa thục ở<br />
chặt chẽ giữa các cuộc biểu tình chống thuế Trung và Bắc Kỳ, Nghĩa thục ở Bắc Trung<br />
ôn hoà với hình thức khởi nghĩa vũ trang là Kỳ hoạt động ngắn ngủi, cuối cùng bị thực<br />
nét đặc sắc nhất của phong trào yêu nước ở dân Pháp đàn áp (tháng 12/1907), song<br />
Thanh -Nghệ - Tĩnh, cho thấy sự tác động phong trào cho ta thấy rõ tính chất phong<br />
mạnh mẽ từ cuộc vận động cải cách trên phú, đa dạng của cuộc vận động chính trị ở<br />
bình diện văn hóa. Chính quyền Pháp nhận buổi giao thời, chứa đựng những sinh khí<br />
thấy trường học trên địa bàn Bắc Trung Kỳ của thời đại. Phong trào Nghĩa thục thực sự<br />
không đơn thuần dạy và học, trên thực tế là một phong trào chính trị, văn hóa mang<br />
đã gây nên “sự kích động và lan truyền tính cách mạng bởi đã hướng dẫn nhân dân<br />
tinh thần đấu tranh của đám chống đối bảo chống lại các thế lực phản động, lạc hậu<br />
hộ” (Rapport bimestriel, 1907, tr.3). Chính ngăn cản sự phát triển của lịch sử. Sự lan<br />
quyền Pháp cho rằng, những trường học toả của Nghĩa thục có ảnh hưởng, tác động<br />
lập nên ở đây thực sự là "một cái lò yêu sâu sắc đến đời sống tư tưởng của người<br />
<br />
<br />
152<br />
DƯƠNG THỊ KIM OANH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
dân Việt Nam, tạo bầu không khí cách nhiệt, lại rất nhạy bén và nhiệt tình trong<br />
mạng sôi nổi khắp cả nước. Hoạt động của công việc. Khi bắt gặp “Tân thư”, “Tân<br />
phong trào đã tạo nên một “nguồn lực” văn”, lớp Nho sĩ tiến bộ đã nhanh chóng<br />
quan trọng, làm phong phú “nội lực” cho tiếp thu chủ trương cứu nước mới và sẵn<br />
quê hương đất nước. Qua hoạt động Nghĩa sàng đứng ra lãnh đạo phong trào đấu<br />
thục ở Bắc Trung Kỳ, chúng tôi rút ra một tranh. Vì vậy, trong phong trào đấu tranh,<br />
số nhận xét như sau: lớp sĩ phu không phân biệt rạch ròi “bạo<br />
Thứ nhất, hoạt động nghĩa thục ở Bắc động” hay “cải cách” mà cùng “hò reo như<br />
Trung Kỳ cho thấy vai trò to lớn của lớp gió đưa diều” theo hệ tư tưởng tư sản,<br />
Nho sĩ yêu nước thức thời, họ đã làm được thống nhất “một nhịp” với nhau trong mục<br />
việc mà trước đó chưa ai làm được là hô đích chung "giành độc lập dân tộc”. Vì<br />
hào đổi mới, trước tiên là đổi mới tư tưởng. vậy, hoạt động mở trường học, lập hội<br />
Những tư tưởng mới này tuy chưa phải là buôn, vận động Đông Du, tiến hành diễn<br />
một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, song thuyết, kêu gọi duy tân… đã hòa lẫn cùng<br />
phong trào Nghĩa thục đã thể hiện tính tích nhau, hỗ trợ cho nhau, hòa nhịp với phong<br />
cực tiến bộ thông qua tinh thần ý chí tự lập, khí chung của dân tộc.<br />
tự cường, tấn công vào sự “ngu dốt”, “yếu Tóm lại, từ những nghiên cứu trên,<br />
kém” do chế độ thực dân để lại, đả phá chế chúng tôi nhận thấy hoạt động nghĩa thục ở<br />
độ khoa cử từ chương, bài trừ hủ tục mê Bắc Trung Kỳ đã hòa cùng phong trào<br />
tín, đề cao chữ Quốc ngữ và lối học Nghĩa thục ở Trung – Bắc Kỳ, thực sự góp<br />
mới.v.v. Phong trào đã đáp ứng được phần phần hướng tới mục tiêu khai dân trí, chấn<br />
nào tâm tư, nguyện vọng của quần chúng dân khí, hậu dân sinh, làm cơ sở cho việc<br />
bị áp bức bóc lột đang phải sống cuộc sống thực hiện hai mục tiêu tối hậu gắn chặt với<br />
tối tăm dưới ách thống trị nặng nề của đế nhau là chấn hưng, hiện đại hóa đất nước và<br />
quốc, phong kiến và thực sự mở hướng đi khôi phục chủ quyền quốc gia. Sự kết hợp<br />
mới cho những trăn trở trước vận mệnh đất của chủ nghĩa yêu nước thiết tha, tư tưởng<br />
nước của lớp Nho sĩ tiến bộ. duy tân, cải cách và sự nhạy bén trước thời<br />
Thứ hai, hoạt động nghĩa thục ở Bắc cuộc của lớp nho sĩ tiến bộ ở Thanh – Nghệ<br />
Trung Kỳ có sự tiếp nhận tinh thần từ – Tĩnh đã tạo nên một phong trào mang tính<br />
Đông Kinh Nghĩa thục và phong trào nghĩa sáng tạo, biến hoạt động giáo dục thành<br />
thục Bắc Kỳ cùng hoạt động duy tân cải cuộc vận động yêu nước, kết nối chặt chẽ<br />
cách ở Trung Kỳ, song ở đây mang sắc thái giữa hoạt động Nghĩa thục với các phong<br />
riêng của “một phong trào cách mạng... ”. trào Đông Du, Duy Tân. Đến nay, phong<br />
Các hoạt động chống Pháp cùng “câu trào đã lùi xa hơn một thế kỷ, song để lại<br />
