intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hướng dẫn tự học

Chia sẻ: Trần Dự Trữ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:53

69
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thực trạng việc tự học của học sinh và các hình thức kiểm tra đánh giá của giáo viên Thực tế cho thấy thi như thế nào thì học như thế đó. Hình thức kiểm tra đánh giá sẽ quy định cách thức học của học sinh. Vậy là cách nào để hướng dẫn học sinh tự học, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Hướng dẫn tự học". Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn đang học và nghiên cứu về chuyên ngành Giáo dục.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hướng dẫn tự học

HƯỚNG DẪN TỰ HỌC<br /> <br /> I. Thực trạng việc tự học của học sinh và các hình thức kiểm tra đánh giá của giáo viên<br /> Thực tế cho thấy thi như thế nào thì học như thế đó. Hình thức kiểm tra đánh giá sẽ quy định <br /> cách thức học của học sinh.<br /> <br /> Trong việc đổi mới PPDH lấy học sinh làm trung tâm thì việc tự học của học sinh vô cùng <br /> quan trọng, để điều khiển quá trình tự học sao cho có hiệu quả nhất thì việc kiểm tra đánh <br /> giá của giáo viên đỏi hỏi phải thật khéo léo, đa dạng góp phần tích cực làm chuyển biến quá <br /> trình tự học của học sinh.<br /> Tuy vậy, trong thực tế dạy học hiện nay việc áp dụng phương pháp dạy học hướng dẫn học <br /> sinh tự học của giáo viên ở tất cả các môn học nói chung và môn toán nói riêng còn gặp rất <br /> nhiều lúng túng và khó khăn. Cách học của học sinh vẫn đơn giản là cố gắng hoàn thành hết <br /> số bài tập GV giao về nhà (bằng mọi cách có thể), và học thuộc trong vở ghi đối với các môn <br /> học thuộc. Đối với giáo viên thì chỉ quen thuộc với cách kiểm tra bài cũ đầu giờ cốt sao cho <br /> đủ số lần điểm miệng. Việc kiểm tra định kỳ chỉ đơn giản là thực hiện theo phân phối <br /> chương trình, trước khi kiểm tra sẽ giới hạn cho học sinh một phần kiến thức.<br /> Đa số giáo viên thường quan niệm kiến thức là mục đích của quá trình dạy học nên chỉ quan <br /> tâm đến phương pháp truyền thụ kiến thức của bài đúng với nội dung SGK.<br /> Một số giáo viên chưa có kỹ năng soạn bài, vẫn áp dụng một cách rập khuôn, máy móc lối <br /> dạy học "truyền thống" chủ yếu giảo thích, minh hoạ tái hiện, liệt kê kiến thức theo SGK là <br /> chính, ít sử dụng câu hỏi tìm tòi, tình huống có vấn đề… coi nhẹ rèn luyện thao tác tư duy, <br /> năng lực thực hành, ít sử dụng các phương tiện dạy học nhất là các phương tiện trực quan để <br /> dạy học và tổ chức cho học sinh nghiên cứu thảo luận trên cơ sở đó tìm ra kiến thức và con <br /> đường để chiếm lĩnh kiến thức của học sinh.<br /> Thực tế, giáo viên thường soạn bài bằng cách sao chép lại SGK hay từ thiết kế bài giảng, <br /> không dám khai thác sâu kiến thức, chưa sát với nội dung chương trình, hướng dẫn học sinh <br /> vận dụng kiến thức giải quyết những vấn đề từ nhỏ đến lớn trong thực tế đời sống và sản <br /> xuất. Khi dạy thường nặng về thông báo, không tổ chức hoạt động học tập cho các em, <br /> không dự kiến được các biện pháp hoạt động, không hướng dẫn được phương pháp tự học.<br /> Mặt khác, phương pháp dạy học phổ biến hiện nay vẫn theo "lối mòn", giáo viên truyền đạt <br /> kiến thức, học sinh thụ động lĩnh hội tri thức. Thậm chí có giáo viên còn đọc hay ghi phần <br /> lớn nội dung lên bảng cho học sinh chép nội dung SGK. Việc sử dụng các phương tiện dạy <br /> học: phiếu học tập, tranh ảnh, băng hình, bản trong… chỉ dùng khi thi giáo viên hay có đoàn <br /> thanh tra, kiểm tra đến dự, còn các tiết học thông thường hầu như "dạy chay".<br /> Do việc truyền đạt kiến thức của giáo viên theo lối thụ động nên rèn luyện kỹ năng tự học <br /> cũng như việc hướng dẫn tự học của giáo viên cho học sinh không được chú ý làm cho chất <br /> lượng giờ dạy không cao <br /> II. Mục tiêu:<br /> Đưa ra một số phương pháp kiểm tra đánh giá mới nhằm tác động tới quá trình tự học của <br /> học sinh trong bộ môn toán.<br /> III. Giải pháp<br /> 1. Tăng cường các hình thức kiểm tra đánh giá.<br /> a) Vấn đáp: <br /> ­ Kiểm tra bài cũ là một khâu không thể thiếu trong dạy học vì nếu không kiểm tra giáo viên <br /> sẽ không nắm được tình hình học bài và chuẩn bị bài của học sinh, và nếu không đánh giá cho <br /> điểm, nhận xét khuyến khích thì không có động lực cho việc học bài đều đặn ở nhà (VD <br /> trong các trường chuyên nghiệp...)<br /> ­ Kiểm tra vấn đáp trong môn toán có điểm khác với các môn xã hội là không kiểm tra học <br /> thuộc lòng, nghĩa là nếu 1 học sinh học thuộc và trả lời trôi chảy lí thuyết thì không có nghĩa <br /> học sinh đó sẽ làm được bài tập (mà làm được bài tập thì mới có điểm trong kiểm tra định <br /> kỳ!) Như vậy quá trình kiểm tra vấn đáp phải thúc đẩy được học sinh học tập kiến thức để <br /> làm được bài tập (chứ không phải là LT suông), ngược lại nếu học sinh làm được bài tập thì <br /> sẽ trả lời tốt các câu hỏi vấn đáp của giáo viên. Để đạt được điều đó câu hỏi của giáo viên <br /> phải tập trung vào các kiến thức kĩ năng như:<br /> + Điều kiện tồn tại của phương trình ...<br /> + Các bước giải loại toán...<br /> + Phương pháp chứng minh bài toán ...<br /> +....<br /> Tất nhiên không phải bài nào kiến thức LT cũng rõ ràng để học sinh có thể tự học ở nhà, khi <br /> đó giáo viên sẽ đưa trước nội dung liên quan tới bài học mới cho học sinh, tiết sau sẽ kiểm tra <br /> vào nội dung đó, như vậy học sinh sẽ tự tìm kiếm nội dung để học tập ở nhà (phát huy tính <br /> tích cực chủ động và tạo tiền đề để bài dạy được thành công)<br /> ­ Ngoài nội dung câu hỏi thì hình thức kiểm tra cũng là vấn đề đáng quan tâm, vì một số học <br /> sinh khi có điểm miệng sẽ an tâm với việc không bị gọi tên nữa dẫn đến chểnh mảng việc <br /> học kiến thức lí thuyết. Hoặc việc gọi học sinh lên bảng theo thứ tự trong sổ điểm cũng làm <br /> cho học sinh biết được để đối phó. Như vậy cách gọi phải ngẫu nhiên nhưng học sinh không <br /> biết trước đơn giản ta có thể sử dụng chức năng random trong MTCT để tạo ra 1 con số bất <br /> kỳ, dựa vào số đó sẽ gọi học sinh trong sổ điểm.<br /> ­ Sau khi kiểm tra đầu giờ GV vẫn nên tiếp tục vấn đáp cho điểm học sinh ngay trong giờ <br /> học để tăng sự tập trung của học sinh, tạo thêm cơ họi cho học sinh mắc điểm yếu có thể gỡ <br /> điểm<br /> b) Cho bài tập lớn:<br /> ­ Với một số chương ngắn mà chưa có bài kiểm tra định kỳ, để học sinh có cái nhìn tổng quát <br /> hệ thống với 1 lượng kiến thức trong thời gian dài thì cần phải hướng dẫn học sinh tổng hợp, <br /> hệ thống kiến thức và các dạng bài tập. Cách đơn giản là GV đưa ra một hệ thống bài tập đủ <br /> lớn, đa dạng phù hợp với học sinh và yêu cầu các em tự phân dạng bài tập để giải, mỗi dạng <br /> sẽ trình bầy cách giải của dạng đó sau đó mới giải chi tiết. Khi học sinh làm xong thì yêu cầu <br /> nộp lại để chấm lấy vào điểm thực hành, hoặc điểm miệng, hoặc đơn giản chỉ là điểm để <br /> động viên khích lệ.<br /> c) Kiểm tra định kỳ:<br /> ­ Trước khi kiểm tra GV phải xácđịnh rõ cho học sinh đâu là kiến thức trọng tâm, đâu là kiến <br /> thức mở rộng để học sinh biết cách học, tránh giới hạn quá dài làm cho học sinh không biết <br /> học phần nào, dẫn tới lan man.Tốt nhất là hướng dẫn làm đề cương cho học sinh.<br /> Cách ra đề phải phân loại được học sinh đảm bảo có câu dễ cho học sinh TB yếu và câu khó <br /> cho hs giỏi, việc ra đề quá khó hay quá dễ đều không có tác dụng thúc đẩy việc tự học của <br /> học sinh. <br /> 2. Hướng dẫn học sinh tự học:<br /> a) Tự học qua sách giáo khoa: <br /> ­ SGK là nguồn tri thức quan trọng cho học sinh, nó là 1 hướng dẫn cụ thể để đạt lượng liều <br /> lượng kiến thức cần thiêt của môn học, là phương tiện phục vụ đắc lực cho GV và học sinh. <br /> Do đó tự học qua SGK là vô cùng quan trọng để học sinh tham gia vào quá trình nhận thức <br /> trên lớp và củng cố khắc sâu ở nhà.<br /> ­ Để học sinh tự nghiên cứu trước SGK ở nhà thì GV không nên chỉ đơn giản là nhắc các em <br /> đọc trước bài mới mà cần nêu cụ thể câu hỏi mà khi đọc xong bài mới các em có thể trả lời <br /> được. Đó là cách giao nhiệm vụ cụ thể giúp học sinh đọc sách giao khoa có mục tiêu cụ thể <br /> rõ ràng. <br /> ­ SGK cũng là tài liệu để học sinh đọc thêm cho rõ ràng những kiến thức mà GV truyền đạt <br /> trên lớp vì vậy những VD mẫu GV không nên thay đổi để nếu học sinh đã đọc trước sẽ tham <br /> gia ngay được vào bài giảng, những học sinh yếu có thêm 1 tài liệu để đọc lại khi chưa rõ <br /> cách GV hướng dẫn. <br /> ­ Đối với những nội dung mà sách giáo khoa đã có chi tiết đầy đủ thì không nên ghi lên bảng <br /> cho hs chép mà cho các em về tự đọc trong SGK, cách làm này vừa tiết kiệm thời gian vừa tạo <br /> thói quen đọc sgk cho học sinh và làm cho bài giảng không bị nhàm chán.<br /> b) Tự học qua sách bài tập, sách tham khảo:<br /> ­ Đối với học sinh trong trường sách bài tập đều có nên Gv phải tận dụng tài liệu này để giúp <br /> học sinh tự học hiệu quả. Khi cho bài tập nên cho các VD trong SBT, các VD này đều có <br /> hướng dẫn giải và phân dạng, như vậy học sinh sẽ tự học một cách hệ thống ngay từ đầu <br /> (nếu chỉ làm BT trong SGK thì việc phân dạng bài tập sẽ khó khăn hơn với học sinh)<br /> ­ Việc cho bài tập về nhà cũng cho theo thứ tự dạng bài tập của SGK và SBT để học sinh có 1 <br /> lượng bài tập tương tự đủ lớn (các bài này đều có lời giải chi tiết) để có thể tự mình làm <br /> được các bài trong SGK. Khi cho bài theo cách này sẽ giúp học sinh có 1 cách học mới là khi <br /> gặp khó khăn sẽ tự tìm kiếm một phương án tương tự đã có để giải quyết chứ không thụ <br /> động chờ đợi GV hướng dẫn.<br /> c) Tự nghiên cứu:<br /> ­ GV nên hướng dẫn học sinh làm các BT lớn, có kiểm tra đánh giá để hs có khả năng tự phân <br /> tích tổng hợp<br /> <br /> Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta và trên thế giới <br /> <br /> Ở Việt Nam, với nhu cầu phát triển, hội nhập quốc tế, với nguy cơ tụt hậu trên con đường <br /> pháp triển trong thế kỉ XXI đang đòi hỏi chúng ta phải cấp thiết phải đổi mới giáo dục, trong <br /> đó căn bản là đổi mới về phương pháp dạy và học. Đây cũng là vấn đề đang được quan tâm <br /> của nhiều các quốc gia khác trên thế giới trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ <br /> cho các mục tiêu phát triển kinh tế ­ xã hội.<br /> <br /> Điều 28 Luật giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam  (2005) đã ghi rõ: “Phương <br /> pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; <br /> phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng <br /> làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình <br /> cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.<br /> Nghị quyết Đại hội Đảng  một lần nữa khẳng định “đổi mới phương pháp dạy và học, phát <br /> huy tư duy sáng tạo và năng lực tự sáng tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm <br /> làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay, đổi mới và hoàn thiện nghiêm minh <br /> chế độ thi cử...<br /> <br /> Các ứng dụng của CNTT đã thực sự trao quyền chủ động học tập cho học sinh và cũng làm <br /> thay đổi vai trò của người thầy trong giáo dục. Từ vai trò là nhân tố quan trọng, quyết định <br /> trong kiểu dạy học điều khiển nội dung, thì nay các thầy cô chuyển sang giữ vai trò là người <br /> điều phối theo kiểu dạy học hướng tập trung vào học sinh. Kiểu dạy học hướng tập trung <br /> vào học sinh và hoạt đông hóa người học có thể thực hiện được một cách tốt hơn với sự trợ <br /> giúp của máy tính và các phần mềm cũng như mạng internet, Với các chương trình dạy học <br /> đa môi trường (multimedia) và được chuẩn bị chu đáo có thể truy cập được nhờ các phương <br /> tiện siêu môi trường (hypemedia) giúp cho việc tự học của học sinh trở nên thuận tiện và dễ <br /> dàng hơn bao giờ hết<br /> <br /> Ví dụ về một bài dạy kỹ năng tư duy ở một lớp trung học<br /> <br /> <br /> Dạy tư duy cho học sinh trung học<br /> Trong bài “Gen người có những gì?”  có sử dụng Công cụ thể hiện bằng chứng , học sinh <br /> hiểu biết của mình về những ứng dụng của công nghệ sinh học để gây ảnh hưởng tới điều luật đồng tình<br /> việc ứng dụng công nghệ gen. Tại rất nhiều thời điểm trong bài học, giáo viên có thể hướng dẫn rõ ràng n<br /> duy mà học sinh cần phải sử dụng để có thể hoàn thành dự án học tập này. <br /> <br /> Trong hoạt động mở đầu, học sinh thảo luận một câu hỏi khái quát, “Chúng ta có nhất thiết phải làm nhữn<br /> thể làm hay không?”, từ đó đưa ra những câu hỏi mang tính đạo đức đối với thành tựu y học. Việc này đòi<br /> năng dự đoán những hậu quả có thể xảy ra của một phương pháp trị liệu và xem xét khía cạnh đạo đức củ<br /> đó. <br /> <br /> Bài học nhỏ về kỹ năng tư duy: Dự đoán hậu quả<br /> Giới thiệu<br /> <br /> “Một kỹ năng quan trọng là dự đoán hậu quả của việc ứng dụng một thành tựu khoa học và xem xét khía c<br /> những hậu quả đó. Các em sẽ phải đưa những điều này vào các dự án học tập, do đó chúng ta sẽ bắt đầu <br /> về các cách thực hiện. Chúng ta hãy nói về việc nhân bản vô tính thú cưng. Những người quá thương mến<br /> mình có thể bỏ ra nhiều tiền để nhân bản vô tính con chó hoặc con mèo của họ. Để suy xét khía cạnh đạo<br /> động này, chúng ta có thể dựa theo các quá trình tư duy dưới đây:”<br /> 1.  Tại sao điều này được coi là một  Nhiều người có thể rất yêu quí con vật mà họ nuôi và bị suy sụp<br /> việc tốt? Có thể giúp những người này thoát khỏi tình trạng đau khổ khi c<br /> họ bị chết và mang lại niềm vui cho họ bằng cách cho họ có đượ<br /> thật giống y như thế nếu họ có khả năng trang trải chi phí cho v<br /> vật nuôi đó.<br /> 2.  Những gì khoa học vẫn chưa biết  Chúng ta không biết con vật nhân bản này có thể sống bao lâu.<br /> về công nghệ này? Chúng ta không biết có những vấn đề gì về sức khoẻ mà động vậ<br /> thể có hay không.<br /> 3.  Điều gì sẽ xảy ra nếu công nghệ  Người ta chỉ việc nhân bản con vật họ yêu quí và sau đó thì khôn<br /> này: nuôi mèo con hay chó con nữa.<br /> Nhiều người có thể để cho con vật họ nuôi chết (thậm chí là giế<br /> chỉ người rất giàu mới có khả  lợi bởi vì họ có thể có bản sao của nó mỗi khi họ muốn.<br /> năng thực hiện?<br /> Chi phí rẻ, tiện lợi và ai cũng có <br /> thể thực hiện?<br /> <br /> không có quy định nào của Nhà <br /> nước hoặc các cơ quan đoàn thể <br /> khác liên quan đến công nghệ <br /> này?<br /> 4.  Còn điều gì người ta có thể còn  Động vật nhân bản vô tính sẽ không giống chính xác như con vậ<br /> chưa biết về chủ đề này? giống con vật gốc ở bộ gen.<br /> 5.  Liệu việc ứng dụng công nghệ này  Nhân bản vô tính ở động vật có thể là một bước dẫn tới nhân bả<br /> còn tiến xa hơn nữa không? người, và gần như tất cả mọi người đều tin rằng đây là điều kh<br /> 6.  Nhân bản vô tính có đi ngược lại  Một số người cho rằng tạo ra sự sống nhân tạo là một việc làm<br /> với niềm tin về đạo đức căn bản <br /> không?<br /> “Em nào có thể nghĩ ra câu hỏi nào khác để giúp chúng ta xem xét các khía cạnh đạo đức của một thành tự<br /> không?” <br /> <br /> “Bây giờ, các em sẽ làm việc nhóm đôi thực hiện theo 5 bước về chủ đề cấy ghép nội tạng”<br /> Giáo viên hướng dẫn học sinh khi các em làm việc với các câu hỏi trong vòng 5­10 phút. Tiếp theo hoạt độ<br /> thảo luận. <br /> <br /> Giáo viên hỏi học sinh những câu hỏi như sau:<br /> “Các em có thay đổi các câu hỏi để phù hợp hơn chủ đề cấy ghép nội tạng không? Những loại chủ đề nào<br /> câu hỏi khác? Chúng ta có thể sử dụng cùng câu hỏi như trên cho các vấn đề mang tầm cỡ quốc gia hơn là<br /> hoá chất vào nước uống, hay không? Các em có thể thay đổi các câu hỏi cho các chủ đề khác nhau như thế<br /> Giáo viên có thể kết thúc bài học bằng cách yêu cầu học sinh chọn một chủ đề cho dự án học tập của các<br /> các câu hỏi để suy nghĩ về các khía cạnh đạo đức của thành tựu khoa học mà các em lựa chọn.<br /> <br /> <br /> <br /> ¡ TS. Nguyễn Mạnh Hưởng <br /> Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Kênh hình trong DHLS là loại phương tiện trực quan không thể thiếu, gồm tranh ảnh, lược <br /> đồ, phim tài liệu, sơ đồ, niên biểu,… Tất cả các loại lược đồ dù phản ánh về yếu tố địa lí, <br /> quân sự, chính trị hay kinh tế ­ xã hội nếu dùng trong nhà trường, trong hệ thống giáo dục <br /> quốc dân thì đều được gọi là lược đồ giáo khoa(*). Đây là đồ dùng trực quan quy ước, có tỉ lệ <br /> lớn trong hệ thống kênh hình hỗ trợ dạy – học, bên cạnh tranh ảnh LS (chiếm đa số). Xuất <br /> phát từ đặc trưng của quá trình học tập LS (HS không trực tiếp quan sát được sự kiện), nên <br /> sử dụng lược đồ giáo khoa sẽ góp phần quan trọng vào tạo biểu tượng, hình thành khái niệm <br /> cho các em, nhất là những lược đồ được thiết kế có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin <br /> (CNTT).<br /> Dưới đây, chúng tôi chia sẻ một số biện pháp hướng dẫn HS khai thác lược đồ giáo khoa LS <br /> với sự hỗ trợ của CNTT theo hướng phát huy tính tích cực của HS:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1. Bước chuẩn bị ở nhà (gắn liền với quá trình soạn giáo án): <br /> Trước tiên, GV nghiên cứu bài viết trong sách giáo khoa (SGK), xác định mục tiêu, kiến thức <br /> cơ bản của bài học, lựa chọn lược đồ chuẩn xác, như: không dùng lược đồ về Chiến tranh <br /> thế giới thứ nhất để dạy về Chiến tranh thế giới thứ hai; sử dụng lược đồ vừa nhằm minh <br /> họa, mà còn giúp HS “nhận biết” các địa danh LS, yếu tố địa lí trên bản đồ,… và “thông hiểu” <br /> sự kiện diễn ra như thế nào, cũng như mối liên hệ giữa chúng.<br /> Trên cơ sở đã xác định lược đồ cần sử dụng, GV tìm hiểu nội dung kiến thức LS “ẩn” trong <br /> mỗi lược đồ, gồm kiến thức về hoàn cảnh địa lí (đặc điểm địa hình, vùng lãnh thổ,…) và <br /> kiến thức LS, cũng như kí hiệu liên quan (hướng tấn công, rút lui, bó đuốc,….). Kiến thức LS <br /> “ẩn” trong mỗi lược đồ ít nhiều đã được bài viết trong SGK nhắc đến, thường là diễn biến <br /> của một chiến dịch, cuộc cách mạng, khởi nghĩa,…. Đây là một phần kiến thức cơ bản của <br /> bài học, nên GV cần đọc kĩ bài viết, kết hợp các nguồn tài liệu tham khảo liên quan để xây <br /> dựng bài tường thuật, miêu tả, hoặc lược thuật, giúp HS có biểu tượng và hiểu rõ hơn sự <br /> kiện. Tìm hiểu nội dung kiến thức LS trên lược đồ sẽ giúp GV định hướng được phương <br /> pháp (PP) sử dụng, dự kiến câu hỏi, tình huống sư phạm khi DH trên lớp. <br /> 2. Sử dụng trên lớp (tổ chức cho HS nghiên cứu kiến thức mới): Khi dạy đến nội dung cần <br /> khai thác, GV chiếu lược đồ lên màn hình, hướng dẫn các em quan sát. Kết hợp với PPDH <br /> đặc trưng (tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm, sử dụng câu hỏi,…), GV dùng que chỉ, hoặc <br /> tia laze tổ chức cho HS tìm hiểu kiến thức trên lược đồ theo hướng phát huy tính tích cực của <br /> HS như sau:<br /> Một, GV giới thiệu khái quát lược đồ theo vòng tròn đường chỉ kim đồng hồ, tỉ lệ và những kí <br /> hiệu cơ bản ở phần “Chú giải” (hướng tiến công của địch, hướng tiến công của ta, nơi quân <br /> địch nhảy dù – nếu có,…). Việc giới thiệu khái quát tên gọi và các kí hiệu của lược đồ sẽ có <br /> tác dụng định hướng và kích thích sự tò mò, chú ý của HS vào chủ đề, chuẩn bị tâm lí sẵn <br /> sàng, chờ đợi và hình thành động cơ tích cực tham gia tìm hiểu kiến thức.<br /> Hai, tiếp tục hướng sự chú ý của HS vào một số chi tiết quan trọng trên lược đồ, nêu câu hỏi <br /> gợi mở và hướng dẫn các em khai thác nội dung. Nếu là lược đồ LS về một trận đánh, GV <br /> nên cho các em tìm hiểu bài viết trong SGK, nhấn mạnh những ý chính về diễn biến, rồi đưa <br /> ra câu hỏi gợi mở, giúp HS tìm hiểu bản chất, ý nghĩa của sự kiện. Việc gợi ý và đặt câu hỏi <br /> không những kích thích tư duy và trí tưởng tượng của HS, mà còn giúp các em trung hơn vào <br /> sự kiện theo đúng kế hoạch sư phạm của GV, không bị phân tán tư tưởng. HS có một khoảng <br /> thời gian ngắn để suy nghĩ và trả lời câu hỏi theo gợi ý, các bạn trong lớp lắng nghe và bổ <br /> sung ý kiến.<br /> Ba, GV nhận xét, trình bày và chốt lại vấn đề, giúp HS hoàn thiện việc lĩnh hội kiến thức. <br /> Tuy nhiên, chúng ta không nên rập khuôn, máy móc trong quá trình hướng dẫn HS khai thác <br /> lược đồ. Tùy từng trường hợp và đối tượng HS mà GV có thể kết hợp nêu câu hỏi gợi mở, <br /> HS trả lời và GV nhận xét, trình bày luôn sự kiện sau đó. Khi hướng dẫn HS khai thác lược <br /> đồ LS thiết kế trên Power Point, flash, bằng kĩ thuật 3D (có hiệu ứng sinh động, được cụ thể <br /> hóa bằng hình ảnh), GV không nên lạm dụng kĩ thuật, tạo ra màu sắc lòe loẹt, có âm thanh lạ,<br /> … vì sẽ làm phân tán tư tưởng người học. Khi trình bày, hoặc hướng dẫn HS đọc lược đồ, <br /> GV lưu ý: nếu chỉ sông phải từ thượng nguồn xuống hạ nguồn, chỉ hướng phải nói rõ hướng <br /> Nam, Bắc, tây Bắc, tây Nam,…; nếu chỉ phạm vi địch chiếm đóng, vùng giải phóng phải theo <br /> đường chu vi,… tránh dùng từ chung chung (hướng này, hướng kia) để HS được nhận diện <br /> LS, không bị “hiện đại hóa” kiến thức. <br /> Cuối cùng, việc sử dụng đồ dùng trực quan nói chung, lược đồ giáo khoa LS nói riêng bao giờ <br /> cũng phải kết hợp chặt chẽ giữa câu hỏi với ngôn ngữ diễn đạt. Vì vậy, lời nói của GV phải <br /> rèn luyện sao cho trong sáng, rõ ràng và truyền cảm, cố gắng biểu thị được cảm xúc của <br /> người trong cuộc. Ví như, nếu tường thuật về diễn biến của chiến dịch lịch sử Điện Biên <br /> Phủ năm 1954, giọng của GV phải hào hùng, đanh thép, có khí thế tiến công để tác động lớn <br /> đến tư tưởng, tình cảm HS. <br /> 3. Kiểm tra kết quả hoạt động nhận thức của HS: GV yêu cầu HS khái quát lại nội dung trên <br /> lược đồ (theo ngôn ngữ và cách hiểu của các em), nhằm rèn luyện kĩ năng ghi nhớ, xác định vị <br /> trí địa lí, vùng diễn ra chiến sự, phân biệt được các vùng, lãnh thổ,... Đồng thời, kiểm tra mức <br /> độ ghi nhớ biểu tượng LS của HS liên quan đến lược đồ. Sau cùng, GV chuyển sang nội dung <br /> khác để tránh phân tán tư tưởng và mất sự tập trung của HS.<br /> 4. Thể hiện những lí luận trên, chúng tôi lấy ví dụ về lược đồ “Chiến thắng Bạch Đằng năm <br /> 938” để dạy nôi dung “Ngô Quy<br /> ̣ ền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938”, (Bài 16. Thời Bắc <br /> thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, SGKLS 10, chương trinh chuân). L<br /> ̀ ̉ ược đồ <br /> thiết kế trên phần mềm flash, khi sử dụng thì có sự hỗ trợ của máy vi tính, kết nối với <br /> projector. Sau khi đã xác định mục tiêu, kiến thức cơ bản của bài học, loại lược đồ và nội <br /> dung kiến thức cần truyền đạt cho HS, chúng tôi hướng dẫn các em khai thác như sau:<br /> Trước tiên, CNTT được GV sử dụng hỗ trợ cho HS quan sát, nhận biết những kí hiệu trên <br /> lược đồ: nơi quân ta phục kích trên bờ, nơi Ngô Quyền cho quân và dân ta đóng bãi cọc ngầm, <br /> đường tiến công của địch, quân ta tấn công, thủy quân ta đánh nhử, thuyền của Hoằng Tháo <br /> và thuyền của chủ tướng Ngô Quyền. Sau khi HS nhận biết được các kí hiệu quan trọng trên <br /> lược đồ, GV yêu cầu các em tìm hiểu SGK, kết hợp quan sát hình để hiểu được nghệ thuật <br /> đánh giặc của Ngô Quyền. Nhằm phát huy tính tương tác giữa thầy và trò, GV nêu một số câu <br /> hỏi gợi mở: Khi quân Nam Hán chuẩn bị kéo vào xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã thực hiện <br /> kế sách gì? Lúc thuỷ quân của Hoằng Tháo kéo đến cửa biển Bạch Đằng, Ngô Quyền đã làm <br /> gì để nhử và đánh địch? Kết quả của trận thuỷ chiến ra sao?<br /> HS tìm hiểu SGK, suy nghĩ và trả lời xong, GV nhận xét rồi vận dụng linh hoạt các PP, thao <br /> tác sư phạm để tường thuật và miêu tả trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng. Lúc này, CNTT <br /> vừa là đồ dùng trực quan hiện đại, vừa là nguồn kiến thức và minh họa cho sự kiện HS đang <br /> học. Các đối tượng lần lượt được xuất hiện theo trình tự và chủ định sư phạm của GV (nhân <br /> dân chặt cây, đóng cọc ở trận địa, quân ta mai phục, thủy triều lên xuống,…), kèm theo hình <br /> ảnh minh họa, hỗ trợ cho bài tường thuật (Hình bên):<br /> “Sông Bạch Đằng có tên nôm là sông Rừng, vì hai bên bờ sông toàn là rừng rậm. Hạ lưu sông <br /> thấp, độ dốc không cao nên ảnh hưởng của thuỷ triều lên xuống rất mạnh, chênh nhau đến <br /> 3m. Khi thủy triều lên, lòng sông rộng mênh mông đến cả nghìn mét, sâu tới chục mét. Biết rõ <br /> quân địch sẽ kéo vào nước ta theo đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã huy động cho quân, <br /> dân lên rừng chặt gỗ, đẽo nhọn đầu và bịt sắt, đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng tại <br /> những nơi hiểm yếu. Số cọc đóng xuống lòng sông lên tới hàng nghìn chiếc. Lúc nước triều <br /> lên, bãi cọc chìm trong một biển nước mênh mông. Phía trên bãi cọc ngầm, Ngô Quyền còn <br /> bố trí lực lượng thuỷ binh ẩn nấp hai bên bờ sông. Nhiều thuyền được giấu kín trong các bụi <br /> lau sậy chờ đợi. Hàng ngàn quân bộ được trang bị cung nỏ sẵn sàng, ngày đêm mai phục. <br /> Ngô Quyền đích thân cầm quân ra trận. <br /> Vào một ngày mưa rét giữa mùa Đông năm 938, Lưu Hoằng Tháo cầm đầu thuỷ quân Nam <br /> Hán tiến vào cửa sông Bạch Đằng đánh chiếm nước ta. Đợi cho nước thủy triều lên ngập hết <br /> trận địa bãi cọc, Ngô Quyền cho một số thuyền nhỏ do tướng Nguyễn Tất Tố chỉ huy kéo ra <br /> đánh nhử địch, rồi vờ thua rút chạy. Hoằng Tháo hăm hở thúc quân đuổi theo, vượt qua trận <br /> địa bãi cọc ngầm của ta mà không biết. Ngô Quyền chỉ huy quân ta cầm cự với giặc. <br /> Khi nước thuỷ triều rút, Ngô Quyền liền ra lệnh phản kích. Những mũi tên từ các vách đá vun <br /> vút lao ra như mưa, hàng trăm thuyền của ta cùng bất ngờ xuất hiện. Quân giặc hoảng hốt <br /> quay đầu tháo chạy. Ra đến gần cửa sông, đúng lúc nước triều rút mạnh. Bãi cọc ngầm nhô <br /> lên. Quân ta dồn sức tấn công. Quân từ phía thượng lưu đánh xuống, quân mai phục từ hai bên <br /> bờ sông và quân thuỷ từ các sông nhánh xông ra đánh tạt ngang. Đội hình thuyền của địch rối <br /> loạn, xô vào nhau, va phải bãi cọc ngầm bị thủng vỡ, đắm rất nhiều. Thuyền của địch không <br /> sao thoát ra biển được. Quân địch bỏ cả chèo lái, nhảy xuống sông, phần bị giết, phần chết <br /> đuối, thiệt hại quá nửa. Hoằng Tháo bỏ mạng nơi đây. Thất bại nặng nề của đạo thuỷ quân <br /> Hoằng Tháo đã làm cho vua Nam Hán kinh hoàng, chỉ biết thương khóc con trai và hạ lệnh rút <br /> quân tiếp ứng, hoàn toàn bỏ mộng xâm lược nước ta”[1].<br /> Kết thúc phân t<br /> ̀ ường thuật và miêu tả, GV nêu câu hỏi để HS thảo luận, rút ra nhận xét: Em <br /> có nhận xét gì về nghệ thuật đánh giặc của Ngô Quyền? Tại sao nhà sử học Ngô Thì Sĩ ở thế <br /> kỷ XVIII lại đưa ra lời nhận định: “Trận thắng lợi trên sông Bạch Đằng là cơ sở sau này cho <br /> việc phục lại quốc thống?”<br /> Cuối cùng, GV chốt lại: Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 thể hiện nghệ thuật độc đáo, sáng <br /> tạo của Ngô Quyền đã biết lợi dụng thiên thời, địa lợi và  nhân hoà. Chiến thắng Bạch Đằng <br /> năm 938 của Ngô Quyền đã chấm dứt hơn 1.000 năm nước ta bị các triều đại phong kiến <br /> phương Bắc thống trị, mở ra một thời đại mới ­ thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc <br /> ta.<br /> Như vậy, sử dụng CNTT để hướng dẫn HS khai thác lược đồ giáo khoa LS thể hiện PPDH <br /> tích cực, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. Xưa kia, để tạo biểu tượng cho HS về hoàn <br /> cảnh địa lí và diễn biến của chiến thắng Bạch Đằng năm 938, GV chủ yếu sử dụng lược đồ <br /> treo tường và lược đồ trong SGK. Nhưng, những lược này đều hạn chế ở tính trực quan, <br /> thẩm mĩ (do có nhiều kí hiệu tượng trưng, đối tượng nhận thức lại luôn ở dạng “tĩnh”,…), <br /> ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng nhận thức của HS, nhất là khi tư duy trừu tượng. Khi sử <br /> dụng, GV còn mất thời gian (tìm vị trí treo và cất lược đồ), yếu tố bất ngờ không còn, hạn <br /> chế tầm nhìn đối với HS ngồi cuối lớp,… Tất cả những hạn chế trên sẽ được khắc phục <br /> nhờ khai thác ưu điểm của CNTT. Trên cùng một lược đồ LS, CNTT đã hỗ trợ cho GV liên <br /> kết hình ảnh minh họa, tạo hiệu ứng sinh động về thủy triều lên xuống, thuyền chiến của <br /> giặc xuất hiện,… theo lôgic bài tường thuật và ý tưởng sư phạm của GV. Vì thế, quan sát <br /> lược đồ, HS không chỉ có biểu tượng sinh động về sự kiện, mà còn khắc sâu, nhớ lâu kiến <br /> thức, hiểu được mối quan hệ giữa các yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Sự kết hợp hài <br /> hòa giữa ngôn ngữ tường thuật, miêu tả và nghệ thuật sư phạm của GV trên lược đồ đã góp <br /> phần nâng cao hiệu quả giáo dục và rèn luyện kĩ năng diễn đạt cho HS. Các em sẽ cảm thấy <br /> vui mừng, tự hào khi nghe GV phân tích nghệ thuật quân sự đánh giặc của Ngô Quyền, sau <br /> này được Lê Hoàn và Trần Hưng Đạo kế tục.<br /> *  *<br /> *<br /> Kênh hình, trong đó có lược đồ giáo khoa là phương tiện dạy – học không thể thiếu đối với <br /> GV và HS. Xuất phái từ đặc trưng của loại đồ dùng trực quan quy ước, việc ứng dụng CNTT <br /> vào DHLS là hết sức quan trọng, nhưng phải đảm bảo theo hướng phát huy tính tích cực <br /> người học, vì “LS không phải là một chuỗi các sự kiện mà người viết sử ghi lại, rồi người <br /> dạy sử đọc lại và người học sử lại học thuộc lòng” (Phạm Văn Đồng)[2]. Biện pháp mà <br /> chúng tôi nêu trên nếu được GV vận dụng linh hoạt, thường xuyên sẽ góp phần tích cực vào <br /> cải thiện chất lượng bộ môn, làm cho HS thêm say mê, hứng thú, yêu thích học tập LS./.<br /> <br /> <br /> <br /> Tài liệu tham khảo<br /> 1. Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng. Hướng dẫn sử dụng kênh hình <br /> trong SGKLS lớp 10. Nxb Giáo dục. Hà Nội, 2009, tr.109<br /> 2. Dẫn theo: Phan Ngọc Liên (Chủ biên). Nhập môn sử học. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. <br /> Hà Nội, 2006, trang 168.<br /> 3. Phan Ngọc Liên (Chủ biên). Phương pháp DHLS (tập 1 và 2). Nxb ĐHSP. Hà Nội, 2002. <br /> 4. Nguyễn Mạnh Hưởng – Sử dụng CNTT và truyền thông vào DHLS ở trường phổ thông. <br /> Tạp chí Giáo dục, số 133 (3/2006). <br /> 5. Nguyễn Mạnh Hưởng – Các biện pháp nâng cao hiệu quả bài học LS ở trường THPT với <br /> sự hỗ trợ của CNTT. Tạp chí Giáo dục, số 202 (11/2008).<br /> 6. Quách Tuấn Ngọc – Đổi mới phương pháp dạy học bằng CNTT ­ xu thế của thời đại. Tạp <br /> chí Đại học và giáo dục chuyên ngành, số 8, 1999.<br /> <br /> MỘT HƯỚNG KHAI THÁC MỚI <br /> KHI DẠY HỌC CÁC VĂN  BẢN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS<br /> *  Bùi Vĩnh Trường Giang<br />                                                 Trường THCS Cẩm Hòa Cẩm Xuyên Hà Tĩnh<br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ:<br /> <br /> Trong chương trinhg Ngữ Văn THCS bao gồm nhiều loại truyện: truyện cổ dân gian, truyện <br /> ngắn, kí sự hoặc đoạn trích tiểu thuyết rất đa dạng, phong phú. Có những tác phẩm rất ngắn <br /> (truyện ngụ ngôn) có thể dễ dàng cảm nhận nó, cũng có những tác phẩm rất dài, tình tiết éo <br /> le mà với lượng thời gian có hạn theo quy định; với phương châm dạy học theo tinh thần đổi <br /> mới: lấy học sinh làm trung tâm điều này buộc giáo viên phải có cách khai thác hướng dẫn <br /> học sinh tiếp cận văn bản như thế nào để đạt được hiệu quả cao.<br /> <br /> II. NỘI DUNG:<br /> <br /> Hiện nay hòa nhịp với đổi mới phương pháp dạy ­ học đặc biệt là phát huy tính tích cực sáng <br /> tạo của học sinh, phương pháp tích hợp trong dạy học Ngữ Văn ở trường THCS do đó người <br /> giáo viên phải dự định trước các tình huống xẩy ra và vạch rõ trước hướng tổ chức điều <br /> khiển học sinh trên lớp cho phù hợp; phải lên kế hoạch làm sao quá trình dạy ­ học phải diễn <br /> ra rất nhịp nhàng, phải huy tính trung tâm tích cực chủ động sáng tạo của học sinh thì mới có <br /> hiệu quả cao trong quá trình khai thác chiếm lĩnh một văn bản.<br /> <br /> Qua thực tế nhiều năm trực tiếp cầm phấn, thăm lớp dự giờ của đồng nghiệp, tôi luôn trăn <br /> trở tìm tòi và đặc biệt yêu thích môn Ngữ Văn tôi thấy nhiều giáo viên có kết quả chưa cao <br /> khi hướng dẫn học sinh khai thác văn bản với nhiều nguyên nhân khác nhau: do xác định mục <br /> tiêu chưa đúng, chưa đi đúng trọng tâm bài giảng hoặc có thể xác định chưa rõ ràng; quá trình <br /> chuẩn bị giáo án chưa kĩ hoặc có thể trong quá trình giảng dạy chưa biết phát huy tính chủ <br /> động tích cực sáng tạo của học sinh, giáo viên làm thay học sinh quá nhiều.<br /> <br /> Vậy những tồn tại đó cũng có những nguyên nhân của nó? Qua trao đổi với giáo viên đồng <br /> nghiệp sau khi dự giờ thăm lớp cho thấy đa số giáo viên dựa vào tài liệu hướng dẫn do đó <br /> cảm thụ văn chương thiếu tính chủ động, thiếu linh hoạt sáng tạo  nên kiến thức dễ bị áp <br /> đặt; nhiều giáo viên chưa thực sự tâm huyết với tác phẩm, chưa sống với cái hồn của văn  <br /> bản, với nhân vật trong tác phẩm nên tiếp cận văn bản chưa sâu. Cũng có nhiều giáo viên <br /> chưa dành nhiều thời gian cho việc đọc sách nghiên cứu tài liệu nên ngôn ngữ còn nghèo nàn <br /> hặc bài soạn rời rạc thiếu tính liên kết lôgic, giáo án chỉ là chiếu lệ đối phó, chưa có chiều <br /> sâu nên hiệu quả của khai thác văn bản chưa sâu. Cũng có nhều giáo viên còn thiếu kinh <br /> ghiệm hoặc năng lực còn hạn chế nên hiệu quả của việc hướng dẫn học sinh tiếp cận khai <br /> thác một văn bản chưa được như mong muốn.<br /> <br /> Trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp cận khai thác văn bản tôi đã mạnh dạn đưa ra một <br /> hướng khai thác xin đưa ra để cùng đồng nghiệp gần xa cùng trao đổi:<br /> <br /> 1. Chuẩn bị:<br /> ­  Cả giáo viên và học sinh phải đọc nhiều lần và có cách suy ngẫm nhiều lần về tác phẩm.<br /> <br /> ­ Nắm được đặc trưng của truyện, truyện đó thuộc thể loại nào để có hướng khai thác.<br /> <br /> ­ Nắm vững và tóm tắt được nội dung chính cũng như kể sáng tạo được tác phẩm.<br /> <br /> ­ Nắm rõ các chi tiết, các nhân vật trên cơ sở đó có cách nhìn tổng quát để có sự mở rộng liên <br /> tưởng về số phận cuộc đời của từng nhân vật trong truyện.<br /> <br /> ­ Để làm tốt khâu chuẩn bị người giáo viên nhất thiết phải đọc sách kĩ SGK, sách tham khảo, <br /> hướng dẫn mang tính cập nhật đặc biệt là sách hướng dẫn giảng dạy của Bộ GD &ĐT. Đây <br /> là những tài liệu cơ bản nhất mà giáo viên không thể không tham khảo để có kế hoạch lập <br /> bài giảng chu đáo.<br /> <br /> 2. Lên lớp:<br /> <br /> ­ Tác giả tác phẩm: Làm thế nào để học sinh rút ra được nét chính về cuộc đời và sự nghiệp <br /> của tác giả.<br /> <br /> ­ Đọc, kể, chú thích, tìm hiểu bố cục: giúp học sinh rút ra được chi tiết của tác phẩm, kể và <br /> kể sáng tạo bằng ngôn ngữ của mình. Do đó trong quá trình đọc nên cho học sinh đọc trước ở <br /> nhà lên lớp chỉ đọc được toàn văn bản một lần hặc chỉ đọc được các đọn trích để giúp tiếp <br /> cận khai thác văn bản. Trên cơ sở đó học sinh sẽ tìm được bố cục của văn bản theo hướng <br /> tiếp cận.<br /> <br /> ­ Phân tích tác phẩm: giáo viên giúp học sinh bám sát cốt truyện cũng như tình huống trong tác <br /> phẩm để dẽ phân tích khai thác đúng hướng.<br /> <br /> Ví dụ: Khi khai thác văn bản "Ông lão đánh cá và con cá vàng" thì cần chú đến các nhân vật <br /> ông lão, mự vợ, cá vàng, biển cả và các tình huống xẩy ra khi đọc tác phẩm cũng như mỗi lần <br /> ra biển của ông lão và sự biểu hiện của biển sau mỗi lần ông lão ra xin.