intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kết cấu kinh tế của đô thị Vị Hoàng (thế kỉ XIX)

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

21
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết giới thiệu về kết cấu kinh tế của đô thị Vị Hoàng thế kỉ XIX gồm các chủ thể như mạng lưới chợ, bến, phố hàng buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp. Trong đó cảng bến sông, chợ Vị là yếu tố đóng vai trò then chốt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kết cấu kinh tế của đô thị Vị Hoàng (thế kỉ XIX)

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017<br /> <br /> <br /> <br /> Kết cấu kinh tế của đô thị Vị Hoàng (thế kỉ XIX)<br /> The economic structures of Vi Hoang township in the 19th century<br /> <br /> TS. Trần Thị Thái Hà,<br /> Trường Đại học Sài Gòn<br /> <br /> Tran Thi Thai Ha, Ph.D.,<br /> Saigon University<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Thế kỉ XVII – XVIII - XIX chứng kiến một thời kì phát triển thịnh đạt của thương nghiệp Đại Việt dưới<br /> tác động của nhiều yếu tố ngoại sinh và nội sinh. Sự phát triển của các hoạt động buôn bán trao đổi đã<br /> làm hình thành một số tụ điểm buôn bán có tính chất địa phương hay đô thị lớn nhỏ trên khắp mọi miền<br /> của đất nước mà Vị Hoàng (Nam Định) là một trường hợp tiêu biểu, đại diện cho khu vực đông nam hạ<br /> châu thổ sông Hồng.<br /> Ra đời và hưng thịnh muộn hơn so với Thăng Long – Kẻ Chợ, Phố Hiến, Hội An, đô thị Vị Hoàng<br /> không có được dáng dấp của một trung tâm thương mại phồn thịnh trong giai đoạn sôi động của các<br /> hoạt động hải thương quốc tế. Mặc dù vậy, với những lợi thế riêng của mình về vị trí, về tiềm năng của<br /> vùng hạ châu thổ gần sông cận biển, Vị Hoàng từng bước vươn lên, khẳng định vai trò là một tiền cảng<br /> của Thăng Long – Hà Nội trong thế kỉ XVIII – XIX, một đô thị cảng sông cận biển quan trọng của khu<br /> vực Bắc Bộ thời kì tiền thuộc địa trên nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến quốc phòng an ninh.<br /> Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu về kết cấu kinh tế của đô thị Vị Hoàng thế kỉ<br /> XIX gồm các chủ thể như mạng lưới chợ, bến, phố hàng buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp. Trong<br /> đó cảng bến sông, chợ Vị là yếu tố đóng vai trò then chốt.<br /> Từ khóa: đô thị, chợ Vị Hoàng, phố Vị Hoàng, đô thị Vị Hoàng, Nam Định, Đò Chè, Bến Gỗ, Bến Củi,<br /> Bến Thóc.<br /> The period of the prosperous development of Dai Viet commerce was witnessed for 3 centuries (from<br /> the 17th to 19th century), forming some local commercial centres or townships nationwide, one of which<br /> was Vi Hoang town (Nam Dinh province) in southeast lower section of Red River Delta. Vi Hoang<br /> emerged and prosperously developed later than some centres like Thang Long-Ke Cho, Pho Hien or Hoi<br /> An, but thanks to its potential and favourable situation, it had gradually affirmed its role as a prior-port<br /> to Thang Long-Ha Noi capital in the 18th and 19th centuries and as an important river port township by<br /> sea in Tonkin during the prior-colonial period. This article presents the economic structures of Vi<br /> Hoang township in the 19th century consisting of essential parts such as outlet net, river wharves, trade<br /> stands, arts and crafts. Accordingly, river wharves and Vi Hoang market took a key role in economic<br /> operations of Vi Hoang centre.<br /> Keywords: township, Vi Hoang market, Vi Honag township, Nam Dinh, Do Che, Wood Wharf,<br /> Firewood Wharf, Rice Wharf.<br /> <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề nghiệp Đại Việt dưới tác động của nhiều<br /> Thế kỉ XVII – XVIII - XIX chứng kiến yếu tố ngoại và nội sinh. Sự phát triển của<br /> một thời kì phát triển thịnh đạt của thương các hoạt động buôn bán trao đổi đã làm hình<br /> <br /> 21<br /> KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)<br /> <br /> <br /> thành một số tụ điểm buôn bán có tính chất nguyên nhân) khiến cho các đô thị lớn ở<br /> địa phương hay đô thị lớn nhỏ trên khắp giai đoạn trước như Hội An, Phố Hiến lụi<br /> mọi miền của đất nước mà Vị Hoàng (Nam tàn dần thì những đô thị cảng – bến như Vị<br /> Định) là một trường hợp tiêu biểu, đại diện Hoàng dưới tác động của Nhà nước phong<br /> cho khu vực hạ châu thổ sông Hồng. kiến lại bộc lộ sức sống mới, dần vươn lên<br /> Ra đời và hưng thịnh muộn hơn so với khẳng định vai trò của mình trong đời sống<br /> Thăng Long – Kẻ Chợ, Phố Hiến, Hội An, đất nước.<br /> đô thị Vị Hoàng không có được dáng dấp Đô thị Vị Hoàng được ra đời trên đất<br /> của một trung tâm thương mại phồn thịnh của làng Vị Hoàng – một làng cổ nằm ven<br /> trong giai đoạn sôi động của các hoạt động phủ Thiên Trường xưa (thời Trần) và ngày<br /> hải thương quốc tế. Cho đến nay chưa có nay chính là trung tâm của thành phố Nam<br /> bất kì chứng cứ nào cho thấy sự hiện diện Định. Trước đó, liên tục trong các thế kỉ<br /> của thương nhân Anh, Hà Lan, Bồ Đào XV – XVIII, vùng đất Thiên Trường –<br /> Nha, Nhật Bản… ở Vị Hoàng trong thế kỉ Nam Định luôn đóng vai trò trung tâm của<br /> XVII – XVIII; thương điếm của các nước các hoạt động công – nông – thương – chài<br /> phương Tây cũng chưa từng được đặt ở Vị ở khu vực hạ châu thổ đồng bằng sông<br /> Hoàng, và đây có lẽ cũng là một gợi ý, giải Hồng. Vốn có đồn binh và kho lương lớn<br /> thích cho sự khuyết thiếu những ghi chép của nhà nước phong kiến đặt tại đây, lại sở<br /> về đô thị này trong các tài liệu của thương hữu vị trí địa – chiến lược quan trọng, Vị<br /> nhân phương Tây có mặt ở nước ta lúc đó. Hoàng đã trở thành trị sở của lộ Sơn Nam<br /> Mặc dù vậy, với những lợi thế riêng của Hạ vào năm 1741. Từ sau đó, vùng đất Vị<br /> mình về vị trí, về tiềm năng của vùng hạ Hoàng lại càng có thêm những điều kiện<br /> châu thổ gần sông cận biển, Vị Hoàng từng thuận lợi để phát huy thế mạnh vốn có về<br /> bước vươn lên, khẳng định vai trò là một sông, cảng, bến, chợ và dần dần hội tụ<br /> tiền cảng của Thăng Long – Hà Nội trong những điều kiện để trở thành phố Vị Hoàng<br /> thế kỉ XVIII – XIX, một đô thị cảng sông ven sông.