thông với nhau”, “cán dùi trống một nhịp bài học ý nghĩa về một nền giáo dục dân<br />
với nhau”. Điều này có thể lý giải rằng: tộc, yêu nước, thấm đẫm hơi thở của thời<br />
Thanh - Nghệ - Tĩnh vốn là “xứ sở của các đại trong bối cảnh lịch sử hội nhập sâu,<br />
bậc danh nho”, có lớp văn thân, sĩ phu rộng của thời đại 4.0.<br />
đông đảo, có tinh thần yêu nước nồng<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
153<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
Phan Bội Châu. (1956). Tự Phán. NXB Anh Minh.<br />
Phan Bội Châu. (1990). “Phan Bội Châu niên biểu” trích trong Phan Bội Châu toàn tập<br />
(tập 6). Hà Nội: NXB Thuận Hoá..<br />
Nguyễn Hiến Lê. (1966). Đông Kinh Nghĩa Thục. Sài Gòn: NXB Lá Bối.<br />
Huỳnh Thúc Kháng. (1963). Huỳnh Thúc Kháng tự truyện. NXB Anh Minh.<br />
Huỳnh Thúc Kháng. (1968). “Vụ kháng thuế ở Trung kỳ 1908”, Thi văn quốc cấm Thái<br />
Bạch. Nhà sách Khai Trí.<br />
Phạm Xanh. (2007). “Đông Kinh Nghĩa Thục - Tiếp cận từ văn hóa tư tưởng”. Tạp chí<br />
Nghiên cứu Lịch sử, 8 (376), 38-46.<br />
Chương Thâu. (1997). “Đông Kinh Nghĩa thục 1907 và phong trào nghĩa thục ở các địa<br />
phương”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 4 (293), 11-16.<br />
Chương Thâu. (2007). “Từ Khánh Ứng Nghĩa Thục ở Nhật Bản đến Đông Kinh Nghĩa<br />
Thục ở Việt Nam”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 2 (370), 7-14.<br />
Tạ Thị Thúy. (2017). Lịch sử Việt Nam tập 7, (từ 1897 đến 1918). Hà Nội: NXB Khoa học<br />
Xã hội.<br />
Rapport politique, Décembre 1907 (Hoi An 08-01-1908). No 4. Nguồn tài liệu được truy<br />
xuất từ Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV, Đà Lạt. KH 244/1 RSA/RP.<br />
Rapport A.M Le Gouverneur general (15mai 1908). Nguồn tài liệu được truy xuất từ<br />
Phông Khâm sứ Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 265 RSA/RP.<br />
Rapport A.M. Le Résident Supérieur, Vinh, le 3 Septembre Résidence de Ha Tinh:<br />
Rapport A.M.Le. Résidence Supérieur Vinh. Nguồn tài liệu được truy xuất từ Phông Khâm<br />
sứ Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 262 RSA/RP<br />
Rapport bimestriel (Juillet – AoUˆt) de Résidént provinciaux de l'Annam au Résidént<br />
Suppérieur en Annam, année 1907. Nguồn tài liệu được truy xuất từ Phông Khâm sứ<br />
Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 253 RSA/RP.<br />
Résidence de Hà Tĩnh, Interrogatiore de Tác Lanh (Résumé). RP. Nguồn tài liệu được truy<br />
xuất từ Phông Khâm sứ Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 240 RSA.<br />
Résidence de Ha Tinh: Rapport A.M.Le. Résidence Supérieur Vinh. Nguồn tài liệu được truy<br />
xuất từ Phông Khâm sứ Trung Kỳ. Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV. KH 240 RSA/.<br />
Société D’enseignement Mutuel (Fondée le 5 Mai 1907) Statuts de la Société. (1933) IMP.<br />
NORD – ANNAM 67, Av. Maréchal Foch Vinh.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 12/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019<br />
<br />
154<br />
HỘP THƯ BẠN ĐỌC<br />
<br />
<br />
Kính gửi Quý bạn đọc,<br />
<br />
Trong số Tạp chí này, chúng tôi xin giới thiệu đến Quý bạn đọc và các nhà khoa<br />
học những bài nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học Xã hội và Giáo dục.<br />
<br />
Ban Biên tập Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn xin trân trọng thông báo đã<br />
nhận được bài viết của rất nhiều nhà khoa học ở các chuyên ngành và lĩnh vực khác<br />
nhau. Ban Biên tập chân thành cảm ơn sự cộng tác của Quý vị. Vì điều kiện giới hạn<br />
về số lượng bài trong mỗi số, chúng tôi xin được chọn đăng ở các số Tạp chí tiếp<br />
theo.<br />
<br />
Với những bài viết đã chọn đăng trong số Tạp chí này, chắc chắn vẫn còn thiếu<br />
sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc để có thể ngày<br />
một nâng cao hơn nữa chất lượng cho Tạp chí.<br />
<br />
Một lần nữa, Ban Biên tập Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn chân thành cảm<br />
ơn Quý bạn đọc, các nhà khoa học trong cả nước và mong muốn được đón nhận sự<br />
tín nhiệm lâu dài của Quý vị trong tương lai.<br />
<br />
Trân trọng.<br />
<br />
<br />
BAN BIÊN TẬP<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />