KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA PHẪU THUẬT HẠ TRỰC TRÀNG<br />
VỚI NỘI SOI HỖ TRỢ TRONG ĐIỀU TRỊ<br />
KHÔNG HẬU MÔN DẠNG CAO Ở TRẺ EM<br />
Trần Thanh Trí*, Chìu Kín Hầu*, Phạm Ngọc Thạch*, Huỳnh Lộc Sơn*, Trần Vĩnh Hậu*,<br />
Marilyn Bultler**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Georgeson và cộng sự đã báo cáo một kỹ thuật mổ mới trong điều trị không hậu môn dạng cao<br />
thay vì ngã dọc sau (PSARP). Trong kỹ thuật này, việc kéo túi cùng trực tràng xuống được thực hiện với hổ trợ<br />
nội soi (LAARP). Chúng tôi báo cáo vài kinh nghiệm trong kỹ thuật này. LAARP được thực hiện như mô tả của<br />
Georgeson et al. vào năm 2000. Nong hậu môn mới được tạo hình được thực hiện từ ngày 14 và tiếp tục đến<br />
tháng 18 sau mổ.<br />
Phương pháp: Từ tháng 2 năm 2007 đến tháng 10 năm 2009, sáu bệnh nam không hậu môn dạng cao đã<br />
được tạo hình hậu môn trực tràng với nội soi hổ trợ được hồi cứu.<br />
Kết quả: LAARP được thực hiện ở cả 6 bệnh nhi có hậu môn tạm ở đại tràng chậu hông. Dò túi cùng trực<br />
tràng vào bàng quang ở bệnh nhân 2 và 6, vào cổ bàng quang ở bệnh nhân 1, 3 và 5, và vào niệu đạo tiền liệt<br />
tuyến ở bệnh nhân 4. Tất cả sáu bệnh nhân được xác định vị trí cơ vòng bằng kích thích điện cơ. Hiện nay, thời<br />
gian theo dõi từ 1-30,3 tháng. Tất cả bệnh nhi đều tiêu tự chủ. Hai bệnh nhân thỉnh thoảng có táo bón. Bệnh<br />
nhân 4 còn túi thừa niệu đạo do tồn lưu 1 phần đường dò túi cùng trực tràng niệu đạo.<br />
Kết luận: LAARP giúp việc bóc tách sâu trong vùng tiểu khung dễ dàng hơn, cho phép quan sát tốt đường<br />
dò và các cấu trúc trong vùng chậu, tạo điều kiện cho việc đặt chính xác trực tràng vào phức hợp cơ vòng, giảm<br />
thiểu sang chấn vùng bụng cũng như vùng tầng sinh môn.<br />
Từ khóa: Phẫu thuật hạ trực tràng, nội soi hỗ trợ, không hậu môn dạng cao.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
INITIAL RESULT OF LAPAROSCOPY-ASSISTED ANORECTAL PULL – THROUGH IN TREATMENT<br />
OF HIGH IMPERFORATE ANUS INSTEAD POSTERIOR ANORECTOPLASTY<br />
Tran Thanh Tri, Chiu Kin Hau, Pham Ngoc Thach, Huynh Lộc Son, Tran Vinh Hau, Marilyn Bultler<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 6 - 2009: 58 - 62<br />
Objectives: Georgeson et al. have reported a new operative technique for the treatment of high imperforate<br />
anus instead posterior sagittal anorectoplasty (PSARP). In this technique, anorectal pull-through is performed<br />
without a posterior sagittal incision with laparoscopic assistance. We report our experience of laparoscopy-assisted<br />
anorectal pull-through (LAARP).<br />
Methods: From February 2007 to October 2009, six male patients of high imperforate anus who underwent<br />
LAARP were evaluated retrospectively. The LAARP procedure was accomplished as described by Georgeson et al.<br />
in 2000. Neoanal dilatation was performed on the 14th postoperative day and was continued until 18th<br />
postoperative months.<br />
Results: LAARP was performed in the presence of colostomy in all patients. The rectourinay fistula opened<br />
to the bladder in patient 2 and 6, to the neck of bladder in patient 1, 3 and 5, to the prostatic urethra in patient 4.<br />