<br /> cận biển quan trọng của khu vực Bắc Bộ Đến thế kỉ XIX, nhất là nửa sau thế kỉ<br /> thời kì tiền thuộc địa trên nhiều lĩnh vực, từ XIX, với vị thế của một trấn sở, rồi tỉnh lị<br /> kinh tế, chính trị đến quốc phòng an ninh. của Nam Định, Vị Hoàng đã thực sự trỗi<br /> Trong bài viết này, trên cơ sở các nguồn tư dậy trong diện mạo của một đô thị hoàn<br /> liệu, chúng tôi cố gắng phác họa kết cấu chỉnh, có phần “đô” và phần “thị” khá cân<br /> kinh tế của Vị Hoàng thế kỉ XIX gồm các đối. Đô thị Vị Hoàng sở hữu cảng/ bến<br /> chủ thể như mạng lưới chợ, bến, phố hàng sông sầm uất, trù mật, gần biển; là điểm<br /> buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp. trung chuyển của các luồng hàng, luồng<br /> Trong đó cảng bến sông, chợ Vị là yếu tố tiền giữa các vùng miền trong nước: từ<br /> xuất hiện đầu tiên và đóng vai trò then chốt, miền Nam, miền Trung ra Bắc, từ biển/<br /> có ảnh hưởng đến toàn bộ các yếu tốt khác. duyên hải vào sâu trong nội địa, từ đồng<br /> 2. Vài nét về đô thị Vị Hoàng bằng tới miền núi và ngược lại. Đặc biệt,<br /> Từ giữa thế kỉ XVIII, khi kinh tế hàng Vị Hoàng có mối liên hệ mật thiết với thị<br /> hóa tuy vẫn tiếp tục phát triển nhưng chậm trường miền Nam Trung Hoa thông qua<br /> chạp và không có bước đột biến mạnh mẽ, các thương lái Hoa kiều, thương nhân đến<br /> (trong đó sự suy giảm vai trò của thương từ Triều Châu, Phúc Kiến, Huệ Châu,<br /> lái phương Tây vừa như hiện tượng, vừa là Quỳnh Châu… Cùng với những tác động<br /> <br /> 22<br /> TRẦN THỊ THÁI HÀ<br /> <br /> <br /> của hàng loạt các yếu tố khách quan và chủ sông (ville-fleuve), được dân gian mô tả rất<br /> quan như điều kiện địa hình, sông ngòi, rõ ràng: “Thượng Phụ Long, hạ Đồn<br /> nguồn nhân lực; hay sự gia tăng các hoạt Thuỷ”. Sông Vị Hoàng là một đường trục<br /> động buôn bán trao đổi thời kì này giữa các chính của đô thị, các tuyến phố đều toả ra<br /> thị trường trong nước với các trung tâm đô từ phía bờ sông.<br /> thị trên một lãnh thổ thống nhất,… đã thúc Tài liệu châu bản của triều Nguyễn<br /> đẩy sự phát triển của Vị Hoàng. thường nhắc đến cụm từ “bến Vị Hoàng”<br /> Cho đến cuối thế kỉ XIX, trước khi với mật độ thuyền bè qua lại đây khá đông<br /> thực dân Pháp bắt đầu công cuộc khai thác đúc. Có những đoàn thuyền chở vật hạng<br /> thuộc địa lần thứ nhất, phố Vị Hoàng vẫn các loại của nhà Nguyễn lên tới 136 chiếc<br /> đang trong quá trình chuyển đổi từ làng lên cùng cập bến Vị Hoàng [2;111]. Ngay từ<br /> phố dưới những tác động tích cực của các thời kì đó, sách cũ còn ghi lại “phàm việc<br /> nhân tố khách quan và chủ quan. Khu vực vận chuyển lương tiền từ trấn Sơn Nam Hạ<br /> tập trung đông dân cư và các hoạt động sản vào Nghệ An bằng đường thuỷ đều xuất<br /> xuất kinh doanh sôi động của thương nhân, phát từ bến này, đi xuống dưới theo ngã ba<br /> thợ nghề thủ công từ các nơi về làm ăn sinh Độc Bộ, chuyển lên bến sông Non Nước<br /> sống ở Vị Hoàng là cảng - bến sông, chợ Vị rồi vào cảng Vân Sàng. Vận chuyển đường<br /> Hoàng và các phố hàng nằm về phía đông bộ cũng từ đây đi xuống ngã ba Độc Bộ rồi<br /> của tòa thành cổ, trên phần đất các thôn Thị thẳng ra cống cửa Liêu Hải” [6;452].<br /> Thượng, Khoái Đồng, Thị Hạ của làng Vị Qua đó cho thấy, bến Vị Hoàng trong<br /> Hoàng - làng gốc của đô thị Vị Hoàng. thời gian tồn tại của mình không thể chỉ là<br /> Sự nhộn nhịp, tấp nập tàu bè và một bến sông mà phải thực sự là một cảng<br /> thương nhân qua lại tại các cảng – bến, chợ sông lớn, đủ sức chứa nhiều tàu thuyền.<br /> - bến cũng như sự hình thành các phố hàng Tuy nhiên, trong quá trình điền dã tại địa<br /> buôn bán, sản xuất thủ công nghiệp đã phá phương cũng như trong các cuốn địa chí<br /> vỡ tính khép kín của một làng quê như Vị còn lại đến nay, không thấy có địa danh<br /> Hoàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy người “bến Vị Hoàng”. Phải chăng địa danh “Đò<br /> dân Vị Hoàng vẫn dè dặt trong các hoạt Quan” còn lại ngày nay chính là cách mà<br /> động mới mẻ này. Điều này phần nào lí dân gian gọi bến Vị Hoàng xưa?<br /> giải nguyên nhân của tình trạng nửa làng Là một địa phương nằm trên lưu vực<br /> nửa phố kéo dài trong hàng thế kỉ ở Vị sông Hồng thuộc đồng bằng Bắc Bộ, tỉnh<br /> Hoàng, và vai trò nhạt nhòa của người Việt Nam Định được bao bọc, chia cắt bởi hàng<br /> trong bức tranh kinh tế của phố Vị Hoàng loạt các sông lớn nhỏ, trong đó: Sông<br /> trước sự vượt trội của người Hoa. Hồng là dòng chảy chính, ôm mặt phía<br /> Cùng với những trụ sở hành chính, đông của tỉnh rồi đổ ra biển. Sông Đáy bao<br /> trường thi Hương, thì các phố hàng buôn quanh tỉnh ở mặt phía tây. Giữa hai dòng<br /> bán, cảng bến Vị Hoàng và chợ Vị đã trở chảy chính đó là hàng loạt các sông như<br /> thành một cái tên, một địa chỉ quen thuộc Ninh Cơ, sông Sắt, sông Quần Liêu, sông<br /> với người đương thời. Giao Thủy, sông Cốc… tạo nên tuyến giao<br /> 3. Hoạt động kinh tế của đô thị thông thuỷ hết sức thuận lợi, nối các đơn<br /> Vị Hoàng vị hành chính lớn nhỏ trong tỉnh. Lớn nhất<br /> 3.1. Bến sông Vị Hoàng và sở quan tân và có giá trị nhất về mọi mặt, hơn nữa lại<br /> Phố Vị Hoàng thuộc loại hình đô thị trực tiếp liên quan đến đô thị Vị Hoàng<br /> <br /> 23<br /> KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)<br /> <br /> <br /> phải kể đến sông Hồng, sông Đáy và sông vật hạng từ các trấn Bắc thành vào kinh đô<br /> Vị Hoàng. Huế, đồng thời cho phép các thương<br /> Tuy dòng chảy không dài và không thuyền Trung Quốc vào, ra buôn bán.