Nghiªn cøu khoa häc c«ng nghÖ<br />
<br />
<br />
Kh¶ n¨ng ph©n hñy c¸c thµnh phÇn cña<br />
chÊt diÖt cá bëi tËp ®oµn vi khuÈn kþ khÝ<br />
h« hÊp lo¹i khö clo lµm giµu tõ c¸c l« sö lÝ<br />
t¹i s©n bay biªn hßa vµ ®µ n½ng<br />
NGUYỄN THỊ TÂM THƯ*, PHÙNG KHẮC HUY CHÚ**, ĐẶNG THỊ CẨM HÀ***<br />
<br />
Tóm tắt: Các hợp chất hữu cơ chứa clo nói chung và chất diệt cỏ chứa dioxin nói<br />
riêng là các chất độc hại không chỉ đối với con người, động thực vật và môi trường mà<br />
nó còn độc cả với các vi sinh vật (VSV), đặc biệt là VSV hiếu khí. Để có thể xử lý triệt để<br />
các chất ô nhiễm chứa nhiều nguyên tử clo như thành phần của chất diệt cỏ/dioxin cần<br />
có sự tham gia của các vi khuẩn kỵ khí (VK KK) hô hấp loại khử clo. Các VK KK này sẽ<br />
loại bớt các nguyên tử clo của các hợp chất chứa nhiều clo, độc thành các hợp chất chứa<br />
ít clo và ít độc hơn, tạo điều kiện cho sự khoáng hóa hoàn toàn bởi các VSV hiếu<br />
khí.Trong bài báo này, các tập đoàn VK KK hô hấp loại khử clo từ các lô xử lý ở Biên<br />
Hòa và Đà Nẵng được làm giàu trên môi trường khoáng M204 chứa dịch chiết đất<br />
(DCĐ). Khả năng phân hủy một số thành phần có trong DCĐ bởi tập đoàn VK KK hô<br />
hấp loại khử clo trong mẫu làm giàu đã được xác định trên máy HPLC sau 9 tháng. Hiệu<br />
suất phân hủy các thành phần của chất diệt cỏ và các chất trao đổi của chúng ở các mẫu<br />
Biên Hòa và Đà Nẵng khác nhau chứng tỏ các VK KK có mặt trong mẫu nuôi cấy không<br />
giống nhau. Kết quả này một lần nữa khẳng định vai trò của VK KK hô hấp loại khử clo<br />
trong quá trình xử lý chất diệt cỏ/dioxin ở Việt Nam.<br />
Từ khóa: Biên Hòa, Đà Nẵng, Chất diệt cỏ, phân hủy, Vi khuẩn kỵ khí, Loại khử clo.<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Từ những năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã rải xuống miền Trung và miền<br />
Nam Việt Nam hàng trăm triệu lít chất diệt cỏ chứa dioxin. Hiện nay, sân bay Biên Hòa,<br />
Đà Nẵng và Phù Cát vẫn được coi là 3 “điểm nóng” về ô nhiễm chất diệt cỏ/dioxin ở mức<br />
cao và rất cao. Tại sân bay Biên Hòa và Đà Nẵng, mức độ ô nhiễm có thể lên tới hàng<br />
trăm ngàn ppt [2].<br />
Biện pháp phân hủy sinh học đã được ứng dụng và xử lý thành công ở các quy mô khác<br />
nhau, từ 0,5 m3 đến 100 m3 tại sân bay Đà Nẵng và 3.384 m3 tại sân bay Biên Hòa. Các kết<br />
quả thu được từ các lô xử lý cho thấy các VSV tham gia vào quá trình xử lý khá đa dạng<br />
về chủng loại [4]. Hiệu quả xử lý đạt kết quả từ 50-70% tại Đà Nẵng sau 2 năm xử lý [3,5]<br />
và đạt 99,48% sau 27 tháng xử lý tại sân bay Biên Hòa [6]. Để đạt được hiệu quả như vậy<br />
