Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008<br />
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU<br />
<br />
KẾT HỢP XỬ LÝ SƠ BỘ BẰNG ACID FORMIC TRONG QUI TRÌNH CHẾ BIẾN<br />
PHẾ LIỆU TÔM ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHITIN-CHITOSAN<br />
COMBINING PRETREATMENT BY FORMIC ACID IN SHRIMP WASTE PROCESSING FOR<br />
IMPROVING QUALITY OF CHITIN AND CHITOSAN<br />
<br />
Ngô Thị Hoài Dương, Trang Sĩ Trung, Phạm Thị Đan Phượng<br />
Khoa Chế biến - Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Chất lượng chitin và chitosan chiết rút từ vỏ tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) đã được cải<br />
thiện đáng kể khi kết hợp xử lý sơ bộ bằng axit formic với nồng độ 0,4% trong 8h. Sản phẩm thu được<br />
có màu trắng sáng, hàm lượng khoáng và protein thấp hơn 1%, độ nhớt trên 2000 cps, đạt yêu cầu<br />
dùng trong công nghiệp. Bên cạnh đó công đoạn tiền xử lý này đã cho phép giảm hơn 50% lượng hóa<br />
chất và thời gian xử lý, góp phần giảm thiểu chi phí và ô nhiễm môi trường.<br />
Từ khóa: chitin, axit formic, xử lý sơ bộ<br />
Abstract<br />
The quality of chitin and chitosan produced from shrimp shell waste(Penaeus vannamei) was<br />
improved by preteatment with 0.4% formic acid in 8 hours. The colour of final chitin is white and the<br />
ash and protein residue were about less than 1%, the viscosity was up to 2000 cps. In addition, the<br />
chemical consumption, the duration of the treatment was reduced to 50%. In this way, chitosan can be<br />
produced at lower cost and in a more environmentally friendly way.<br />
I. MỞ ĐẦU<br />
Việt Nam hiện nay là một trong số các<br />
<br />
phải có các nghiên cứu giúp hạn chế lượng<br />
hóa chất sử dụng đồng thời nâng cao chất<br />
<br />
quốc gia sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm<br />
từ tôm lớn trên thế giới. Giá trị xuất khẩu các<br />
<br />
lượng sản phẩm.<br />
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, chất<br />
<br />
sản phẩm từ tôm đạt trên 1,3 tỷ USD/năm [11],<br />
<br />
lượng chitin, chitosan có thể được nâng lên khi<br />
<br />
và cùng với đó là một lượng rất lớn phế liệu<br />
tôm được thải ra, ước tính khoảng trên<br />
<br />
kết hợp công đoạn tiền xử lý bằng một số acid<br />
hữu cơ như acid acetic và acid benzoic và<br />
<br />
100.000 tấn năm. Lượng phế liệu này đã và<br />
đang được tận dụng để sản xuất ra các chế<br />
<br />
lượng hóa chất sử dụng giảm đáng kể trong<br />
qui trình sản xuất chitin-chitosan từ tôm Sú<br />
<br />
phẩm có giá trị như chitin-chitosan. Tuy nhiên<br />
các qui trình sản xuất chitin đang sử dụng là<br />
<br />
(Toan và cộng tác viên, 2006; Pratya và cộng<br />
tác viên, 2006). Vì vậy, với mục đích mở rộng<br />
<br />
các qui trình hóa học có sử dụng HCl và NaOH<br />
<br />
khả năng ứng dụng công đoạn tiền xử lý bằng<br />
<br />
ở nồng độ cao, thời gian dài để khử khoáng và<br />