<br /> trực tiếp đổ ra biển Đông, nhưng sông Vị Chính vì lí do đó, bến Vị Hoàng – hay cảng<br /> Hoàng có lợi thế đặc biệt vượt trội so với sông Vị Hoàng là một cảng bến quan trọng<br /> nhiều dòng/nhánh sông khác ở khu vực của nhà Nguyễn ở miền Bắc trước khi thực<br /> châu thổ sông Hồng cả trên nhiều phương dân Pháp xâm lược, lượng tàu bè ra vào<br /> diện bởi hai điểm đầu-cuối của nó đều là bến Vị Hoàng ở thế kỉ XIX qua cửa Liêu,<br /> những ngã ba sông quan trọng, án ngữ Lác được ghi nhận trong tài liệu của nhà<br /> tuyến đường thủy từ biển vào lục địa, lên Nguyễn rất đông đúc, đủ các hạng thuyền.<br /> kinh đô Thăng Long hay từ kinh đô ra Kích cỡ các hạng thuyền vận tải của nhà<br /> biển. Như cây cầu tự nhiên, sông Vị Hoàng Nguyễn cho phép ta hình dung về quang<br /> nối thông hai con sông lớn (sông Đáy, sông cảnh bến cảng Vị Hoàng cũng như sức<br /> Hồng) của khu vực hạ châu thổ. Đây đồng chứa của nó (2).<br /> thời cũng là hai tuyến thương mại chủ đạo Các thuyền công của nhà nước được<br /> từ miền núi, trung du xuống vùng đồng phái đi làm nhiệm vụ đều được Bộ Hộ ghi<br /> bằng ven biển và ngược lại; hoặc từ miền chép tỉ mỉ rõ ràng ngày giờ xuất phát, số<br /> đất phía nam đến với Phố Hiến, Thăng lượng thuyền, hạng thuyền, người hộ tống.<br /> Long. Như vậy có thể thấy rằng sức sống Quan Tổng đốc Nam Định có nhiệm vụ ghi<br /> của đô thị Vị Hoàng chính là ở dòng sông chép chi tiết ngày, giờ đoàn thuyền đến bến<br /> Vị Hoàng, trong sự kết nối, liên thông với sông Vị Hoàng, số lượng thuyền và hành<br /> hai dòng chảy lớn đổ ra Biển Đông là sông trình trong bản báo cáo gửi về Kinh.<br /> Hồng và sông Đáy. Ngoài thuyền của nhà nước chở hàng<br /> Từ các thế kỉ XVII - XVIII, khi quan hoá về Kinh, thuyền buôn của người Việt<br /> hệ giao thương, trao đổi buôn bán hàng hóa xuôi ngược vào Nam ra Bắc, thì bến Vị<br /> phát triển không chỉ bó hẹp trong phạm vi Hoàng còn là nơi đến của các thuyền buôn<br /> nội địa, thì sông Vị Hoàng cũng đã sớm của Trung Quốc mà tài liệu của nhà<br /> tham gia vào hoạt động giao thương quốc Nguyễn gọi chung là “thuyền nhà Thanh”.<br /> tế thời kì này thông qua cửa Độc Bộ/ Đáy Chỉ tính riêng trong 9 tháng (từ tháng<br /> và cảng, bến ven sông. Đặc biệt, cửa Độc 2 đến tháng 10) của năm Minh Mạng thứ 5<br /> Bộ/Đáy/Liêu – nơi sông Vị Hoàng đổ vào (1824), châu bản triều Nguyễn ghi nhận có<br /> sông Đáy là một trong hai tuyến đường 28 thuyền nhà Thanh đã qua cửa Lác để<br /> thuỷ quan trọng (1) cho các tàu thuyền vào Bắc thành buôn bán [3: 229].<br /> buôn chuyên chở hàng hóa đến với các Đối với các thuyền buôn, mà đặc biệt<br /> trung tâm kinh tế - đô thị lớn của nước ta là là thuyền buôn nhà Thanh có chở hàng<br /> Phố Hiến và Thăng Long. Tuy nhiên, số hoặc không, thì trước khi lên Bắc thành<br /> lượng tàu thuyền nước ngoài qua lại cửa đều phải qua bến Vị Hoàng khai báo minh<br /> Độc Bộ không nhiều (chủ yếu là thuyền bạch số người đến và các loại hàng hoá vật<br /> Trung Quốc, Xiêm) mà không có thuyền phẩm mang theo để quan sở tại hội khám,<br /> buôn phương Tây. thu thuế. Quan Tổng đốc Nam Định có<br /> Sang thế kỉ XIX, nhà Nguyễn sử dụng nhiệm vụ báo cáo về Kinh tên chủ thuyền,<br /> triệt để cửa Đáy và bến sông Vị Hoàng cho xuất xứ, mục đích của họ. Năm 1831, nhà<br /> việc chuyên chở tiền, thóc gạo hay đủ loại Nguyễn đặt ra những quy định đánh thuế<br /> <br /> 24<br /> TRẦN THỊ THÁI HÀ<br /> <br /> <br /> đối với thuyền buôn nhà Thanh. Định. Đò chở khách, trừ hành khách nào đi<br /> Đến năm 1834, Minh Mạng quy định không, chiếu lệ thu mỗi người 6 đồng tiền,<br /> lại ngạch thuế đối với thuyền buôn nước còn những người có quang gánh, mà trong<br /> ngoài. Lấy lí do đường biển thuận lợi, gánh có hơn 10 thứ lặt vặt tới 30-40 cân,<br /> thuyền buôn qua lại ngày một nhiều, Nam đáng giá độ 19 quan tiền trở lại, gọi là đồ<br /> Định và Hà Nội không kém gì Gia Định thập vật, từ là hàng đáp đò, do phu đò<br /> nên từ tháng giêng năm 1835, Nam Định chiếu thu thuế bến mỗi gánh 6 đồng tiền<br /> và các tỉnh ngoài Bắc Kì chịu mức thuế mà không được thu thuế người nữa; nếu<br /> toàn ngạch như của Gia Định [14; 429]. chưa đến 3-4 thứ đồ vật đã thành khí, nặng<br /> Không chỉ có lợi thế là giao điểm của ước 40 cân, đáng giá 20 quan tiền trở lên,<br /> các tuyến giao thông đường thủy, mà Vị tức là hàng buôn thì cho phép nhân viên<br /> Hoàng còn là nơi giao thủy của hai luồng thuế quan cứ lệ 40 phần lấy 1 phần mà<br /> nước: luồng nước mặn từ biển vào và nước đánh thuế, lại trích mỗi gánh 6 đồng tiền<br /> ngọt từ đất liền chảy ra do nằm ở vị trí hạ giao trả về thuế bến [16;513-514].<br /> đồng bằng giáp biển. Thuyền bè muốn ra Theo sông Vị Hoàng có thể ra biển<br /> khơi phải chờ con nước. Sự tập trung của qua hai cửa Liêu và Lác, vì vậy để tận thu<br /> các thuyền bè ở Vị Hoàng trong thời gian nguồn thuế từ các thuyền buôn, vào năm<br /> chờ đợi con nước cũng là một yếu tố góp 1839 nhà Nguyễn đặt thêm sở thuế quan ở<br /> phần tạo nên sự đông đúc, nhộn nhịp của xã Vị Hoàng trên cơ sở bản tấu trình của<br /> cảng sông này. Tổng đốc Định – Yên Trịnh Quang Khanh:<br /> Về tuyến đường thủy xuất phát từ Vị Nam Định từ khi đặt ra giới phận từng<br /> Hoàng, nối Vị Hoàng với các địa phương hạt đến nay, thuyền buôn về phía xuôi ngày<br /> lân cận hay với một số xã, huyện trong tỉnh càng tụ họp, các thuyền đi đến Hưng Yên,<br /> Nam Định, Khiếu Năng Tĩnh cho biết có 2 Hải Dương, Hà Nội và các phủ Thái Bình,<br /> tuyến chính: Một tuyến từ bến Đò Quan Kiến Xương thuộc Nam Định thì đã có các<br /> phố Nam Long, và một tuyến từ sông Hồng sở thuế quan ở Vạn Ninh (thuộc Nam<br /> [19; 18]. Với chiều dài 39 dặm, sông Vị Định), Thuần Mĩ (thuộc Hải Dương), Mễ<br /> Hoàng chảy qua các huyện Mĩ Lộc, Vụ Sở (thuộc Hưng Yên) trưng thu thuế lệ, duy<br /> Bản, Nam Trực. Trên dòng chảy đi qua các đến các phủ Thiên Trường, Nghĩa Hưng<br /> huyện, nhiều bến đò ngang của sông Vị thuộc Nam Định và Ninh Bình thì không có<br /> Hoàng đã hình thành nối đôi bờ của dòng thuế quan, kể thì cùng là thuyền buôn mà<br /> sông. Để sang địa phận huyện Đại An, có thuyền đánh thuế, có thuyền không đánh<br /> sông Vị Hoàng có 