cần có sự tham gia của rất nhiều VSV khác nhau trong đó có VK KK hô hấp loại khử clo.<br />
Các VK KK hô hấp loại khử clo rất đa dạng và được chia thành 3 nhóm là nhóm hô hấp<br />
loại khử clo bắt buộc, nhóm hô hấp loại khử clo không bắt buộc và nhóm hô hấp loại khử<br />
clo đồng trao đổi chất [10]. VK Dehalococcoides thuộc nhóm vi khuẩn hô hấp loại khử clo<br />
bắt buộc, chúng phải sử dụng các chất hữu cơ chứa clo làm chất nhận điện tử cuối cùng<br />
trong chuỗi hô hấp. Đây là VK có khả năng loại khử clo của rất nhiều hợp chất bao gồm cả<br />
các chất chứa clo mạch thẳng, vòng thơm và đa vòng thơm nên chúng được gọi là các “thợ<br />
khử clo”. Trong các lô xử lý chất diệt cỏ/dioxin ở Biên Hòa và Đà Nẵng cũng đã xác định<br />
sự có mặt của các VK này[1,7]. Tuy nhiên, các VK này rất khó nuôi cấy và phân lập,<br />
chúng thường sống trong tập đoàn có nhiều các VK KK khác. Các VK KK khác có thể có<br />
khả năng loại khử clo hoặc không có nhưng chúng tạo ra các chất dinh dưỡng cần thiết và<br />
H2 (chất cho điện tử) cho VK KK bắt buộc như Dehalococcoides sinh trưởng [11].<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
T¹p chÝ Nghiªn cøu KH&CN qu©n sù, Sè 32, 08 - 2014 147<br />
Hãa häc & Kü thuËt m«i trêng<br />
<br />
Hiện nay, các nhà khoa học ở Việt Nam mới chỉ tập trung vào các VSV hiếu khí và các<br />
VK KK không bắt buộc. Đối với nhóm VK KK bắt buộc có khả năng hô hấp loại khử clo,<br />
có một vài nghiên cứu về nhóm VK này được làm giàu trên 2,4,5-T [8]. Chưa có nghiên<br />
cứu nào tập trung vào VK KK bắt buộc được làm giàu trên dịch chiết đất (DCĐ) chứa hỗn<br />
hợp 2,3,7,8-TCDD (tetrachlorodibenzo-p-dioxin), 2,4-dichlorophenoxyacetic acid (2,4-D),<br />
2,4,5-trichloro-phenoxyacetic acid ( 2,4,5-T), các đồng phân độc của dioxin và furan, một<br />
số sản phẩm phân hủy trung gian của các hợp chất này như 2,4-dichlorophenol (2,4-DCP),<br />
2,4,5-trichlorophenol (2,4,5-TCP). Trong nghiên cứu này, khả năng phân hủy 2,4-D, 2,4,5-<br />
T trong mẫu làm giàu VK KK hô hấp loại khử clo tren DCĐ đã được xác định.<br />
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
2.1. Vật liệu<br />
Mẫu P1 là mẫu đất nguyên thủy, không xử lý, được sử dụng làm mẫu đối chứng trong<br />
các mẫu xử lý quy mô 2m3 tại Đà Nẵng. Mẫu này đã được phát hiện có mặt một số VK<br />
KK như Desulfovibrio, Dehalococcoides, Desulfitobacterium. Đặc điểm của mẫu đất ở<br />
đây là chứa nhiều cát, pH axit yếu (từ 5,5 đến 6,5) [5].<br />
Mẫu M3 được lấy từ các lô xử lý tích cực ở sân bay Biên Hòa sau 18 tháng (lô xử lý<br />
3.384m3 được chia thành 4 lô nhỏ, mỗi lô nhỏ có thể tích 846 m3 được lấy ở 4 vị trí khác<br />
nhau. Các lô nhỏ được ký hiệu là M1, M2, M3, M4). Lô xử lý này có tổng độ độc trung<br />