* Bệnh viện Nhi ñồng 2, ** Đại học Stanford<br />
Địa chỉ liên lạc: Ths.Bs Trần Thanh Trí, ĐT: 0919443454, Email: tran_khon@yahoo.com<br />
<br />
58<br />
<br />
All of six patients have a brisk and symmetric anal contraction with perineal electrostimulation. Currently, the<br />
follow-up period is 1-30.3 months. All patients are continent. The patient 2 has occasionally constipation. The<br />
patient 4 had a residual rectourethral fistula causing a posterior urethral diverticulum.<br />
Conclusion: LAARP helps to achieve low dissection, give an excellent view of the fistula and of the pelvic<br />
structure, provides accurate placement of the rectum through the sphincter complex and minimizes abdominal<br />
and perianal scars.<br />
Key words: assisted anorectal pull through, high imperforate anus instead posterior anorectoplasty.<br />
cao được hạ đại tràng với nội soi ổ bụng hổ trợ.<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Tất cả những bệnh nhân này được mở hậu môn<br />
Trong 20 năm qua, phẫu thuật tạo hình<br />
tạm đại tràng chậu hông trong thời kỳ sơ sinh.<br />
hậu môn trực tràng qua đường mổ dọc sau là<br />
Trước phẫu thuật tạo hình hậu môn trực tràng,<br />
một phẫu thuật tiêu chuẩn để điều trị dị dạng<br />
túi cùng trực tràng được chụp cản quang để xác<br />
hậu môn trực tràng dạng cao(2,3). Năm 2000,<br />
định vị trí trực tràng dò vào đường tiểu.<br />
Georgeson và cộng sự đã bóc tách túi cùng<br />
Phương pháp phẫu thuật<br />
trực tràng qua ngã nội soi và hạ đại tràng mà<br />
Bệnh nhân được nằm ngữa ở đầu dưới của<br />
không cần đường mổ dọc sau(2). Qua bài này<br />
bàn mổ. Phần thân dưới của bệnh nhân từ mũi<br />
chúng tôi ghi nhận kết quả bước đầu trong<br />
ức trở xuống được sát trùng. Hai chân bệnh<br />
điều trị không hậu môn dạng cao ở trẻ em<br />
nhân được mang vớ vô trùng và để ở tư thế sinh<br />
bằng phương pháp trên.<br />
lý. Bệnh nhân được đặt thông tiểu. Hậu môn<br />
Mục tiêu nghiên cứu<br />
tạm được phủ bằng gạc tẩm povidone iodine và<br />
Báo cáo vài kinh nghiệm trong kỹ thuật phẫu<br />
cô lập bằng băng dính trong suốt và vô trùng.<br />
thuật hạ trực tràng với nội soi hỗ trợ (LAARP)<br />
Vào bụng bằng phương pháp hở với trocar<br />
trong điều trị không hậu môn dạng cao ở trẻ em.<br />
10mm trên rốn phải, áp lực CO2 trong ổ bụng từ<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
8-12mmHg. Hai trocars 5mm được đặt ở trên và<br />
Từ tháng 2/2007 đến nay, tại bệnh viện Nhi<br />
ngang rốn trái, một trocar 3mm được đặt ngang<br />
Đồng 2, sáu bệnh nhân không hậu môn dạng<br />
rốn bên phải (Hình 1).<br />
<br />
Hình 1: Tư thế bệnh nhân và trocars<br />
<br />
Hình 2: Hậu môn mới được tạo hình<br />
<br />
59<br />
<br />
Túi cùng trực tràng được giữ bởi kẹp và kéo<br />
bởi kẹp không sang chấn được đặt ở hố chậu<br />
trái. Bóc tách trực tràng từ phúc mạc quanh trực<br />
tràng, mạc treo trực tràng được cắt đốt. Bàng<br />
quang được kéo bởi một kẹp khác hoặc được<br />
treo vào thành trước bụng bằng chỉ. Đường dò<br />
được cột bởi chỉ Vricryl 2.0 và sau đó được cắt<br />
ngang. Kéo trực tràng ra khỏi vùng chậu, chúng<br />
tôi quan sát được cơ cụt mu và mu trực tràng.<br />