4 đò ngang: Cốc Thành, thuế, thực chưa công bằng. Xin ở bến sông<br /> Bình A, Đông Cao, Độc Bộ. Ở huyện Vụ ở xã Vị Hoàng đặt một sở thuế quan và ở<br /> Bản, sông Vị Hoàng có 3 đò ngang: Cố Phù Sa (tên xã ở ngã ba sông Vị Hoàng và<br /> Bản, Đồng Kĩa, Thi Liệu. Các bến Kinh Ninh Bình)… đặt một chi nhánh thuế quan,<br /> Lũng, Thi Nam thuộc huyện Nam Trực. phàm thuyền bè qua lại buôn bán chiểu<br /> Trên địa phận của huyện Mĩ Lộc, thuộc hàng hoá theo lệ tính thuế. [16;460]<br /> sông Vị Hoàng có 3 bến đò: Phong Lộc, Những thông tin từ các trạm thu thuế<br /> Đại An, Lương Xá [19;18-19]. quan tân thời Nguyễn cho biết dường như<br /> Năm 1839, nhà Nguyễn thực hiện: lượng thuế thu được từ các cửa sông phía<br /> Định rõ lệ thuế của những cửa quan, Nam châu thổ chiếm ưu thế hơn so với các<br /> bến đò dọc sông lớn từ Hà Nội đến Nam cửa sông ven biển vùng Đông Bắc, nhất là<br /> <br /> 25<br /> KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)<br /> <br /> <br /> khi trạm tuần ti ở Vị Hoàng được thành lập Khánh dư địa chí cho biết thêm: “Dân tứ<br /> [17;695]. Điều đó dễ dàng được lí giải bởi chiếng ở đông đúc xung quanh tỉnh lị,…<br /> lẽ trong khoảng nửa đầu thế kỉ XIX, các Người buôn bán đầy chợ…” [7; 298].<br /> cửa sông ven biển của hệ thống sông Hồng Trong Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi<br /> và sông Đáy được nhà Nguyễn chọn làm (1876), Trương Vĩnh Kí đã đánh giá Nam<br /> hải khẩu cho các hoạt động ngoại thương Định là tỉnh mạnh thứ nhất Bắc Kì “Ruộng<br /> chính thức ở vùng duyên hải phía bắc đối nương tốt, nhân vật thịnh, buôn bán lớn,<br /> với người Hoa. Số thuế nhà nước thu được chợ búa đông” [11; 22]. Ngoài ra, các cuốn<br /> hằng năm từ thuyền buôn ở bến Vị Hoàng địa chí địa phương đều ít nhiều đề cập đến<br /> không phải là nhỏ. Theo Đại Nam thực lục chợ Vị Hoàng. Khiếu Năng Tĩnh còn chỉ rõ<br /> thì ở Nam Định có 2 sở quan tân, lệ thuế vị trí của chợ Vị Hoàng sau này là thuộc<br /> nộp nửa bạc nửa tiền. Trên cơ sở đó, năm phố Định Hữu.<br /> 1844, nhà nước đã xác định số thuế mỗi Chợ Vị Hoàng theo lời kể của các cụ<br /> năm mà sở quan tân ở Vị Hoàng phải thu là cao niên còn nhớ việc xưa nay, là nơi buôn<br /> 43.000 quan [16;695], có giá trị tương bán trên bến dưới thuyền. Chợ vừa cận kề<br /> đương với khoảng 430 lạng vàng (1lạng = bến sông, lại vừa nằm ngay trên trục của<br /> 37,7831gr) [1;23] theo giá thị trường con đường chạy dọc theo làng Vị Hoàng,<br /> những năm 30-40 của thế kỉ XIX. qua trước cửa đình. Dân làng thường quen<br /> 3.2. Hệ thống chợ gọi là chợ Trên hay chợ Nhớn. Vốn là chợ<br /> Do đặc điểm của địa hình mà ở Vị làng, tháng họp 6 phiên vào các ngày 5, 7,<br /> Hoàng – Nam Định phổ biến loại hình chợ 15, 17, 25, 27 nhưng do có bến sông nên<br /> - bến. Bến là chợ và chợ cũng đồng thời là các hoạt động buôn bán ở chợ Vị Hoàng<br /> bến. Dựa vào kết quả khảo sát thực địa luôn diễn ra tấp nập, nhộn nhịp [8; 164].<br /> cũng như những thông tin từ tấm bản đồ Vì nằm gần kề bến sông, nơi tụ bến<br /> của H. Rivière hiện còn lưu tại Bảo tàng của thuyền bè xuôi ngược qua tuyến sông<br /> Nam Định, có thể khẳng định rằng: phố Vị Đáy và cả sông Hồng, nên chợ Vị Hoàng<br /> Hoàng khi xuất hiện chắc chắn cũng dưới còn là điểm đến của các mặt hàng nông<br /> hình thức của một chợ - phố nằm cạnh bến thuỷ hải sản từ các chợ lớn của vùng.<br /> sông Vị Hoàng. Trên phạm vi làng Vị Vị Hoàng duy trì mối liên hệ với các<br /> Hoàng và phố Vị Hoàng từng có ngôi chợ chợ lớn của hầu hết các huyện trong tỉnh<br /> Vị Hoàng khá nổi tiếng. qua hệ thống giao thông thủy bộ thuận tiện.<br /> Địa bạ của làng Vị Hoàng cho biết có Từ các chợ lớn ở Giao Thủy, Phong<br /> địa danh Thị Thượng, có lẽ có nguồn gốc Doanh, Nam Chân đã thu gom về Vị<br /> xuất xứ từ chợ Vị Hoàng (còn có tên gọi Hoàng thóc gạo, ngô, khoai, đậu đỗ cùng<br /> khác là chợ Thượng, chợ Trên, chợ Thị cá, tôm, muối, mắm, thịt lợn, thịt trâu bò,<br /> Thượng). Đại Nam nhất thống chí ghi gà, vịt, trứng gia cầm các loại... Sau rau,<br /> nhận: “…Chợ Vị Hoàng, có một tên nữa là gạo, thịt, cá là vô vàn các loại rau, quả<br /> chợ Vị Xuyên, ở phía đông huyện Mĩ Lộc được trồng từ các làng ven Vị Hoàng hoặc<br /> thuộc địa phận xã Vị Hoàng, buôn bán tấp các làng xã khác trong tỉnh; đặc biệt có<br /> nập, là chợ lớn trong tỉnh” [18;403]. Hoàng nhiều thứ đặc sản được liệt vào hạng tiến<br /> Việt nhất thống dư địa chí cho biết thêm: vua như chuối ngự, táo Cầu Gia, cam,<br /> “Từ cửa Đông Bắc bên trái trấn thành, 50 quýt,… và hàng loạt các sản phẩm của thủ<br /> tầm đến chợ xã Vị Hoàng” [6; 45]. Đồng công nghiệp dân gian phục vụ sinh hoạt,<br /> <br /> 26<br /> TRẦN THỊ THÁI HÀ<br /> <br /> <br /> sản xuất đã dồn về, làm phong phú thêm chéo go, lĩnh, đũi, sồi, tơ lụa, vóc, nhiễu,<br /> các mặt hàng ở chợ Vị. lưỡng, the, lượt, là,… những tấm vải vuông<br /> Thứ được bán chạy nhất ở chợ Vị là ta dệt bằng khung cửi để các bà các cô mua<br /> thóc, gạo. Vốn là một vùng có thế mạnh về về may áo dài tứ thân hay may quần cũng<br /> nông nghiệp trồng lúa, vùng đất Thiên rất đẹp [9;40].<br /> Trường có điều kiện thuận lợi hơn rất Ngoài ra, mặt hàng thường nhật được<br /> nhiều địa phương khác về khả năng sản bày bán ở chợ, thu hút đông đảo người dân<br /> xuất một mặt hàng có giá trị thương mại tham gia buôn bán trao đổi là các loại rau,<br /> cao là lúa gạo. Hơn nữa, diện tích trồng trọt màu (khoai, ngô, đậu nành, lạc, vừng, bắp<br /> lớn và không ngừng được mở rộng nhờ cải, hành, rau quan âm, rau các loại,…),<br /> công cuộc khai hoang, lấn biển, đắp đê hoa quả (cam đường, vải, dưa hấu, dừa,<br /> ngăn mặn; năng suất thu hoạch cao, đảm hồng không hạt, bách nhãn lê,…), trầu<br /> bảo nguồn cung cho thị trường toàn vùng. không, cau, thuốc lào, cây cảnh các loại…<br /> Cùng với sự phát triển của các luồng được trồng ở các xã, huyện lân cận cũng có<br /> thương mại nội địa thông qua mạng lưới mặt tại chợ Vị Hoàng. Bên cạnh các sản<br /> chợ ở các địa phương, thì lúa gạo ngày phẩm từ nông nghiệp trồng trọt thì còn có<br /> càng khẳng định vai trò là một sản phẩm có các sản phẩm từ chăn nuôi gia đình, đánh<br /> giá trị cao, khả năng trao đổi lớn, số lượng bắt thủy hải sản như lợn, trâu, bò, chó, thỏ,<br /> người tham gia mua – bán chuyên lẫn vịt, gà, mèo, trứng gia cầm các loại; tôm,<br /> không chuyên cũng đông nhất và đa dạng cá tươi, mắm, muối…; các mặt hàng làm từ<br /> nhất. Giá lúa gạo trên thị trường ở những mây, tre, nan cho cuộc sống sinh hoạt của<br /> thời điểm nhất định đã trở thành thước đo người dân như nong, nia, sàng, thúng,<br /> của sự bình ổn về chính trị và tình hình tài dành, sọt, rổ, rá, dậm, đơm, đó, vó, lờ…;<br /> chính quốc gia. Chính các Hoa thương là các loại công cụ sản xuất nông nghiệp...