protein nên chất lượng chitin, chitosan không<br />
<br />
acid hữu cơ trong quá trình sản xuất chitin từ<br />
phế liệu tôm thẻ nhằm nâng cao chất lượng<br />
<br />
cao, đặc biệt là sản phẩm có độ nhớt thấp, độ<br />
đục cao. Ngoài ra, lượng hóa chất sau khi xử<br />
<br />
chitin và giảm thiểu ô nhiễm môi trường,<br />
nghiên cứu kết hợp xử lý sơ bộ phế liệu tôm<br />
<br />
lý được thải ra môi trường gây ô nhiễm [10].<br />
Để có thể duy trì và phát triển ngành công<br />
<br />
bằng axit focmic trong quá trình sản xuất chitin<br />
đã được thực hiện. Nghiên cứu này là rất cần<br />
<br />
nghiệp sản xuất chitin-chitosan ở nước ta cần<br />
<br />
thiết và đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay.<br />
<br />
24<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008<br />
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
1. Vật liệu<br />
Phế liệu tôm Thẻ chân trắng (Penaeus<br />
<br />
Sơ đồ bố trí thí nghiệm được trình bày ở<br />
Hình 1. Phế liệu tôm sau khi thu nhận được xử<br />
lý sơ bộ bằng acid formic ở điều kiện: nồng độ<br />
<br />
vannamei) được thu nhận từ Trung tâm Nghiên<br />
<br />
acid formic xử lý là 0,2, 0,4, 0,6% (v/w), tỷ lệ 1/1<br />
<br />
cứu Chế biến Thuỷ sản, Trường Đại học Nha<br />
Trang. Đầu vỏ tươi được thu mỗi đợt 20 kg, bảo<br />
<br />
(w/v), nhiệt độ phòng và thời gian xử lý 4, 6,<br />
8h. Phế liệu tôm sau khi xử lý sơ bộ được tiếp<br />
<br />
quản lạnh, vận chuyển về phòng thí nghiệm, loại<br />
bỏ rác bẩn, rửa và để ráo, sau đó bảo quản ở -<br />
<br />
tục tách lượng protein còn lại bằng NaOH ở<br />
nồng độ 3%, thời gian 24 h, nhiệt độ phòng và<br />
<br />
o<br />
<br />
20 C cho đến khi sử dụng. Acid formic được sử<br />
dụng là dạng tinh khiết. Các hoá chất sử dụng<br />
đều thuộc loại tinh khiết phân tích (PA).<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
2.1 Sơ đồ bố trí thí nghiệm<br />
<br />
tiếp tục khử khoáng bằng HCl ở nồng độ 4%,<br />
thời gian 12 h, nhiệt độ phòng, rửa trung tính,<br />
sấy thu được chitin. Chitin được deacetyl hóa<br />
bằng NaOH 50% trong thời gian 12 h ở nhiệt độ<br />
o<br />
80 C thu được chitosan.<br />
<br />
Phế liệu tôm<br />
<br />
Đối chứng<br />
<br />
Xử lý bằng acid formic<br />
<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
Khử khoáng bằng HCl<br />
<br />
Khử protein bằng NaOH<br />
<br />
3<br />
<br />
Chitin<br />
Xác định tính chất và<br />
đánh giá<br />
<br />
Deacetyl hoá trong NaOH đặc<br />
<br />
4<br />
<br />
Chitosan<br />
<br />
Xác định tính chất và<br />
đánh giá<br />
Hình 1. Sơ đồ qui trình sản xuất chitin-chitosan cải tiến kết hợp xử lý sơ bộ bằng acid formic<br />
Mẫu đối chứng được sản xuất theo qui<br />
<br />
2.2 Phương pháp phân tích: Độ ẩm, Hàm<br />
<br />
trình hóa học truyền thống có chế độ xử lý khử<br />
khoáng bằng HCl ở nồng độ từ 6-7%, thời gian<br />
<br />
lượng protein, hàm lượng tro được phân tích<br />
theo phương pháp của AOAC (1990). Độ nhớt<br />