Dùng kích thích điện cơ để xác định vị trí rạch<br />
da cũng như quan sát sự co cơ trong vùng chậu.<br />
Dùng kim Veress đặt vào vị trí da vừa đánh dấu<br />
với đường rạch hình chữ thập rồi xuyên giữa hai<br />
bó của các cơ mu cụt và mu trực tràng dưới<br />
quan sát từ nội soi. Sau đó, con đường này được<br />
nong dần bằng trocars 3mm, 5mm và cuối cùng<br />
là 10mm Túi cùng trực tràng được kéo xuống<br />
bằng 1 kẹp không sang chấn qua trocar 10mmm<br />
vừa đặt. Miệng nối trực tràng ra da được thực<br />
hiện với mũi rời với PDS 5.0 (Hình 2). Nong hậu<br />
môn được thực hiện từ ngày 14 sau mổ cho đến<br />
15 tháng sau. Bệnh nhân được tái khám sau 2<br />
tuần đầu sau xuất viện, mỗi 1 tháng trong 3<br />
tháng, mỗi 3 tháng cho đến khi ngừng nong hậu<br />
môn và mỗi 6-12 tháng sau đó. Đánh giá chức<br />
năng dựa vào số lần tiêu mỗi ngày, số lần và<br />
mức độ són phân, số lần nhập viện vì phân đá,<br />
số lần táo bón cần điều trị và các biến chứng liên<br />
quan phẫu thuật.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Đặc điểm lâm sàng được trình bày theo bảng<br />
1. Tất cả bệnh nhân đều có hậu môn tạm đại<br />
tràng chậu hông được mở ra ở hố chậu trái và<br />
hậu môn tạm này hoàn toàn không gây cản trở<br />
gì cho cuộc mổ. Năm trường hợp là dò trực<br />
tràng vào cổ bàng quang hoặc bàng quang. Một<br />
trường hơp thứ 4 là dò vào niệu đạo tiền liệt<br />
tuyến. Đó cũng là trường hợp có túi thừa niệu<br />
đạo được phát hiện tình cờ khi chụp bàng quang<br />
ngược dòng để khảo sát đường tiết niệu trước<br />
khi đóng hậu môn tạm (Hình 3). Máu mất khi<br />
mổ từ 10-15ml. Năm trường hợp đã được đóng<br />
hậu môn tạm.<br />
<br />
Hình 3: Túi thừa niệu đạo<br />
Không có trường hợp nào són phân. Có hai<br />
trường hợp táo bón không thường xuyên đáp<br />
ứng tốt khi bơm glycerine và uống thuốc<br />
nhuận trường.<br />
<br />
Bảng 1: Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân<br />
1<br />
7,4<br />
<br />
2<br />
4,6<br />
<br />
Bệnh nhân<br />
3<br />
4,2<br />
<br />
Tuổi khi làm phẫu<br />
thuật (tháng)<br />
Cân nặng khi làm<br />
7,4<br />
5,7<br />
8<br />
phẫu thuật (kg)<br />
Hậu môn tạm<br />
+<br />
+<br />
+<br />
Vị trí ñường dò Cổ bàng quang<br />
Bàng quang<br />
Cổ bàng quang<br />
Dị tật phối hợp Teo thực quản Tồn tại lỗ bầu dục<br />
không<br />
Lỗ tiểu thấp<br />
Lỗ tiểu thấp<br />
Thời gian phẫu<br />
165'<br />
165'<br />
115'<br />
thuật<br />
Thời gian từ lúc PT<br />
3,7<br />
7,7<br />
4,9<br />
cho ñến khi ñóng<br />
HMT (tháng)<br />
<br />
4<br />
9,2<br />
<br />
5<br />
3<br />
<br />
6<br />
3,2<br />
<br />
6,2<br />
<br />
5,2<br />
<br />
5,2<br />
<br />
+<br />
Niệu ñạo<br />
không<br />
<br />
+<br />
Cổ bàng quang<br />
Lỗ tiểu thấp Thận<br />
nước<br />
<br />
+<br />
Bàng quang<br />
CIA, CIV Cao<br />
áp phổi<br />
<br />
120'<br />
<br />
160'<br />
<br />
160'<br />
<br />
4,5<br />
<br />
4<br />
<br />
4,5<br />
<br />
60<br />
<br />
Thời gian theo dõi<br />
(tháng)<br />
Biến chứng phẫu<br />
thuật<br />
Táo bón<br />
Són phân<br />
<br />
1<br />
30,7<br />
<br />
2<br />
30,3<br />
<br />
không<br />
<br />
Không<br />
<br />
+<br />
-<br />