<br /> những người sớm phát hiện ra giá trị của Các bến như Bến Thóc, Bến Giá Nứa,<br /> mặt hàng này và nhiều người trong số họ Bến Gỗ, Bến Củi, Bến Đò Chè, Đò Quan,<br /> đã lập các cơ sở thu mua, vận chuyển, buôn Đò Bái không chỉ đón đưa người từ các<br /> bán gạo như một hình thức kinh doanh siêu huyện, xã lân cận đến với Vị Hoàng mà<br /> lợi nhuận trên lãnh thổ Đại Việt mà Thiên còn là nơi neo đậu của thuyền bè xuôi<br /> Trường – Vị Hoàng là một trung tâm sản ngựơc chở hàng hoá từ miền Trung ra,<br /> xuất, cung ứng, trao đổi lớn của miền Bắc miền thượng du và kinh đô Thăng Long<br /> Việt Nam giai đoạn trước năm 1945. Địa xuống làm cho hoạt động của chợ Vị<br /> danh Bến Thóc hiện còn trên bản đồ hành Hoàng thêm sôi động.<br /> chính của thành phố Nam Định và vị trí Sự nhộn nhịp của khu vực chợ, bến<br /> ven bờ sông của nó phải chăng có mối liên sông Vị Hoàng có sức hấp dẫn đối với lớp<br /> quan đến hoạt động kinh doanh này ở Vị thợ thủ công, thương nhân cũng như dân<br /> Hoàng xưa là vấn đề mà chúng tôi đang nghèo từ các huyện lân cận hay xa hơn là<br /> tìm kiếm thông tin để làm rõ. từ các địa phương khác của châu thổ sông<br /> Sau thóc, gạo là sản phẩm tơ lụa các Hồng đổ về đây sinh cơ lập nghiệp, ở xen<br /> loại, chiếm vị trí khu vực trung tâm của kẽ với người làng. Nhà cửa, phố xá mọc<br /> chợ Vị Hoàng. Ở giữa chợ là khu chuyên lên san sát, dần hình thành nên các khu phố<br /> bán hàng vải, bày bán những tấm vải nâu của từng ngành nghề chuyên sản xuất hoặc<br /> Đồng Lầm, những tấm vải láng thâm, vải buôn bán những mặt hàng nhất định.<br /> <br /> 27<br /> KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)<br /> <br /> <br /> Bến - cảng sông Vị Hoàng luôn là tản mát trong các tài liệu chép tay nhưng<br /> điểm đến, dừng nghỉ, neo đậu của các tàu hoàn toàn mờ nhạt và thiếu cơ sở tin cậy để<br /> thuyền buôn lớn và từ đây, hàng hóa được kiểm chứng. Lớp người cao tuổi nhất ở<br /> đưa đến chợ Vị Hoàng. Bên cạnh đó, cùng Nam Định ngày nay cũng không biết đến<br /> với hoạt động của hàng loạt các chợ - bến chợ này, vì vậy việc xác định địa điểm của<br /> phụ cận như Đò Chè, Bến Thóc, Bến Giá chợ cũng như những hoạt động trao đổi<br /> Nứa, Đò Quan, Đò Bái… mà chợ Vị hàng hoá từng diễn ra ở đây là điều chúng<br /> Hoàng hoàn toàn thoát khỏi sự gò bó trong tôi chưa thể thực hiện cho đến thời điểm<br /> khuôn khổ chật hẹp của một chợ làng hiện tại.<br /> thông thường. Hơn thế, với tất cả những Chợ Đò Chè, Bến Gỗ, Bến Củi, Bến<br /> điều kiện khách quan thuận lợi, chợ Vị Nứa, Bến Thóc là một dạng chợ - bến,<br /> Hoàng đã vươn lên thực hiện chức năng nhưng nếu so sánh với chợ Vị Hoàng, thì<br /> của một điểm trung chuyển, một trung tâm tính chuyên doanh của những chợ này khá<br /> trao đổi buôn bán hàng hoá lớn trong toàn rõ nét. Trường hợp Bến Nứa (hay còn có<br /> vùng. Vậy nên, cảnh người buôn bán đầy tên Giá Nứa), chợ Đò Chè… rất rõ nét:<br /> chợ, ghe thuyền tấp nập, phố hàng san Bến Giá Nứa là nơi chuyên đón các bè gỗ,<br /> sát… như miêu tả của tài liệu đương thời là tre, nứa từ miền ngược xuống hay từ Thanh<br /> sự phản ánh chân thực hình ảnh cuộc sống Hoá ra. Do vậy mà mặt hàng chính ở chợ -<br /> thường nhật vô cùng nhộn nhịp ở đô thị Vị bến này như tên gọi của nó đã thể hiện. Tre<br /> Hoàng nói chung và khu vực chợ bến Vị nứa được sử dụng rộng rãi trong xây dựng<br /> Hoàng nói riêng. nhà cửa, đình làng, chùa, đền; phục vụ việc<br /> Cùng với sự xuất hiện của các phố đóng cọc tu bổ đê điều, hoặc kết thành bè<br /> hàng buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp chuyên chở đất đá để kè, đắp các đoạn đê<br /> thì chợ Vị Hoàng trong thời gian tồn tại xung yếu… Không có gì đáng ngạc nhiên<br /> của mình đã trở thành là một chợ lớn của khi buôn bán tre nứa trở thành một hoạt<br /> thành Nam. Có thể khẳng định rằng trước động sôi nổi dọc theo tuyến sông Đáy giai<br /> khi có chợ Rồng thì Vị Hoàng là chợ lớn đoạn trước năm 1945. Trong một công<br /> nhất, là trung tâm buôn bán trao đổi hàng trình của mình về làng Việt, học giả John<br /> hóa của thành Nam với các làng, xã, Kleinen đã đề cập đến hiện tượng này<br /> huyện, phủ trong tỉnh cũng như với các địa [13;52]. Dọc theo bờ sông là những ngôi<br /> phương lân cận. nhà của các gia đình làm nghề buôn bán<br /> Ngoài chợ Vị Hoàng, trên địa phận của nứa bè, gỗ bè. Phía trước nhà, họ dựng<br /> làng, còn có một ngôi chợ nhỏ hơn, tên là những chiếc giá để giữ cho những cây nứa,<br /> chợ Hạ hay còn gọi là chợ Thị Hạ, chợ tre gác lên đó được ngay ngắn. Tên gọi<br /> Dưới nằm ở thôn Thị Hạ của Vị Hoàng. Giá Nứa có lẽ đã bắt nguồn từ thực tế này.<br /> Xung quanh chợ Hạ còn có một số vấn đề Chợ Đò Chè không họp theo phiên<br /> chưa được làm sáng tỏ như: phải chăng đây như chợ Vị Hoàng, mà vào bất kì ngày nào<br /> chính là chợ Phượng đã có từ thời Trần? hàng hóa cũng được bày ra bán. Sở dĩ có<br /> Chợ Phượng, chợ Hạ và chợ Đò Chè liệu tên gọi Đò Chè vì tại đây người ta thường<br /> có phải là một hay không? đón các chuyến chè tươi chở từ vùng Bồng<br /> Chợ Thị Hạ hầu như không được nhắc Lạng của Hà Nam để cung cấp cho dân phố<br /> đến trong bất kì cuốn địa chí nào biên soạn cũng như các huyện phía nam của tỉnh.