<br />
2-3 ngày ở nhiệt độ thường, sau đó tiến hành<br />
khử protein bằng NaOH ở nồng độ 6-8% thời<br />
<br />
được của chitosan được xác định trên nhớt kế<br />
Brookfield theo phương pháp của Mukku, 2007.<br />
<br />
gian 2-3 ngày ở nhiệt độ thường.<br />
<br />
25<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008<br />
2.3 Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu<br />
<br />
trên có sự biến thiên. Sự khác biệt về hàm<br />
<br />
báo cáo là trung bình của 3 lần phân tích. Kết<br />
quả được phân tích thống kê bằng phần mền<br />
<br />
lượng khoáng và protein có ảnh hưởng đến chế<br />
độ xử lý tách chiết chitin từ phế liệu của các loại<br />
<br />
Excel, sử dụng ANOVA. Giá trị của p < 0,05<br />
<br />
tôm khác nhau. Tôm thẻ chân trắng là một đối<br />
<br />
được xem là có ý nghĩa về mặt thống kê.<br />
<br />
tượng nuôi mới được phát triển ở nước ta trong<br />
một vài năm gần đây và phế liệu tôm thẻ bắt<br />
<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
1. Thành phần hoá học cơ bản của phế liệu tôm<br />
Thành phần hóa học cơ bản của phế liệu<br />
tôm gồm nước, protein, khoáng và chitin. Tùy<br />
theo loài mà hàm lượng của các thành phần<br />
<br />
đầu được sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất<br />
chitin với số lượng lớn. Thành phần hoá học cơ<br />
bản của phế liệu tôm thẻ chân trắng được xác<br />
định và trình bày ở Bảng 1.<br />
<br />
Bảng 1. Thành phần hoá học cơ bản của phế liệu tôm Thẻ chân trắng<br />
STT<br />
1<br />
<br />
Chỉ tiêu phân tích<br />
<br />
Kết quả<br />
<br />
Độ ẩm (%)<br />
<br />
77,5±1,2<br />
<br />
2<br />
<br />
a<br />
<br />
Hàm lượng tro tổng số (%)<br />
<br />
24,6±0,8<br />
<br />
3<br />
<br />
Hàm lượng Protein (%)<br />
<br />
47,4±1,8<br />
<br />
a<br />
<br />
a<br />
<br />
: Tính theo chất khô tuyệt đối<br />
<br />
Kết quả trên cho thấy hàm lượng khoáng<br />
trong vỏ tôm thẻ chân trắng (Penaeus<br />
<br />
Trong vỏ các loài giáp xác chitin liên kết với<br />
protein và khoáng theo từng lớp, tạo nên độ<br />
<br />
vannamei) thấp hơn so với thành phần khoáng<br />
<br />
chắc cho lớp vỏ. Quá trình loại bỏ khoáng, chủ<br />
<br />
trong vỏ tôm sú (Penaeus monodon) nhưng<br />
hàm lượng protein lại cao hơn (tương ứng là<br />
<br />
yếu là các muối canxi được thực hiện trong môi<br />
trường axit. Trong qui trình sản xuất chitin<br />
<br />
31,20 ± 0,84% và 42,80 ± 0,99%) (Trần Thị<br />
Luyến, 2000; Pratya và cộng sự, 2006). Phân<br />
<br />
truyền thống, quá trình tách khoáng chỉ tiến<br />
hành một giai đoạn, lượng khoáng trong vỏ<br />
<br />
tích này cho thấy cần phải có những nghiên cứu<br />
và điều chỉnh theo hướng giảm nhẹ chế độ khử<br />
<br />
được loại bỏ dưới tác dụng của axit clohydric ở<br />
nồng độ cao trong thời gian dài. Hiệu quả tách<br />
<br />
khoáng trong qui trình sản xuất chitin từ vỏ tôm<br />
<br />
khoáng của qui trình khá cao tuy nhiên chất<br />