<br />
+<br />
-<br />
<br />
Bệnh nhân<br />
3<br />
19,2<br />
<br />
4<br />
19,2<br />
<br />
5<br />
4.3<br />
<br />
6<br />
1<br />
<br />
Không<br />
<br />
Túi thừa niệu ñạo<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Trong điều trị không hậu môn dạng cao, vấn đề quan trọng là đặt trực tràng chính xác vào phức<br />
hợp cơ vòng. Năm 1948, Rhoad lần đầu tiên hạ túi cùng qua ngả bụng và tầng sinh môn(10). Sau đó,<br />
nhiều phương pháp khác nhau được áp dụng nhưng đều là mù vì không thể nhìn thấy phức hợp cơ<br />
vòng(3). Tạo hình hậu môn trực tràng qua ngả dọc sau được De Vries và Pena thực hiện đã trở trành<br />
phương pháp điều trị chuẩn cho không hậu môn dạng cao trong hơn 20 năm qua vì cho thấy rõ phức<br />
hợp cơ vòng(2,3). Nhưng trong phương pháp này, điều quan trọng là luôn bóc tách đúng đường giữa.<br />
Qua ngả nội soi ổ bụng, đường dò trực tràng vào đường tiểu được bóc tách và cắt ngang, túi cùng<br />
được đặt vào giữa phức hợp cơ vòng mà không cần bóc tách theo đường giữa vì các bó cơ mu cụt và<br />
mu trực tràng đường quan sát rất rõ(2,3).<br />
Ngoài kích thích điện cơ khảo sát tại tầng sinh môn như chúng tôi có áp dụng, một số tác giả còn<br />
sử dụng kích thích điện cơ trong phúc mạc(5,14), siêu âm với đầu dò ở tầng sinh môn(7,13) để xác định<br />
chính xác phức hợp cơ vòng và đặt túi cùng trực tràng vào phức hợp này.<br />
Vì những thuận lợi trên nên việc bóc tách và đưa túi cùng với nội soi hổ trợ ít gây tổn thương mô<br />
hơn và sự lành sẹo tốt hơn trong phương pháp tạo hình hậu môn trực tràng với nội soi ổ bụng hổ trợ.<br />
Có thể vì vậy mà trong thời gian hậu phẫu, áp lực trong ống hậu môn lúc nghỉ thấp hơn ở bệnh nhân<br />
được tạo hình hậu môn trực tràng với nội soi ổ bụng hổ trợ. Áp lực này có thể liên quan đến khả năng<br />
kiểm soát phân của bệnh nhi sau này(3).<br />
Không những hạn chế những tổn thương phức hợp cơ vòng, cho thấy rõ vị trí cần đặt trực tràng<br />
vào giữa hai bó có cụt mu - mu trực tràng, nội soi ổ bụng còn cho thấy những dị tật bất thường khác<br />
phối hợp như bất sản tử cung hay tử cung đôi. Vì vậy mà những tác giả khác đã áp dụng phương<br />
pháp phẫu thuật này ở bé gái không hậu môn có đường dò vào âm đạo hoặc hố tiền đình kèm bất sản<br />
tử cung âm đạo(11).<br />
Túi thừa sau niệu đạo xảy ra với tỷ lệ 2% ở bệnh nhi không hậu môn có dò trực tràng vào niệu đạo<br />
sau phẫu thuật tạo hình hậu môn trực tràng theo ngả dọc sau hoặc ngả bụng(4,9). Biến chứng này trên<br />
bệnh nhân không hậu môn có dò trực tràng vào niệu đạo hành được hạ trực tràng với nội soi hổ trợ<br />
được báo cáo lần đầu tiên vào năm 2004(6). Cho đến nay số lượng bệnh nhân được mổ với nội soi hổ trợ<br />
chưa nhiều nên chưa có thống kê về tần suất biến chứng trên. Biến chứng này thường xảy ra ở đường<br />
dò vào niệu đạo hành vì phân này khó quan sát khi nội soi(6) và vì vậy sẽ để lại khá nhiều phần túi<br />
cùng trực tràng và sau này sẽ hình thành túi thừa niệu đạo sau.<br />
Sa niêm mạc trực tràng là biến chứng thường gặp ở những nghiên cứu khác với tỷ lệ 46%(8)<br />
nhưng không gặp ở bệnh nhân của chúng tôi.<br />
<br />