<br /> <br /> Trong quá trìn hướng dẫn học sinh tiếp cận và khai thác văn bản giáo viên phải buộc học sinh <br /> đi từ phát hiện bám sát các chi tiết của truyện, hiện tượng văn học để phân tích kĩ và sâu hơn, <br /> đúng hướng hơn. Đồng thời cũng có những câu hỏi tạo tình hướng có vấn đề và câu hỏi có <br /> tính tưởng tượng. Ví dụ: Em hãy tưởng tượng tâm trạng của Vũ Nương khi chồng trở về <br /> (chuyện người con gái Nam Xương); tâm trang của Ông giáo khi Lão Hạc chết (Lão Hạc)....<br /> <br /> Tuy nhiên nhiều lúc cũng có những câu hỏ lật ngược lại vấn đề. Ví dụ: Tại sao tác giả lại để <br /> cho anh lính năm xưa làm nghề cắt tóc, có pahir là ngẫu nhiên hay là dụng ý của tác giả?<br /> <br /> Sau khi phân tích tác phẩm xong giáo viên cần định hướng để học sinh rút ra được nhận xét <br /> đánh giá về nhân vật để từ đó nêu ra được ý nghĩa của truyện.<br /> ­ Tổng kết: Đây là việc làm giúp học sinh tìm ra được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm; <br /> là điểm mấu chút để đánh giá được tài năng của nhà văn và cũng là điểm để đánh giá được tài <br /> nghệ sư phạm của người cầm phấn trong lĩnh vực văn học. Điều quan trọng là giúp học sinh <br /> từ điểm nhìn nghệ thuật để làm rõ được nội dung của văn bản, có cahs nhìn tổng quát về tác <br /> phẩm đã học, làm cho học sinh có tình yêu với văn học.<br /> <br /> ­ Hướng dẫn ở nhà: cần quan tâm đúng mức không được phép làm chiếu lệ. Khâu này giúp <br /> học sinh cũng cố và nâng cao kiến  của bài học. Từ đó tạo cho học sinh phát triển toàn diện <br /> về trí tuệ, tâm hồn, nhân cách cũng như năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.<br /> <br /> Ví dụ một giáo án cụ thể:  Chị em Thúy Kiều<br /> <br /> I­ ĐỌC ­ CHÚ THÍCH ­ BỐ CỤC:<br /> 1. Đọc: Giáo viên đọc ­ gọi 2 em học sinh đọc.<br /> 2. Chú thích: Các em chú ý tìm hiểu kỹ các chú thích trong SGK.<br /> ? Đoạn trích nằm ở vị trí nào của tác phẩm?<br /> + Vị trí đoạn trích: Nằm ở phần đầu của Truyện Kiều giới thiệu gia cảnh nhà Vương ông <br /> Viên Ngoại, đặc biệt là hai chị em Kiều ­ Vân.<br /> 3. Bố cục:<br /> ? Chúng ta nên tiếp cận đoạn trích bằng cách nào?<br /> + Theo kết cấu đoạn trích<br /> ? Theo em đoạn trích này chia làm mấy phần?<br /> Mỗi phần tương ứng vơí mấy câu?<br /> + Đoạn trích chia làm 4 phần:<br /> ­ Phần 1: Bốn câu đầu: Giới thiệu khái quát hai chị em.<br /> ­ Phần 2: Bốn câu tiếp: Tả Thuý Vân<br /> ­ Phần 3: Mười hai câu tiếp: tả Thuý Kiều<br /> ­ Phần 4: Bốn câu cuối: Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.<br /> ? Tại sao nói với đoạn trích này Nguyễn Du xứng đáng là người thầy tài năng và nghệ thuật <br /> khắc hoạ nhân vật ­ ta sang phần phân tích.<br /> II. PHÂN TÍCH:<br /> 1. Hình ảnh hai chị em:<br /> ? Màn hé mở, hai chị em Kiều và Vân hiện ra trước mắt người đọc như thế nào?<br /> + Chỉ với từ “Tố Nga” Nguyễn Du đã đủ gây ấn tượng trong lòng người đọc về hai người <br /> con gái xinh đẹp.<br /> ? “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” em có nhận xét gì về lối miêu tả của nhà thơ? (Gợi ý: Mai và <br /> tuyết là hình ảnh biểu tượng điều gì?).<br /> Ngay từ đầu đoạn trích, nhà thơ đã sử dụng biện pháp ước lệ, tượng trưng mượn vẻ đẹp của <br /> cây hoa mai và bông tuyết để khắc hoạ vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng của người <br /> thiếu nữ. Những người con gái tuyệt mỹ “Mười phân vẹn mười” là món quà vô giá mà tạo <br /> hoá ban tặng cho gia đình Vương ông. Nhưng cả hai người đều mang vẻ đẹp riêng: “Mỗi <br /> người một vẻ” không trộn lẫn vào nhau.<br /> Và rồi sau vài dòng ngắn gọn, ngòi bút của thi sĩ tập trung soi sáng từng nhân vật.<br /> ­ Gọi học sinh đọc: Bốn câu thơ tiếp theo.<br /> 2. Chân dung Thuý Vân.<br /> ? Cảm nhận đầu tiên của em về cách miêu tả nhân vật của nhà thơ? (Gợi ý: Nguyễn Du tiếp <br /> tục sử dụng bút pháp nào?)<br /> ­ Vẻ đẹp của người thiếu nữ được so sánh với hình tượng thiên nhiên, những ước lệ cho vẻ <br /> đẹp cao quý trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc (đây là một bút pháp quen thuộc thường gặp <br /> trong thơ trung đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhận định).<br /> “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp<br /> Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”.<br /> Để rồi trên nền thiên nhiên tươi đẹp ấy, ngòi bút đặc tả của nhà thơ đã khắc hoạ nhân vật, <br /> cụ thể, chi tiết: Khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói.<br /> ? Vậy dựa vào những hình ảnh trên bằng trí tưởng tượng của mình, em hãy vẻ lại hình ảnh <br /> nàng Thuý Vân bằng ngôn ngữ văn học cuả em?<br /> + Với lối ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ, Nguyễn Du đã vẻ ra trước mắt người đọc hình ảnh <br /> Thuý Vân có khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn, sáng tỏ như trăng rằm, lông mày sắc đậm như mày <br /> ngài, miệng cười tươi như hoa nở, giọng nói trong như ngọc, mái tóc óng ả như mây, làn da <br /> trắng mịn hơn tuyết.<br /> ? Vẻ đẹp của nàng có gì đặc biệt?<br /> Dụng ý cuả nhà thơ gửi gắm qua hình ảnh nhân hoá: “Mây thua”, “Tuýêt nhường”.<br /> Rõ ràng chỉ có bốn dòng thơ, Thuý Vân đã chiếm được cảm tình người đọc bởi vẻ đẹp phúc <br /> hậu mà rất đổi quý phái, cao sang, đoan trang, thánh thiện, căng tròn nhựa sống. Dường như <br /> nàng có trong tay sự ưu ái của cuộc đời, thiên nhiên củng phải nghiêng mình, lùi bước để <br /> nàng đến với cuộc sống rất đỗi êm đềm, bình lặng. Cuộc đời dang rộng vòng tay mỉm cười <br /> với nàng.<br /> Và rồi từ cô em, ống kính của thi sĩ nghiêng hẳn về cô chị.<br /> 3. Chân dung Thuý Kiều:<br /> Gọi học sinh đọc mười hai câu tiếp theo<br /> ­ Giáo viên đọc câu: “Kiều càng.... hơn”<br /> ? So sánh với lời kể của tác giả của Thanh Tâm tài nhân trong Kim Vân Kiều Truyện với <br /> đoạn trích ở SGK? Em thấy trình tự có gì thay đổi?