bình giảm từ 10.000 ng TEQ/kg đất xuống còn 52 ng TEQ/kg đất sau 27 tháng xử lý [6].<br />
Đất ở sân bay Biên Hòa có đặc điểm từ nhiều nơi mang đến, rất phức tạp và ít cát, đất có<br />
pH trung tính. Lô xử lý này cũng đã được xác định có mặt nhiều VK KK khác nhau trong<br />
đó có Dehalococcoides, Desulfovibrio, Desulfitobacterium. Phương pháp xử lý đất nhiễm<br />
chất diệt cỏ/dioxin ở Biên Hòa cũng hoàn toàn khác so với đất ở Đà Nẵng. Đất ở đây được<br />
bổ sung chế phẩm Slow-D, DSH1, DSH2 và các phụ phế liệu nông nghiệp với các kích<br />
thước khác nhau.<br />
Các mẫu đất được lấy ở độ sâu từ 1-2 m và bảo quản ở 4oC cho đến khi tiến hành các<br />
thí nghiệm tiếp theo.<br />
2.2. Phương pháp<br />
Làm giàu VK KK hô hấp loại khử clo: Môi trường khoáng kỵ khí M204 được dùng để<br />
làm giàu một số VK KK có khả năng hô hấp loại khử clo. Thành phần môi trường bao gồm<br />
(g/l) MgSO4.7H2O 0,069, MgCl2.6H2O 0,053, CaCl2.2H2O 0,12, NH4HCO3 0,42, cao nấm<br />
men 0,05, H2O 1000, 1 ml/l dung dịch vi lượng I, resazurin 0,1%. Môi trường được đun sôi<br />
và làm nguội đến nhiệt độ phòng dưới dòng khí nitơ. Điều chỉnh pH 7-7,2 bằng NaHCO3<br />
tinh thể dưới dòng khí N2 để đảm bảo môi trường kỵ khí. Khử trùng môi trường ở 121oC, 20<br />
phút. Trước khi bổ sung môi trường vào các mẫu nuôi cấy, bổ sung thêm nguồn carbon (bao<br />
gồm pyruvate, formate, furmarate, lactate với nồng độ 5 mM), 1 ml/l vitamin II, Na2S,<br />
NaHCO3 (điều chỉnh lại pH), Ti-(III)-citrate, FeS 0,15 mM. Chất hữu cơ chứa clo được sử<br />
dụng làm chất nhận điện tử là DCĐ (2% v/v) để làm giàu vi khuẩn kỵ khí hô hấp loại clo<br />
bao gồm cả Dehalococcoides [9]. DCĐ sử dụng trong nghiên cứu chứa các thành phần 2,4-<br />
D, 2,4,5-T, một số sản phẩm phân hủy chất diệt cỏ và đặc biệt là chứa 2,3,7,8-TCDD được<br />
chiết từ đất ô nhiễm nặng chất diệt cỏ/dioxin từ sân bay Đà Nẵng. Tổng độ độc của DCĐ<br />
khoảng 3.500 pg TEQ/ml.<br />
Phân tích các thành phần 2,4-D, 2,4,5-T, 2,4-DCP, 2,4,5-TCP bằng máy HPLC: Sau 9<br />
tháng nuôi cấy, quần xã VK KK hô hấp loại khử clo được lọc bỏ sinh khối, thu phần dịch<br />
lọc bảo quản ở 4oC. Trước khi phân tích, mẫu được làm ấm ở 37oC trong 5 phút. Quy trình<br />
và phương pháp phân tích thành phần và hàm lượng các chất hữu cơ chứa clo được thực<br />
hiện theo TCVN 6134:1996 trên máy HPLC.<br />
<br />
<br />
<br />
148 N.T.T.Thư, P.K.H. Chú, Đ.T.C. Hà, “Khả năng phân hủy…tại Biên Hòa và Đà Nẵng.”<br />
Nghiªn cøu khoa häc c«ng nghÖ<br />
<br />
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
3.1. Làm giàu vi khuẩn kỵ khí<br />
Các mẫu được làm giàu trên môi trường khoáng kỵ khí M204 với chất nhận điện tử<br />