61<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Nội soi hổ trợ trong phẫu thuật hạ trực tràng trong điều trị không hậu môn dạng cao<br />
mang lại nhiều ưu điểm: 1. giúp bóc tách túi cùng dễ dàng túi cùng trực tràng ra khỏi các<br />
cấu trúc lận cận mà không gây tổn thương, 2. giúp quan sát rõ phức hợp cơ vùng chậu nhất<br />
là hai bó cơ của các cơ cụt mu và mu trực tràng từ đó giúp đặt chính xác trực tràng vào giữa<br />
phức hợp cơ vòng, 3. Giúp phát hiện những bất thường khác trong vùng chậu nhất là ở trẻ<br />
gái. Tuy nhiên, chúng tôi cần số lượng bệnh nhiều hơn và thời gian theo dõi dài hơn để có<br />
thể đánh giá kết quả phẫu thuật một cách toàn diện.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
2.<br />
3.<br />
4.<br />
5.<br />
6.<br />
7.<br />
8.<br />
9.<br />
10.<br />
11.<br />
12.<br />
13.<br />
14.<br />
<br />
De Veries PA, Pena A.: "Posterior sagittal anorectoplasty.". J Pedi Surgery 17:638-643, 1982.<br />
Georgeson K.E., Inge T. H., Albanese C. T.: "Laparoascopically assisted anorectal pull-through for the high imperforate<br />
anus - a new technique.". J Pedi Surgery 35:927-931, 2000.<br />
Hakguder G et al.: "A unique of opportunity for the operative treatment of high anorectal malformations: laparoscopy.".<br />
Eur J Pedi Surgery 16:449-455, 2006.<br />
Hong A. R. et l.: "Urology injuries associated with repair of anorectal malformations in male patients". J Pedi Surgery<br />
37:339-344, 2002.<br />
Iwanaka T. et al.: "Finding of musculature and efficacy of laparoscopic muscle stimulator in laparoscopy-assisted anorectal<br />
pull-through for the high imperforate anus." Surg endosc 17:278-81, 2003.<br />
Koga H et al.: "Posterior urethral diverticulum after laparoscopic-assisted repair of high type anorectal malformation in a<br />
male patient: surgical treatment and prevention.". Pediatr Surg Int 21:58-60, 2005.<br />
Kubota A. et al.: "Laparoscopically assisted anorectoplasty using perineal ultrasonographic guide, a preliminary.". J Pedi<br />
Surgery 40:1535-1538, 2005.<br />
Kudou sumi et al.: "Midterm follow-up study of the high-type imperforate anus after laparoscopically assisted<br />
anorectoplasty.". J Pedi Surgery 40:1923-1926, 2005.<br />
Pena A. et al.: "Reoperative surgery for anorectal anomalies". Semin Pedi Surgery 12:118-123, 2003.<br />
Rhoad J. E., Piper R. L., Randall J.: "A simultaneous abdominal and perinal approach in operations for imperforate anus<br />
with atresia of the rectum and rectosigmoid. Ann Surg 127:552-556, 1948.<br />
Tei E. et al.: "Laparoscopically assisted anorectovaginoplasty for selected types of female anorectal malformations". J Pedi<br />
Surgery 38:1770-1774, 2003.<br />
Vinnicombe S.J. Good C. D., Hall C. M.; "Posterior urethral diverticula: a complication of surgery for high anorectal<br />
malformation. Pediatr Rdiol 26:120-126, 1996.<br />
Yamakata A. et al.: "Intraoperative endosonography enhances laparoscopy-assisted colon pull-through for high<br />
imperforate anus." J Pedi Surgery 37:1675-1660, 2002.<br />
Yamataka A. et l.: "Laparoscopic muscle electrostimulaion during laparoscopy-assisted anorectal pull-through for high<br />
imperforate anus." J Pedi Surgery 36:1659-1661,2001.<br />
<br />
62<br />
<br />