<br /> Rõ ràng trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm kể Kiều trước Vân sau còn ở đây Nguyễn <br /> Du  lại tả ngược lại? Liệu nhà thơ có vô tình hay không? Vận dụng lối tả ngược lại là gì?<br /> ­ Thuý Vân đã làm sửng sốt người đọc khi được chiêm ngưỡng người con gái tuyệt sắc. Để <br /> rồi trên nền cô em nhà thơ không cần miêu tả cô chị kỹ lưỡng mà chỉ điểm nhẹ theo lối đòn <br /> bẩy. Với các phụ từ: “càng”, “so bề”, “lại là”, “phần hơn” để tô đậm, tôn vinh nàng Kiều. <br /> Nàng lại tuyệt mỹ hơn nữa không chỉ về sắc đẹp mà cả về tài năng. Ngòi bút tài hoa, sáng tạo <br /> của Đại thi hào chính là ở chổ đó.<br /> “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”.<br /> ? Đến với câu thơ này, tác giả còn có dùng lối tả chi tiết  như Thuý Vân nữa không?<br /> Khi kí hoạ chân dung Kiều, người viết đã chú ý gợi tả “đôi mắt” với lối điểm nhãn.<br /> ? Vậy đôi mắt của Kiều có gì đặc biệt? Nghệ thuật miêu tả của nhà thơ?<br /> ­ Một lần nữa Nguyễn Du lại sử dụng hình ảnh ước lệ “làn thu thuỷ” để lột tả đôi mắt trong <br /> sáng long lanh nhưng lại vời vợi, mênh mang, thăm thẳm như nước hồ mùa thu. Phải chăng <br /> đó là đôi mắt của một tâm hồn đa sầu đa cảm, ẩn chứa bao nỗi niềm.<br /> ? Vậy khi tả Kiều và Vân, vẻ đẹp của hai cô gái có gì khác nhau? (Giáo viên gợi ýG: Thuý <br /> Vân hiện lên có hồn chưa, tại sao?)<br /> Dù tả Vân kỹ lưỡng đến bao nhiêu, Nguyễn Du vẫn còn chỗ trang trọng nhất dành cho Thuý <br /> Kiều, xem ra Thuý Vân chưa có hồn mà chỉ khi đến với Thuý Kiều vẻ đẹp của nàng mới có <br /> linh hồn thật sự qua đôi mắt tinh anh, chứa đựng cảm xúc, trí tuệ, vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà”.<br /> ? “Một hai nghiêng nước nghiêng thành.  Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai” . Sơ với vẻ đẹp <br /> phúc hậu, cao sang của Vân, vẻ đẹp của Kiều có gì quyến rũ hơn?<br /> ­ Kiều cũng mang vẻ đẹp đầy xuân sắc nhưng lại lộng lẫy, rực rỡ, say  đắm lòng người, vẻ <br /> đẹp có sức quyến rũ “nghiêng nước nghiêng thành”. Đặc biệt hơn nàng có tài năng phi phàm? <br /> Vậy Kiều có những tài năng gì đặc biệt?<br /> Tài năng của nàng đạt đến mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mỹ của thời phong kiến: <br /> Cầm­ kỳ­ thi­ hoạ. Là người con gái thông minh, Thuý Kiều còn tài vẽ, đánh cờ, làm thơ. Thơ <br /> của nàng từng động lòng hồn ma Đàm Tiên, làm xúc động Thúc Ông, đặc biệt Kiều có tài <br /> đánh đàn, nàng đã từng đánh đàn cho Kim Trọng ngẩn ngơ, Hoạn Thư phải sững  sốt, Hồ Tôn <br /> Hiến phải ngây ngất. Mỗi giọt âm thanh từ tiếng đàn của Kiều mang bao cung bậc tâm trạng.<br /> ? Ở đây Nguyễn Du miêu tả cung đàn của Kiều có thánh thót bay bổng tràn trề niềm vui <br /> không? Dựa vào câu nào mà em biết?<br /> “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”<br /> Cung đàn bạc mệnh mà nàng tự sáng tác chính là tấm lòng của một trái tim đa sầu đa cảm, dự <br /> báo một số phận bạc bẽo, hẩm hiu làm cho người nghe não nề buồn thảm.<br /> ? Vậy qua mười hai câu thơ, chân dung Kiều lay động lòng người ở chỗ nào?<br /> Dưới ngòi bút tài năng của đại thi hào, Kiều hiện lên với sắc đẹp kiêu sa, mê đắm lòng người <br /> và bàn tay nghệ sỹ bẩm sinh hơn người.<br /> ? Thế nhưng liệu số phận ưu ái, cuộc đời có dang rộng vòng tay với người con gái tuyệt vời <br /> ấy không? Câu thơ nào cho em biết điều đó?<br /> Không giống như Thuý Vân, vẻ đẹp tài năng của cô chị khiến thiên nhiên phải đố kỵ, hờn <br /> ghét “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Phải chăng dự báo số phận dữ dội đầy giông <br /> bão đang rình rập chờ đợi nàng ở phía trước. Để rồi sau vẻ “Êm đềm trướng rủ màn che”  <br /> đang tiềm ẩn tai hoạ sắp gõ cửa gia đình Vương Ông.<br /> ? Vậy qua đoạn trích Nguyễn Du muốn gửi gắm điều gì cho người đọc?<br /> III­ TỔNG KẾT:<br /> 1. Nội dung:<br /> Đoạn trích đề cao vẻ đẹp., nhân phẩm, tài năng, khát vọng. Đồng thời dự báo, tiên báo về số <br /> phận bất hạnh của con người.<br /> ­> Đây chính là cảm hứng nhân đạo cao cả làm nên sức sống bất hủ của tác phẩm:     <br />         “Nỗi chìm kiếp sống lênh đênh<br /> Tố như ơi lệ chảy quanh thân Kiều”<br /> 2. Nghệ thuật:<br /> ? Ngòi bút thiên tài Nguyễn Du trong nghệ thuật khắc hoạ nhân vật?<br /> Đoạn trích là minh chứng cho ngòi bút cổ điển, ước lệ, tượng trưng cùng những sáng tạo <br /> tuyệt vời của đại thi hào.<br /> ? Thử so sánh với đoạn trích Kim Vân Kiều Truyện trong SGK?<br /> Rõ ràng Thanh Tâm tài nhân chỉ kể lại nhân vật một cách khô khan, đơn thuần, không hề bộc <br /> lộ cảm xúc. Ngược lại, Nguyễn Du đã thực sự hoá thân vào nhân vật với tất cả niềm mến <br /> yêu trân trọng, trái tim trĩu nặng ấm nóng tình yêu thương của mình.<br /> ? Liệu rồi số phận của nàng Kiều có đúng với lời tiên tri của nhà thơ hay không? Ngòi bút <br /> thiên tài của Nguyễn Du qua nghệ thuật tả cảnh, khắc hoạ tâm trạng nhân vật ra sao. Các <br /> đoạn trích sau các em sẽ được tìm hiểu.<br /> IV­ Dặn dò hướng dẫn ở nhà:<br /> ­ Về nhà đọc thuộc lòng đoạn trích trên.<br /> ­ Tìm hiểu nghệ thuật khắc hoạ nhân vật đặc sắc của nhà thơ.<br /> ­ Soạn “Cảnh ngày xuân”.<br /> C­ KẾT LUẬN<br /> Qua hướng dẫn dắt trên, tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú học, giờ học khá sinh động, <br /> được giáo viên trong trường đánh giá thành công. Đặc biệt thể hiện được tinh thần thay sách, <br /> phát huy được hiệu quả của phương pháp mới. Bởi vậy, tôi mạnh dạn trình bày hướng khai <br /> thác văn bản của mình để cùng trao đổi, chắc còn nhiều thiếu sót. Kính mong bạn bè đồng <br /> nghiệp cùng trao đổi để bài viết này được hoàn thiện hơn./<br /> <br /> ̣ ̣<br /> MÔT SÔ BIÊN PHAP GIUP HOC SINH REN LUYÊN KI NĂNG KHAI THAC L<br /> ́ ́ ́ ̣ ̀ ̣ ̃ ́ ƯỢC ĐỢT <br /> NHIÊN TRONG PHÂN ĐIA LI T ̀ ̣ ́ Ự NHIÊN 7 KHI HOC BAI DANG THIÊN NHIÊN
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2