trong quá trình hô hấp loại clo là DCĐ. Quá trình làm giàu nhóm VK KK hô hấp loại clo<br />
trong đó có VK Dehalococcoides được đánh giá định tính bằng sự thay đổi màu sắc của<br />
các bình nuôi với chất chỉ thị màu là resaruzine [9]. Khi có mặt oxy, mẫu sẽ chuyển sang<br />
màu hồng và khi không có oxy (có sự sinh trưởng của nhóm VK KK), mẫu sẽ có màu từ<br />
đen nhạt đến đen đậm. Vi khuẩn hô hấp loại khử clo ở Đà Nẵng và Biên Hòa đã làm giàu<br />
được trình bày ở hình 1.<br />
Từ hình 1 cho thấy các bình nuôi cấy làm giàu đều có màu đen, bình đối chứng có màu<br />
hồng. Như vậy, các bình nuôi cấy làm giàu đều đảm bảo độ kỵ khí và đã có sự sinh trưởng của<br />
nhóm VK KK. Tuy nhiên, VK KK có khả năng sinh trưởng trên các hợp chất hữu cơ chứa clo<br />
khá phong phú, trong mẫu làm giàu thường có nhiều VK KK khác nhau có hoặc không có khả<br />
năng loại khử clo. Các VK không có khả năng loại khử clo thường lên men các nguồn carbon<br />
hữu cơ tạo ra chất dinh dưỡng như pyruvate, formate và hydro (có vai trò là chất cho điện tử),<br />
vitamine B12 cung cấp cho VK KK hô hấp loại khử clo sinh trưởng. Mặt khác, các VK khác<br />
nhau trong tập đoàn thường duy trì điều kiện kỵ khí cho VK KK bắt buộc sinh trưởng và thực<br />
hiện chức năng loại khử clo hay phân hủy và chuyển hóa các hợp chất ô nhiễm [11].<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1. Làm giàu vi khuẩn kỵ khí bắt buộc trên dịch chiết đất.<br />
3.2. Khả năng phân hủy 2,4-D, 2,4,5-T trong mẫu làm giàu vi khuẩn kỵ khí<br />
Để xác định khả năng phân hủy và chuyển hóa các chất diệt cỏ/dioxin, VK KK hô hấp loại<br />
khử clo từ lô xử lý ở sân bay Biên Hòa và Đà Nẵng được nuôi cấy trên môi trường M204 chứa<br />
2% DCĐ (v/v) trong thời gian 9 tháng ở điều kiện thích hợp nhất cho VK KK sinh trưởng.<br />
Khả năng phân hủy 2,4-D, 2,4,5-T được xác định trên máy HPLC. Kết quả về khả năng phân<br />
hủy, chuyển hóa 2,4-D, 2,4,5-T và các chất trao đổi được trình bày trên Bảng 1 và Hình 2.<br />
Bảng 1. Khả năng phân hủy một số thành phần của chất diệt cỏ/dioxin bởi VK KK..<br />
<br />
STT Thành Đ/C P1-DHC-DCĐ M3 DHC-DCĐ<br />
phần (ppm) (ppm) (ppm)<br />
1 2,4-D 240 0 0<br />
2 2,4,5-T 350 + 0<br />
3 2,4-DCP 0 + +<br />
4 2,4,5-TCP 4,8 +++ +<br />
Chú thích: +: có nhưng nồng độ rất thấp, +++: có với nồng độ cao<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
T¹p chÝ Nghiªn cøu KH&CN qu©n sù, Sè 32, 08 - 2014 149<br />
Hãa häc & Kü thuËt m«i trêng<br />
<br />
Kết quả trình bày trên bảng 1 và hình 2 cho thấy nồng độ 2,4-D, 2,4,5-T ban đầu rất cao,<br />
tương ứng là 240 ppm và 350 ppm. Nồng độ các chất trao đổi của chúng như 2,4-DCP và<br />