<br /> thời phong kiến. Thông tin về chợ Thị Hạ Loại chè này chủ yếu phục vụ cho tầng lớp<br /> <br /> 28<br /> TRẦN THỊ THÁI HÀ<br /> <br /> <br /> bình dân, còn chè mạn (Mạn Hảo – xuất xứ đường thuỷ cũng như đường bộ. Như vậy,<br /> từ miền trung du Tây Bắc của Đại Việt) là ngay trong phạm vi địa phương, từ ba điểm<br /> mặt hàng cao cấp của giới thượng lưu thì tập trung dân cư, buôn bán và sản xuất thủ<br /> việc buôn bán do người Hoa nắm giữ. Đôi công nghiệp như Vị Hoàng, Độc Bộ và<br /> khi, tại chợ - bến cũng bắt gặp những Chân Ninh đã tạo nên mạng lưới thương<br /> người nông dân mang mớ tôm, cá mới nghiệp nhỏ. Trong đó, Vị Hoàng nổi trội<br /> đánh bắt, hay mớ rau, ổ chó… ra bán cho hơn cả và ở mức độ nhất định đã tác động<br /> những chủ thuyền, chủ bè. Tuy nhiên, đây qua lại với Độc Bộ, Chân Ninh.<br /> không phải là hoạt động thường xuyên của Ở cự li xa hơn, qua sông Hồng, hàng<br /> khu vực chợ - bến này. hoá vật phẩm đến Vị Hoàng còn có thể từ<br /> Theo Hoàng Việt nhất thống dư địa vùng Châu Cầu (Hà Nam) hay Bình Lao,<br /> chí: xung quanh chợ Vị Hoàng, trong phạm Hàm Giang (Hải Dương), Vân Sàng<br /> vi gần là hàng loạt các chợ như: (Ninh Bình).<br /> Chợ xã Dương Lai (cách trấn thành 3.3. Phố hàng sản xuất và buôn bán<br /> 428 tầm), chợ Trình (xã Trình Xuyên, cách Vị Hoàng xưa không chỉ là một trung<br /> trấn thành 460 tầm); chợ Côi (xã Đăng tâm thương nghiệp quan trọng mà còn là<br /> Khôi, cách trấn thành 535 tầm) thường bán nơi có nhiều ngành nghề thủ công phát<br /> trâu bò; chợ Vĩnh (cầu Vĩnh Tế, cách trấn triển. Với vị trí đắc địa của mình, Vị<br /> thành 370 tầm); chợ Hữu Bị (xã Hữu Bị, Hoàng thu hút về đây đông đảo thương<br /> cách trấn thành 758 tầm); chợ Tiểu Phấn nhân, thợ thủ công của khu vực đồng bằng<br /> (xã Tiểu Phấn, cách trấn thành 420 tầm); Bắc Bộ, đặc biệt là các địa phương thuộc<br /> chợ Gừng (xã An Nội, cách trấn thành 697 trấn Sơn Nam như một số khu vực của Hà<br /> tầm)… Có những loại chợ chuyên bán một Nội và Hà Tây cũ, Hưng Yên, Hà Nam,<br /> loại sản phẩm như chợ gạo, chợ sắt ở Vân Ninh Bình…<br /> Chàng. Chợ Chùa ở Vân Chàng bán nhiều Theo thần phả của hàng loạt đình, đền,<br /> mặt hàng nhưng nổi tiếng nhất vẫn là miếu trên địa bàn thành phố Nam Định<br /> khoai lang. [6;453-456] ngày nay thì có rất nhiều thợ thủ công tài<br /> Đáng chú ý là thời kì này, ở Nam Định hoa từ các làng nghề tìm về Vị Hoàng sinh<br /> còn có một số tụ điểm buôn bán khá sầm cơ lập nghiệp. Có thể khẳng định chắc<br /> uất, là những “tiểu đô hội” như chợ Đình, chắn rằng, ở miền Bắc, sau Thăng Long,<br /> chợ Quán ở làng Hành Thiện, phố Độc Bộ phố Vị Hoàng xưa là nơi tập trung nhiều<br /> ở Ý Yên, phố Chân Ninh ở Trực Ninh. Sự nghề thủ công truyền thống. Có ít nhất ba<br /> hiện diện của các phố như Độc Bộ, Chân nguyên nhân chính dẫn đến việc những<br /> Ninh… góp thêm những bằng chứng xác người thợ thủ công giỏi từ Hà Tây, Hải<br /> thực về bước phát triển của hoạt động trao Phòng, Bắc Ninh, Thái Bình đã tập trung<br /> đổi hàng hoá khu vực hạ châu thổ đồng về Vị Hoàng, đó là:<br /> bằng sông Hồng thế kỉ XVII - XVIII. Thứ nhất, việc xây dựng và kiến thiết<br /> Khoảng cách từ phố Vị Hoàng đến Độc Bộ hành cung Thiên Trường trong thế kỉ XIII<br /> và Chân Ninh không xa, trong vòng bán – XIV với vóc dáng như một thứ đô, kiểu<br /> kính từ 10-15 km. Cũng giống như Vị cách và quy mô cho xứng với các bậc đế<br /> Hoàng, Độc Bộ và Chân Ninh đều có vị trí vương đòi hỏi phải có bàn tay và trí óc của<br /> cạnh sông, có thể liên thông với Vị Hoàng những người thợ giỏi từ nhiều địa phương<br /> một cách thuận tiện và nhanh chóng bằng được trưng tập về đây làm việc.<br /> <br /> 29<br /> KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)<br /> <br /> <br /> Thứ hai, trong thời kì giặc Minh xâm gọi của các phố, qua đó cho thấy số lượng<br /> lược cũng như sau này, khi cuộc chiến các phố, đường ở Nam Định vào cuối thế<br /> Nam - Bắc triều rồi chiến tranh Trịnh - kỉ XIX có thể lên đến vài chục.<br /> Nguyễn liên miên khiến đời sống nhân dân Một điều dễ dàng nhận thấy là sự trùng<br /> bất ổn, thì người ta “đói lên Bắc chạy giặc lặp, giống nhau về tên gọi rất nhiều con<br /> về Nam”. Những người thợ thủ công đã phố ở Vị Hoàng với Thăng Long – Hà Nội,<br /> cùng gia đình, họ hàng thân thuộc tản cư đó là sự bắt đầu bằng chữ “Hàng” và sau<br /> xuống phía nam, về Vị Hoàng. đó là tên của một nghề hay một sản phẩm<br /> Thứ ba, vào giữa thế kỉ XVIII, Phố của nông - lâm - ngư - thủ công nghiệp<br /> Hiến đang dần mất đi vị thế của mình vì truyền thống.<br /> nhiều nguyên nhân, trong khi Vị Hoàng trở Nếu ở Thăng Long, phường thủ công<br /> thành trấn lị của Sơn Nam Hạ lộ (1741), vừa là đơn vị hành chính, vừa là đơn vị<br /> với tiềm năng sẵn có và triển vọng phát kinh tế thì hiện tượng này không xuất hiện<br /> triển thì một số hộ gia đình/ dòng họ các ở Vị Hoàng. Sự giống và khác biệt ở một<br /> thợ nghề cũng đã di dời từ Phố Hiến sang số địa danh thuộc không gian hành chính<br /> Vị Hoàng để tiếp tục hoạt động vừa sản giữa hai đô thị chỉ có thể giải thích ở ảnh<br /> xuất, vừa kinh doanh. hưởng lan tỏa của Thăng Long tới các đô<br /> Có lẽ bởi những nguyên nhân trên mà thị vệ tinh. Từ “phố” xuất hiện ở Thăng<br /> ở đô thị Vị Hoàng từng tồn tại rất nhiều Long muộn hơn từ “phường”, bởi trong thư<br /> nghề thủ công, tương tự như ở Thăng Long. tịch cổ, từ thời Trần đã chia Thăng Long<br /> Phố Vị Hoàng theo quy hoạch dân thành 61 phường. Lúc đầu “phố có nghĩa là<br /> gian được giới hạn bởi “Thượng Phụ Long, một bến, bờ, một đường dọc bờ sông…<br /> hạ Đồn Thủy”, trải dọc bên bờ sông Vị. phố gắn liền với hoạt động buôn bán,<br /> Theo tấm bản đồ của H. Riviere vẽ năm thương mại. Ngay cả các xưởng thủ công ở<br /> 1883 thì các khu phố của Vị Hoàng đều các phố cũng gắn liền với việc buôn bán<br /> hình thành bên dòng sông Vị Hoàng, đặc của chính mặt hàng đó” [10;107).