<br />
thẻ chân trắng so với so với tôm sú để có được<br />
chế độ xử lý phù hợp với đối tượng này.<br />
2. Ảnh hưởng của quá trình xử lý sơ bộ<br />
bằng acid formic đối với quá trình khử<br />
<br />
lượng của chitin bị ảnh hưởng đáng kể (Trần<br />
Thị Luyến, 2000; Percot và cộng sự, 2003). Khi<br />
<br />
protein và khoáng của phế liệu tôm trong<br />
quá trình sản xuất chitin<br />
<br />
giai đoạn, ở giai đoạn đầu axit formic tương tác<br />
với các khoáng có trong vỏ tôm hình thành nên<br />
<br />
2.1 Ảnh hưởng đến hàm lượng tro còn lại<br />
<br />
các muối format, mà chủ yếu là canxi format, có<br />
<br />
trong mẫu chitin<br />
Kết quả nghiên cứu ở hình 2 cho thấy nồng<br />
<br />
khả năng hòa tan tương đối, nhờ đó một lượng<br />
khoáng nhất định đã được loại trừ khi rửa. Bên<br />
<br />
độ và thời gian xử lý axit formic có ảnh hưởng<br />
đáng kể đến hiệu quả tách khoáng từ vỏ tôm thẻ<br />
<br />
cạnh tác dụng khử khoáng, axit formic còn có<br />
tác dụng phòng thối và làm giảm pH của khối<br />
<br />
chân trắng. Hàm lượng khoáng còn lại giảm<br />
đáng kể khi nâng nồng độ xử lý từ 0,2 lên 0,4%<br />
<br />
nguyên liệu, tạo điều kiện cho các emzim<br />
proteaza nội tại có điều kiện hoạt động, sau quá<br />
<br />
và thời gian từ 4 lên 8h. Tuy nhiên, khi nâng<br />
<br />
trình xử lý sơ bộ với axit formic vỏ tôm trở nên<br />
<br />
nồng độ axit lên 0,6% và thời gian xử lý lên 12h<br />
hiệu quả tách khoáng không tăng.<br />
<br />
"sạch” protein và khoáng hơn, nhờ đó quá trình<br />
khử khoáng ở giai đoạn 2 dưới tác dụng của<br />
<br />
26<br />
<br />
bổ sung quá trình xử lý sơ bộ bằng axit formic,<br />
quá trình khử khoáng được thực hiện qua hai<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008<br />
đồng với kết quả khử khoáng bằng các axit hữu<br />
<br />
hàm lượng khoáng còn lại trong vỏ tôm thấp<br />
hơn 1%. Kết quả này có xu hướng khá tương<br />
<br />
cơ khác như axit lactic, axit axetic của Pratya và<br />
cộng sự 2006, Mahmoud và cộng sự, 2007.<br />
<br />
Hàm lượng khoáng còn lại (%)<br />
<br />
1.8<br />
1.6<br />
<br />
0,2% Formic acid<br />
<br />
1.4<br />
<br />
0,4% Formic acid<br />
<br />
1.2<br />
<br />
0,6% Formic acid<br />
<br />
1<br />
0.8<br />
0.6<br />
0.4<br />
0.2<br />
0<br />
4<br />
<br />
8<br />
<br />
Hàm lượng protein còn lại (%)<br />
<br />
axit clohydric được thuận lợi và triệt để hơn,<br />
<br />
2<br />
1.8<br />
1.6<br />
1.4<br />
1.2<br />
1<br />
0.8<br />
0.6<br />
0.4<br />
0.2<br />
0<br />
<br />
12<br />
<br />
0,4% Formic acid<br />
0,6% Formic acid<br />
<br />
4<br />
<br />
Thời gian xử lý (h)<br />
<br />
Hình 2. Hàm lượng khoáng còn lại trong mẫu<br />
chitin được xử lý sơ bộ bằng axit formic ở nồng<br />
độ từ 0,2-0,6% trong thời gian từ 4-8h.<br />
<br />
0,2% Formic acid<br />
<br />
8<br />
<br />
12<br />
<br />
Thời gian xử lý (h)<br />
<br />
Hình 3. Hàm lượng protein còn lại trong mẫu<br />