2,4,5-TCP rất thấp, gần như không có. Sau 9 tháng nuôi cấy với sự có mặt của tập đoàn VK<br />
KK M3 tại Biên Hòa đã phân hủy và chuyển hóa gần 100% 2,4-D, 2,4,5-T và chỉ còn một<br />
lượng rất ít 2,4,5-TCP, đặc biệt 2,4-DCP có xuất hiện trong mẫu phân hủy dù hàm lượng rất ít<br />
so với ban đầu, chứng tỏ có đã sự chuyển hóa các chất diệt cỏ/dioxin. Kết quả thu được chứng<br />
tỏ các VK KK hô hấp loại khử clo ở mẫu M3 đã phân hủy và chuyển hóa gần như hoàn toàn<br />
2,4-D và 2,4,5-T. Mẫu P1 tại Đà Nẵng vẫn còn một lượng nhỏ 2,4,5-T (chiều cao peak khoảng<br />
28 mAU) so với mẫu đối chứng (chiều cao peak khoảng 640 mAU). Hợp chất 2,4-D gần như<br />
không còn sau 9 tháng làm giàu ở điều kiện phòng thí nghiệm. Một lượng rất thấp 2,4-DCP và<br />
lượng khá cao 2,4,5-TCP (chiều cao peak khoảng 68mAU) xuất hiện trong mẫu P1 chứng tỏ<br />
đã có quá trình chuyển hóa 2,4-D thành 2,4-DCP và 2,4,5-T thành 2,4,5-TCP. Kết quả thu<br />
được cho thấy các VK KK trong mẫu P1 tại sân bay Đà Nẵng chưa phân hủy và chuyển hóa<br />
hết các hợp chất diệt cỏ/dioxin trong khi ở mẫu M3 của Biên Hòa đã phân hủy và chuyển hóa<br />
gần như hoàn toàn các hợp chất này. Qua đây cũng thấy được sự khác biệt về tập đoàn VK KK<br />
hô hấp loại khử clo ở hai địa điểm khác nhau với hệ sinh thái khác nhau.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
A B<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
C<br />
Hình 2. Phổ sắc ký các thành phần của mẫu đối chứng (A) và mẫu nuôi cấy:<br />
(B: mẫu P1-Đà Nẵng, C: mẫu M3-Biên Hòa)<br />
Kết quả thu được cho thấy các VK KK trong 2 mẫu nghiên cứu là khác nhau và có thể số<br />
lượng, số loại VK KK trong mẫu M3 cao hơn so với mẫu P1. Điều này có thể được giải thích<br />
là do mẫu P1 là mẫu đối chứng ở lô xử lý 2 m3 ở sân bay Đà Nẵng nên số lượng, số loại VK<br />
KK ở mẫu P1 thấp hơn so với mẫu M3 là mẫu ở lô xử lý của Biên Hòa. Mặt khác, mẫu P1<br />
cũng đã được xác định là có mặt các VK KK hô hấp loại khử clo như Dehalococcoides,<br />
<br />
<br />
150 N.T.T.Thư, P.K.H. Chú, Đ.T.C. Hà, “Khả năng phân hủy…tại Biên Hòa và Đà Nẵng.”<br />
Nghiªn cøu khoa häc c«ng nghÖ<br />
<br />
Desulfitobacterium và một số VK khử sulfate khác (số liệu không trình bày ở đây). Qua kết<br />
quả nghiên cứu phân hủy cho chúng ta thấy trong đất ô nhiễm chất diệt cỏ/dioxin đã có các VK<br />
KK bản địa có khả năng hô hấp loại khử clo. Mẫu M3 là mẫu ở lô xử lý được bổ sung “thức<br />
ăn” phù hợp cho sự sinh trưởng của các VK KK bản địa nên có thể số lượng và số loại VK KK<br />
có khả năng hô hấp loại khử clo nhiều hơn, quá trình phân hủy xảy ra nhanh hơn. Kết quả nhận<br />