<br /> biệt là sự hiện diện của những phố có tên Vị trí khu vực phố hàng buôn bán của<br /> gọi bắt đầu bằng chữ “Hàng”. Vị Hoàng - Nam Định xưa, sách Đại Nam<br /> Các phố ở Vị Hoàng – Nam Định nhất thống chí chỉ rõ nằm về phía đông của<br /> thuộc khu phố buôn bán xưa xuất hiện thành tỉnh, gần (kề) bến sông: “Còn như<br /> chính xác từ thời điểm nào là vấn đề rất nơi đô hội ở phía đông tỉnh thành, hàng<br /> khó xác định vì thiếu tài liệu gốc làm căn chợ liên tiếp, buôn bán giao thông, thuyền<br /> cứ. Tất cả các tư liệu địa chí, tư liệu thành bè tấp nập; dân đông mà của nhiều, thực là<br /> văn thu thập được trong quá trình điền dã một khu giàu rộng, một trấn quan trọng của<br /> cũng như các văn bia, thần tích, thần phả Bắc Kì” [18; 387]. Đồng Khánh dư địa chí<br /> đều không đem lại câu trả lời cho vấn đề đã miêu tả: “Dân buôn bán bốn phương tấp<br /> trên. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, nập, phố chợ châu đầu vào nhau, nhà vách<br /> trước khi thực dân Pháp chiếm Nam Định liền kề, ghe thuyền san sát, các nghề thợ<br /> năm 1883 thì một số đường phố ở đây đã cũng bày hàng ở chợ. [7; 307].<br /> hình thành. H. Riviere thể hiện rất rõ một Nam Định địa dư chí có đôi dòng nhắc<br /> số tuyến phố trên bản đồ như phố Hàng đến 7 phố Vị Hoàng: “Tỉnh thành đặt khu<br /> Tiện, Hàng Đồng, phố Khách. Ngoài ra, trên các hạt phủ huyện, thuộc về địa phận<br /> trong nhiều tài liệu khác cũng cung cấp tên các làng Vị Xuyên, Năng Tĩnh trong huyện<br /> <br /> 30<br /> TRẦN THỊ THÁI HÀ<br /> <br /> <br /> Mĩ Lộc… Sau lưng đất đồng bằng, trước đã nêu ở trên. Theo thống kê của Hoàng<br /> mặt sông Vị Hoàng, bên tả phía đông phố Chương Dương thì Vị Hoàng xưa có 37<br /> xá la liệt gọi là 7 phố Vị Hoàng…” [5;5] phố cổ gọi theo mặt hàng sản xuất buôn<br /> 7 phố Vị Hoàng có thể chính là những bán, 4 phố gọi theo bến sông, 1 phố gọi tên<br /> phố được hình thành đầu tiên. Tuy nhiên, bờ sông, 3 phố gọi theo cửa thành (Nam,<br /> tên của 7 phố Vị Hoàng đầu tiên đó cụ thể Đông, Bắc) cùng phố Cửa Trường, ngõ<br /> như thế nào thì Tân biên Nam Định tỉnh Văn Nhân và Hàng Kẹo thành 45 phố cổ<br /> địa dư chí lược, Nam Định tỉnh địa dư chí [4;133-134]. Một số phố còn được nhắc<br /> mục lục và Nam Định địa dư chí đều đến như: song song với đường Trần Hưng<br /> không viết rõ. Chúng tôi cho rằng các phố Đạo ngày nay chạy tới sông Vị Hoàng là<br /> đầu tiên này có lẽ được hình thành bắt đầu các phố Hàng Màn, Hàng Rượu, Hàng<br /> từ khu vực mom sông gần bến đò Phụ Thiếc, Hàng Đàn (thời Pháp đặt tên chung<br /> Long và chợ Vị Hoàng kéo dài cho đến chợ là Rue France, nay thuộc Hai Bà Trưng,<br /> Đò Chè, chủ yếu nằm trên phần đất của Hàng Cau (thời Pháp là Jules Ferry). Nằm<br /> thôn Thị Thượng xưa. sau dãy phố này là Hàng Mã, Hàng Mũ<br /> Xung quanh chợ Vị Hoàng, dân làng (năm 1921 Pháp đặt là Hà Nội), tiếp đến<br /> Vị Hoàng mở hàng quán buôn bán. Sau Hàng Giấy, Phố Khách, Hàng Lọng, Hàng<br /> này cư dân từ các địa phương khác như Dầu (thời Pháp, các phố này được đặt tên<br /> Thăng Long và khu vực ven đô, Hải chung là Mareschal Foch, nay là phố<br /> Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Hoàng Văn Thụ). Tiếp đó một con đường<br /> Kinh Bắc, Thanh Hóa và một số xã, huyện khác cũng từ khu vực chợ Rồng ngày nay<br /> của tỉnh Nam Định… đến làm nghề, buôn ra tới sông Vị là các phố Hàng Nón, Hàng<br /> bán rồi cư ngụ trên đất làng, ở xen kẽ với Khay, Hàng Quỳ, Hàng Tiện, Hàng Cấp<br /> người làng, mở mang thành các con phố. (thời Pháp đặt tên đường này là Henri<br /> Nhà cửa mọc lên san sát, phố xá định hình, Riviere). Ra bờ sông Vị còn một đường<br /> theo các ngành nghề buôn bán mà ở thành phố gồm Hàng Đường và Hàng Đồng, hai<br /> từng khu vực. Qua khảo sát thực tế kết hợp phố này thời Pháp mang tên chung là Rue<br /> với các nguồn tài liệu cho thấy, 7 phố Vị de Cuivre, nay là Hàng Đồng. Từ chợ<br /> Hoàng là các phố: Hàng Cót, Hàng Nâu, Rồng lên phía Bắc có phố Hàng Mắm,<br /> Hàng Bát, Hàng Mâm, Hàng Song, Hàng Hàng Gà, nay là phố Lý Thường Kiệt. Từ<br /> Sắt, Bến Ngự. bờ sông vào chân tường thành xưa có một<br /> Xét về phạm vi phân bố, 7 phố nêu dãy phố chạy song song với Hàng Đồng<br /> trên nằm trải theo dòng sông Vị, thuộc thôn gồm Hàng Thùng, Hàng Giấy, Hàng<br /> Thị Thượng (phần tiếp giáp với Phụ Long) Mành, Hàng Cầm (nay là phố Bắc Ninh).<br /> đến thôn Thị Hạ, kết nối hai chợ Thượng, Về phía Nam của chợ Rồng, bên bờ sông<br /> Hạ của làng. hơi lùi vào trong là phố Hàng Nồi (nay là<br /> Những hoạt động trao đổi hàng hoá đã Nguyễn Thiện Thuật). Song song với bờ<br /> kích thích sự phát triển của thủ công sông là phố Hàng Sũ, Hàng Ghế (nay là<br /> nghiệp, thương nghiệp trong vùng và đồng phố Phan Đình Phùng) và phố Hàng<br /> thời kéo theo sự hưng thịnh của một khu Thao… [4; 133-134].<br /> vực chợ bến bên sông Vị Hoàng. Đến cuối Các phố hàng là nơi sinh sống và làm<br /> thế kỉ XIX, ở Vị Hoàng đã có thêm hàng nghề của những người có chung quê hương<br /> loạt các phố hàng mới ngoài 7 phố đầu tiên bản quán hoặc cùng làm một nghề. Họ đã<br /> <br /> 31<br /> KẾT CẤU KINH TẾ CỦA ĐÔ THỊ VỊ HOÀNG (THẾ KỈ XIX)<br /> <br /> <br /> lập nên những ngôi đền thờ tổ nghề hoặc Hoàng có thể dễ dàng nhận thấy, đô thị<br /> đình thờ thành hoàng bản quán ở ngay trên này có vai trò chủ yếu là điểm trung<br /> phố nghề xưa (một số hiện nay vẫn còn tồn chuyển, tập kết hàng hóa trên thủy trình<br /> tại, nằm rải rác trên các con phố của thành xuôi ngược Bắc Nam, từ lục địa ra biển và<br /> phố Nam Định. Nhiều di tích nằm lẫn trong ngược lại của các tàu thuyền vận tải, buôn<br /> khu vực dân cư, phố xá hoặc bị lấn chiếm, bán nội địa, thuyền nhà Thanh hay thuyền<br /> phá rỡ trong quá trình phát triển, đô thị hóa công của Nhà nước nhờ có vị thế thuận<br /> của thành phố Nam Định hiện đại). Qua gia lợi. Từ cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX,<br /> phả, văn bia