chitin được xử lý sơ bộ bằng axit formic ở nồng<br />
độ từ 0,2-0,6% trong thời gian từ 4-8h.<br />
<br />
2.2 Ảnh hưởng đến hàm lượng protein còn<br />
<br />
định trong nguyên liệu, nhờ đó quá trình khử<br />
<br />
lại trong mẫu chitin<br />
<br />
protein với NaOH tiếp sau được giảm nhẹ về<br />
nồng độ và thời gian xử lý, hiệu quả khử protein<br />
<br />
Số liệu ở hình 3 cho thấy bên cạnh tác<br />
dụng hỗ trợ việc tách khoáng, axit formic còn<br />
<br />
cao.<br />
<br />
góp phần làm giảm đáng kể hàm lượng protein<br />
trong các mẫu chitin được xử lý sơ bộ bằng axit<br />
<br />
Khi so sánh chất lượng của chitin được sản<br />
xuất theo qui trình cải tiến có xử lý sơ bộ bằng<br />
<br />
formic. Ở chế độ xử lý với nồng độ axit formic là<br />
4% và thời gian xử lý 8h, hàm lượng protein đã<br />
<br />
axit formic với chitin sản xuất theo qui trình<br />
truyền thống nhận thấy chất lượng của chitin<br />
<br />
giảm xuống dưới 1%.<br />
Quá trình khử protein trong vỏ tôm thực<br />
<br />
sản xuất theo qui trình kết hợp với axit formic có<br />
chất lượng được cải thiện đáng kể. Trong khi<br />
<br />
chất là quá trình thủy phân protein. Trong qui<br />
<br />
mẫu chitin đối chứng có màu trắng đục thì chitin<br />
<br />
trình sản xuất chitin truyền thống quá trình này<br />
diễn ra dưới tác dụng của NaOH. Nghiên cứu<br />
<br />
sản xuất theo qui trình kết hợp thì có màu trắng<br />
sáng, đồng thời hàm lượng tro và protein thấp<br />
<br />
của Percot và cộng sự (2003) đã chỉ rõ khi khử<br />
protein chỉ bằng NaOH năng lượng hoạt hóa<br />
<br />
hơn nhiều so với chitin sản xuất theo qui trình<br />
không có bước xử lý sơ bộ bằng acid formic<br />
<br />
cho giai đoạn đầu khá lớn vì vậy cần sử dụng<br />
NaOH có nồng độ cao, trong thời gian dài, dẫn<br />
<br />
(Hình 4).<br />
Kết luận: Từ kết quả trên cho phép chọn<br />
<br />
đến suy giảm chất lượng của chitin. Tuy nhiên<br />
<br />
chế độ xử lý sơ bộ phế liệu tôm bằng acid<br />
<br />
khi kết hợp xử lý với axit formic, các emzym<br />
proteaza có sẵn trong đầu tôm đã được hoạt<br />
<br />
formic ở nồng độ 0,4% và thời gian 8h để mẫu<br />
chitin thu được có hàm lượng protein và khoáng<br />
<br />
hóa trong điều kiện pH thích hợp ngay từ giai<br />
đoạn đầu đã đẩy nhanh quá trình thủy phân<br />
<br />
thấp hơn 1% để đáp ứng yêu cầu chất lượng về<br />
chitin công nghiệp (Mukku và cộng tác viên,<br />
<br />
protein và loại bỏ được một lượng protein nhất<br />
<br />
2007).<br />
<br />
27<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008<br />
3. Chất lượng chitosan sản xuất từ chitin<br />
<br />
nhớt rất cao, gấp hơn 4 lần so với chitosan<br />
<br />
của qui trình kết hợp xử lý sơ bộ bằng acid<br />
formic<br />
<br />
sản xuất từ qui trình truyền thống (tương ứng<br />
là 2100 ± 60 cps và 484 ± 31cps). Bên cạnh<br />
<br />
Để có thể đánh giá chính xác hơn hiệu<br />
<br />
tác dụng tăng cường hiệu quả tách khoáng và<br />