được từ nghiên cứu này là một trong nhiều minh chứng để khẳng định hiệu quả xử lý đất<br />
nhiễm chất diệt cỏ/dioxin ở quy mô 3.384 m3 tại sân bay Biên Hòa.<br />
<br />
4. KẾT LUẬN<br />
<br />
Sau 9 tháng nuôi cấy trên môi trường khoáng M204 chứa 2% DCĐ (v/v), tập đoàn VK<br />
KK từ mẫu P1 tại Đà Nẵng đã phân hủy và chuyển hóa 2,4-D, 2,4,5-T tạo ra sản phẩm<br />
chính là 2,4,5-TCP. Tập đoàn VK KK ở mẫu M3 tại lô xử lý của sân bay Biên Hòa phân<br />
hủy và chuyển hóa hoàn toàn các hợp chất là thành phần của chất diệt cỏ/dioxin và các<br />
hợp chất trao đổi của chúng. Trong mẫu M3, các sản phẩm trung gian gần như không còn<br />
sau 9 tháng nuôi cấy. Kết quả này một lần nữa là chứng minh cho hiệu quả xử lý đất ô<br />
nhiễm ở quy mô hiện trường tại sân bay Biên Hòa.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1]. Đào Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thị Tâm Thư, Lê Việt Hưng, Đinh Thị Thu Hằng, Đặng<br />
Thị Cẩm Hà. “Sự đa dạng vi khuẩn thuộc nhóm Dehalococcoides tại các khu xử lý<br />
chất diệt cỏ/dioxin ở sân bay Biên Hòa và Đà Nẵng bằng PCR-DGGE”. Tạp chí<br />
Công nghệ sinh học. (2013) Có xác nhận đăng.<br />
[2]. Báo cáo tổng thể về tình hình ô nhiễm dioxin tại 3 điểm nóng sân bay Biên Hòa, Đà<br />
Nẵng và Phù Cát. Dự án: Xử lý ô nhiễm dioxin tại các vùng nóng ở Việt Nam. Văn<br />
phòng ban chỉ đạo 33 (2011).<br />
[3]. Đặng Thị Cẩm Hà, Harry Allen. Xử lý đất nhiễm chất diệt cỏ/dioxin ở quy mô pilot<br />
tại Đà Nẵng bằng công nghệ phân hủy sinh học. Báo cáo kết quả dự án. (2010a).<br />
[4]. Đặng Thị Cẩm Hà, Phạm Hữu Lý, Nguyễn Bá Hữu, Nguyễn Thị Đệ, Nghiêm Ngọc<br />
Minh, Nguyễn Đương Nhã, Mai Anh Tuấn, La Thanh Phương, Nguyễn Thị Sánh,<br />
Nguyễn Thu Thủy, Đỗ Bích Thanh, Đỗ Ngọc Tuyên, Nguyễn Văn Minh,<br />
Nguyễn Văn Hồng. Nghiên cứu phát triển công nghệ phân hủy sinh học và kỹ<br />
thuật nhả chậm làm sạch chất độc hóa học trong đất, Báo cáo nghiệm thu đề tài<br />
nhà nước thuộc chương trình 33, Hà Nội (2005).<br />
[5]. Đặng Thị Cẩm Hà, Nguyễn Bá Hữu, Harry Allen, Vance Fong, Đàm Thúy Hằng,<br />
Nguyễn Nguyên Quang, Nguyễn Quang Huy. Kết quả nghiên cứu xử lý dioxin bằng<br />
phân hủy sinh học tại Đà Nẵng. Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện Khoa học và<br />
Công nghệ Việt Nam, (2010b) 377-381.<br />
[6]. Đặng Thị Cẩm Hà. Xử lý khu nhiễm chất độc hóa học chứa dioxin tại sân bay Biên<br />
Hòa, tình Đồng Nai, Gói thầu: Mua vật tư sinh học tiến hành bổ sung năm thứ hai và<br />
kiểm soát độ phân hủy dioxin. Báo cáo nghiệm thu (2012).<br />
[7]. Nguyễn Bá Hữu. Nghiên cứu đa dạng vi sinh vật và một số gene liên quan đến khả<br />
năng phân hủy 2,4,5-T và dioxin trong đất nhiễm chất độc hóa học. Luận án Tiến sĩ<br />