câu đối thờ trong các di tích có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển<br /> còn lại này cho thấy một thực tế là hầu hết của nền kinh tế hàng hoá của đất nước là<br /> người ở phố đều từ các địa phương khác sự hình thành các tuyến giao thương<br /> đến đây sinh cơ lập nghiệp, không phải là đường dài giữa miền Thanh Nghệ, miền<br /> dân gốc của làng Vị Hoàng. Người Hoa Trung với Đàng Ngoài; giữa miền thượng<br /> sinh sống rải rác ở các phố hàng, nhưng du, trung du với khu vực đồng bằng ven<br /> đông đảo nhất là trên phố Khách (nay là biển. Và như vậy, không thể phủ nhận vị<br /> Hoàng Văn Thụ) và Hàng Sắt dưới. Họ trí đắc địa của cảng, bến sông Vị Hoàng<br /> luôn tỏ rõ sự thông thạo trong kinh doanh khi toạ lạc tại đầu mối các tuyến giao<br /> buôn bán, quản lí tài chính và tinh thần thông thuỷ bộ, tập trung nhiều luồng hàng,<br /> tương trợ cao trong nội bộ cộng đồng. mặt hàng phong phú.<br /> Đánh giá về tình hình kinh tế của Nam Đô thị Vị Hoàng không thể so sánh với<br /> Định như một trong những đô thị nổi bật Thăng Long – Kẻ Chợ về quy mô cũng<br /> của xứ Đông Dương thuộc Pháp cuối thế kỉ như các giao dịch thương mại, lượng hàng<br /> XIX, Ch.Lemire đã viết:<br /> – tiền được trao đổi. Tuy nhiên, sự hiện<br /> Nam Định là thành phố lớn của tỉnh<br /> diện của đô thị Vị Hoàng như một trung<br /> Nam Định, nằm dọc 4 km bên bờ sông Nam<br /> tâm tập kết, trao đổi và sản xuất hàng hóa ở<br /> Định, với những ngôi nhà được xây bằng<br /> nơi giao điểm của các tuyến đường thủy<br /> gạch và nhiều ngôi nhà khác theo lối kiến<br /> bộ, các luồng hàng hải từ thượng du xuống<br /> trúc của người Hoa khác với nhà của<br /> miền duyên hải ven biển, từ miền Trung ra<br /> người bản xứ. Những con phố, cũng như<br /> khu vực Bắc Bộ đã tạo ra những chấm phá<br /> chợ búa, dọc bên bờ sông đều rất đông vui<br /> quan trọng trên bức tranh kinh tế Việt Nam<br /> nhộn nhịp… Các hãng vận tải đường sông<br /> giai đoạn tiền thuộc địa. Ở mức độ nào đó,<br /> và nhiều xà lan chạy máy hơi nước đi qua<br /> Nam Định để đến Hưng Yên” [12;99]. có thể coi thực trạng kinh tế ở Vị Hoàng là<br /> sự phản ánh trung thực tình hình kinh tế<br /> 4. Kết luận Việt Nam trong giai đoạn đang diễn ra<br /> Ra đời muộn hơn Thăng Long, Phố những chuyển biến quan trọng, khi chế độ<br /> Hiến, đô thị Vị Hoàng vừa có những nét phong kiến với quan hệ sản xuất lỗi thời<br /> chung của đô thị Việt Nam thời trung đại, đang phải tiếp nhận và chịu nhiều thử thách<br /> nhưng đồng thời lại sở hữu những điểm từ những biến động xã hội đế sự xuất hiện<br /> độc đáo riêng, mang dấu ấn của bối cảnh của hàng loạt các nhân tố mới trong lĩnh<br /> lịch sử và tình hình chính trị, kinh tế, xã vực thương mại và sản xuất hàng hóa,<br /> hội của đất nước thời kì này. bước đầu hướng đến nhu cầu thị trường nội<br /> Nhìn vào kết cấu kinh tế của đô thị Vị địa và khu vực.<br /> <br /> 32<br /> TRẦN THỊ THÁI HÀ<br /> <br /> <br /> Chú thích thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa, Trung tâm<br /> văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, Huế.<br /> 1. Tuyến thứ hai đi vào cửa sông Thái Bình, còn<br /> gọi là sông Đàng Ngoài, qua Domea và Batsha. 7. Đồng Khánh dư địa chí (2006), Nxb Thế giới,<br /> Hà Nội.<br /> 2. Thuyền hiệu Ba: Dài 6 trượng 6 thước 1 tấc;<br /> ngang 1 trượng 6 thước, sâu 8 thước 2 tấc; 8. Trần Thị Thái Hà (2017), Từ hành cung Tức<br /> không có mái chèo. Mặc – Thiên Trường đến đô thị Vị Hoàng,<br /> Thuyền hiệu Lãng: Dài 5 trượng 8 thước 7 Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.<br /> tấc; ngang 1 trượng 5 thước, sâu 8 thước 2 9. Nguyễn Thừa Hỷ (1993), Thăng Long –<br /> tấc, 44 mái chèo. Hà Nội thế kỉ XVII-XVIII-XIX, Hội sử học<br /> Thuyền lê hạng lớn: Dài 5 trượng 2 thước Việt Nam.<br /> 6 tấc; ngang 7 thước 2 tấc; sâu 3 thước 1 tấc, 10. Trần Nhật Hanh, Quê hương tôi có dòng sông<br /> 36 mái chèo. Vị. Tài liệu chép tay, do ông Trần Nhật Tân,<br /> Thuyền ô, thuyền son, thuyền sai: Đều dài quân nhân hưu trí tại đường Nguyễn Tri<br /> 4 trượng 8 thước; ngang 8 thước 4 tấc, sâu 3 Phương, Thành phố Đà Nẵng cung cấp.<br /> thước 2 tấc, 30 mái chèo. 11. Trương Vĩnh Kí (1881), Chuyến đi Bắc Kì<br /> Thuyền sam bản: Dài 3 trượng 6 thước 5 năm Ất hợi (1876), Bản in Nhà hàng<br /> tấc; ngang 8 thước 5 tấc; sâu 2 thước 2 tấc 5 C.Guilland et Martinon, Sài Gòn.<br /> phân; 32 mái chèo. 12. Ch.Lemire (1899), Ch. Lemire (1899), Les<br /> Thuyền khoái: Dài 3 trượng 3 thước, cinq pays l’Indo-chine fraçaise.<br /> ngang 3 thước 3 tấc, sâu 1 thước 3 phân; 12 L’établissement de Kouang-Tchéou. Le Siam<br /> mái chèo. (leur situation économique par Ch. Lemire.<br /> Thuyền sam bản nhỏ: Dài 1 trượng 8 Résident honoraire de France). A.Challamel,<br /> thước, ngang 3 thước 3 tấc, sâu 1 thước 7 tấc, Editeur libraire coloniale, 17, rue Jacob, Paris.<br /> 10 mái chèo. 13. John Kleinen (2012), Làng Việt, Đối diện<br /> tương lai hồi sinh quá khứ, Nxb Lao động,<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO Hà Nội.<br /> 14. Nguyễn Quang Ngọc (1993), Về một số làng<br /> 1. Đỗ Bang (1999), Kinh tế thương nghiệp Việt buôn ở đồng bằng Bắc Bộ thế kỉ XVIII – XIX,<br /> Nam dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế. Hội sử học Việt Nam, Hà Nội.<br /> 2. Châu bản, Minh Mệnh năm thứ 4 (1823), 15. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004a), Đại Nam<br /> Xuất xứ: Trấn Nam Định, tờ 111, tập 6, Trung thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br /> tâm lưu trữ quốc gia I.<br /> 16. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004b), Đại Nam<br /> 3. Châu bản, Minh Mệnh năm thứ 5(1824), Xuất thực lục, tập V, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br /> xứ: Bắc thành, tờ 41, tập 8, Trung tâm lưu trữ<br /> 17. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006a), Đại Nam<br /> quốc gia I.<br /> thực lụ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2