<br />
quả của công đoạn xử lý sơ bộ bằng axit<br />
formic, quá trình deacetyl để chuyển chitin<br />
<br />
protein, công đoạn xử lý sơ bộ bằng axit formic<br />
còn giúp giảm nhẹ chế độ xử lý hóa chất, cụ<br />
<br />
sang dạng dẫn xuất hòa tan là chitosan đã<br />
được thực hiện.<br />
<br />
thể nồng độ axit HCl và NaOH cần dùng trong<br />
qui trình cải tiến giảm so với qui trình truyền<br />
<br />
Kết quả phân tích các chỉ tiêu chất lượng<br />
chính của chitosan thu được từ chitin sản xuất<br />
<br />
thống tương ứng từ 6-7% và từ 6-8% xuống<br />
còn 4% và 3%, thời gian xử lý rút ngắn hơn 3<br />
<br />
từ qui trình cải tiến và qui trình hóa học truyền<br />
<br />
lần. Việc hạn chế sự tiếp xúc với các axit<br />
<br />
thống được trình bày ở Bảng 3.<br />
Kết quả cho thấy, chitosan sản xuất bằng<br />
<br />
mạnh và kiềm ở nồng độ cao trong thời gian<br />
dài đã làm cho các tính chất đặc trưng của<br />
<br />
qui trình kết hợp có các chỉ tiêu chất lượng tốt<br />
thể hiện qua hàm lượng protein và tro thấp<br />
<br />
chitin như độ dài mạch, độ deacetyl ít bị ảnh<br />
hưởng, nhờ đó chitin –chitosan sản xuất theo<br />
<br />
hơn, độ tan tốt và độ đục thấp, đặc biệt độ<br />
<br />
qui trình cải tiến có độ nhớt cao, độ đục thấp.<br />
<br />
Hàm lượng tạp chất còn lại (%)<br />
<br />
2.5<br />
Hàm lượng khoáng còn lại<br />
<br />
2<br />
<br />
Hàm lượng protein còn lại<br />
<br />
1.5<br />
1<br />
0.5<br />
0<br />
Mẫu không xử lý<br />
<br />
Mẫu có xử lý<br />
<br />
Mẫu chitin<br />
<br />
Hình 4. Hàm lượng tạp chất còn lại trong mẫu chitin được xử lý sơ bộ<br />
và không xử lý sơ bộ với axit formic<br />
Kết quả của nghiên cứu này cho cũng cho<br />
thấy việc xử lý sơ bộ bằng axit trên đối tượng<br />
<br />
axit formic 0,25M và benzoic 0,25M theo tỷ lệ<br />
1:2 (v/v) trên nguyên liệu là vỏ tôm sú, trong cả<br />
<br />
tôm thẻ chân trắng có hiệu quả tương đồng<br />
<br />
hai trường hợp hàm lượng tạp chất còn lại đều<br />
<br />
như với đối tượng tôm sú đã được một số tác<br />
giả nghiên cứu (Kyaw và Stevens, 2004;<br />
<br />
thấp hơn 1%. Điều này có thể là do hàm lượng<br />
khoáng ở vỏ tôm thẻ chân trắng thấp hơn so<br />
<br />
Pratya và cộng sự, 2006; Nguyễn Văn Toàn và<br />
cộng sự, 2006). So sánh với nghiên cứu của<br />
<br />
với vỏ tôm sú (24,6±0,8 và 31,20 ± 0,84%<br />
tương ứng) nên một mình axit formic đã có thể<br />
<br />
Pratya và cộng sự (2006) thấy rằng quá trình<br />
tiền xử lý bằng axit formoic ở nồng độ 0,4 %<br />
<br />
cắt mạch và làm yếu liên kết chitin-khoángprotein. Vì vậy đối với phế liệu tôm thẻ chân<br />
<br />
trong 8h với nguyên liệu là vỏ tôm thẻ chân<br />
<br />
trắng không cần phải phối hợp nhiều loại axit<br />
<br />
trắng có hiệu quả tách khoáng và protein<br />
tương đương với hiệu quả xử lý bằng hỗn hợp<br />
<br />
để xử lý sơ bộ như các tác giả đã thực hiện<br />
với phế liệu tôm sú.<br />
<br />
28<br />
<br />