sinh học. Viện Công nghệ sinh học (2009).<br />
[8]. Nguyễn Thị Tâm Thư, Đinh Thị Thu Hằng, Đặng Thị Cẩm Hà. Khả năng chuyển hóa<br />
2,4-DCP, 2,4,5-T của Dehalococcoides và tập đoàn vi khuẩn kỵ khí bắt buộc từ các lô<br />
xử lý đất nhiễm chất diệt cỏ/dioxin tại sân bay Đà Nẵng. Tạp chí Công nghệ sinh học<br />
(2013). Có xác nhận đăng.<br />
[9]. Ewald EM, Nuenhuie I, Wagner A, Richnow HH, Lechner U. Microbial<br />
<br />
<br />
<br />
T¹p chÝ Nghiªn cøu KH&CN qu©n sù, Sè 32, 08 - 2014 151<br />
Hãa häc & Kü thuËt m«i trêng<br />
<br />
dehalogenation of trichlorinated dibenzo-p-dioxins by a Dehalococcoides containing<br />
mixed culture is coupled to carbon isotope fractionation. Environ Scien Technol 41,<br />
(2007) 7744-7751.<br />
[10]. Hiraishi A., Biodiversity of dehalorespiring bacteria with special emphasis on<br />
polychlorinated biphenyl/dioxin dechlorinators. Micro Env.23 (1), (2008) 1 – 12.<br />
[11]. Hug LA, Beiko RG, Rowe AR, Richardson RE, Edwards EA. Conparative<br />
metagenomics of three Dehalococcoides– containing enrichment cultures: the role of<br />
the non-dechlorinating community. BMC Genomics 13, (2012) 327-345.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
<br />
BIODEGRADABLE HERBICIDES/DIOXIN BY ANAEROBIC DEHALORESPIRING<br />
BACTERIA COMMUNITY ENRICHED FROM BIODEGRADATION LANFILL<br />
BATCHS IN BIEN HOA AND DA NANG AIRBASES<br />
In this article, the groups of anerobic dehalorespiring bacteria from<br />
bioremediation lanfill batchs in Bien Hoa and Da Nang were enriched on the M204<br />
mineral media containing soil extract. Biodegradable ability of components in soil<br />
extract by the groups of anaerobic dehalorespiring bacteria community was<br />
determined on HPLC after 9 months. Performance biodegradable components of<br />
herbicides/dioxin and their metabolites in Bien Hoa and Da Nang samples are<br />
different that demonstrate the presence of anaerobic bacteria is dissimilar in these<br />
samples. This result confirms again the role of anaerobic dehaorespiring bacteria in<br />
biodegradated herbicides/dioxin soil in Vietnam.<br />
Keywords: Bienhoa, Danang, Herbicides, Biodegradation, Dechlorination, Anerobic bacteria<br />
<br />
Nhận bài ngày 20 tháng 02 năm 2014<br />
Hoàn thiện ngày 05 tháng 6 năm 2014<br />
Chấp nhận đăng ngày 02 tháng 8 năm 2014<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Địa chỉ: * Viện Công nghệ mới, Viện KH-CN quân sự;<br />
** Bộ Tư lệnh hóa học;<br />
*** Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
152 N.T.T.Thư, P.K.H. Chú, Đ.T.C. Hà, “Khả năng phân hủy…tại Biên Hòa và Đà Nẵng.”<br />