YOMEDIA
ADSENSE
Khả năng phân hủy DDT của chủng nấm sợi FNA1 phân lập từ đất ô nhiễm hỗn hợp thuốc trừ sâu tại Nghệ An
67
lượt xem 2
download
lượt xem 2
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nội dung bài viết là nghiên cứu khả năng phân hủy DDT của chủng FNA1 sau 7 ngày nuôi cấy trên môi trường czapek nghèo có chứa 200 ppm DDT bằng phương pháp sắc ký khối phổ, kết quả cho thấy chủng này đã phân hủy 92,69 % DDE, 97,19 % DDD, 97,23 % DDT so với mẫu đối chứng.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khả năng phân hủy DDT của chủng nấm sợi FNA1 phân lập từ đất ô nhiễm hỗn hợp thuốc trừ sâu tại Nghệ An
KHẢ NĂNG PHÂN HỦY DDT CỦA CHỦNG NẤM SỢI FNA1 PHÂN LẬP TỪ<br />
ĐẤT Ô NHIỄM HỖN HỢP THUỐC TRỪ SÂU TẠI NGHỆ AN<br />
Đào Thị Ngọc Ánh1, Đặng Thị Cẩm Hà1*<br />
1<br />
<br />
Viện Công nghệ Sinh học – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về khả năng của vi sinh vật có thể phân hủy<br />
thuốc diệt côn trùng DDT và các dẫn xuất là DDD và DDE .v.v, ở Việt Nam<br />
những công trình về vấn để này vẫn rất khiêm tốn. Kết quả nhận được trong bài<br />
báo này cho thấy, chủng FNA1 được phân lập từ đất ô nhiễm thuốc trừ sâu có khả<br />
năng phát triển mạnh trên môi trường chứa DDT (200 ppm). Khuẩn lạc FNA1 có<br />
dạng bông xốp, màu xanh lá mạ, viền ngoài màu trắ<br />
. Nghiên cứu khả năng phân hủy DDT<br />
của chủng FNA1 sau 7 ngày nuôi cấy trên môi trường czapek nghèo có chứa 200<br />
ppm DDT bằng phương pháp sắc ký khối phổ, kết quả cho thấy chủng này đã<br />
phân hủy 92,69 % DDE, 97,19 % DDD, 97,23 % DDT so với mẫu đối chứng.<br />
Từ khóa: DDT, phân hủy sinh học, FNA1.<br />
∗<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
DDT<br />
[1,1,1-trichloro-2,2-bis(pchlorophenyl)ethan] là hợp chất hữu cơ<br />
bền vững khó phân huỷ, rất độc hại đối<br />
với con người và môi trường. Chúng được<br />
sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới<br />
trong nhiều thập niên trước với mục đích<br />
trừ sâu và diệt muỗi truyền bệnh sốt rét.<br />
Hiện nay đã bị cấm sử dụng nhưng DDT<br />
vẫn còn tồn dư một lượng rất lớn trong tự<br />
nhiên gây ô nhiễm môi trường đất, nước<br />
và không khí, gây ra những hậu quả lâu<br />
dài đến sức khoẻ con người và môi<br />
trường . Do đó v iệc nghiên cứu để tìm ra<br />
giải pháp tẩy độc các vùng nhiễm độc là<br />
một nhiệm vụ hết sức cần thiết ở rất nhiều<br />
quốc gia trên thế giới như Mỹ, Trung<br />
Quốc, Mexico v.v. trong đ ó có cả ở Việt<br />
Nam.<br />
Ở nước ta, theo thống kê của Bộ Tài<br />
nguyên và Môi trường năm 2007 thì hi ện<br />
nay nước ta còn 108 tấn hoá chất bảo vệ<br />
∗<br />
Đặng Thị Cẩm Hà, Tel: 04. 38360892,<br />
E-mail: dangcha80@gmail.com<br />
<br />
thực vật nguy hại, chiếm 8 trong 12 hợp<br />
chất hữu cơ khó phân huỷ (POPs) và<br />
55.000m3 đất nhiễm hoặc lẫn các loại<br />
hoá chất này, trong đó có 1,1,1-trichloro2,2-bis (p-chlorophenyl) ethane (DDT)<br />
nằm rải rác ở 23 tỉnh, đặc biệt diện tích<br />
đất bị ô nhiễm nặng được tìm thấy tại các<br />
địa phương như Nghệ An (Kim Liên I và<br />
II, Nam Đàn). Tại Nghệ An DDT vẫn<br />
còn trong một nhà kho từ năm 1965 đến<br />
năm 1985. Nồng độ của DDT thay đổi từ<br />
3,38 đến 960,6 mg/kg trong các mẫu đất<br />
và từ 0,00012 đến 0,00168 mg/l trong<br />
các mẫu nước. Trong nhiều năm liên<br />
tiếp, mùi thuốc DDT nồng nặc bay xa<br />
đến 600 mét. Đã có 25 người chết vì ung<br />
thư, và 22 trường hợp dị thai được ghi<br />
nhận [7].<br />
Xử lý các chất ô nhiễm bằng phương pháp<br />
phân hủy sinh học hiện nay đang được<br />
xem là một hướng đi mới mẻ và nhiều<br />
triển vọng trong việc giải quyết các vấn<br />
đề ô nhiễm trong đó có ô nhiễm DDT.<br />
Phương pháp này dựa trên nguyên tắc<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đào Thị Ngọc Ánh và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
kích thích các tập đoàn vi sinh vật bản địa<br />
có khả năng phân hủy các chất ô nhiễm,<br />
nên công nghệ này rất an toàn, thân thiện<br />
với hệ sinh thái và môi trường. Phương<br />
pháp phân hủy sinh học là phương pháp ít<br />
phức tạp, không đòi hỏi các điều kiện môi<br />
trường quá khắt khe, chi phí thấp dó đó<br />
rất phù hợp với điều kiện nước ta. Cơ chế<br />
của quá trình phân hủy sinh học DDT và<br />
đồng phân của nó có thể là nhờ quá trình<br />
loại clo hoặc cắt vòng. Các vi sinh vật có<br />
khả năng chuyển hóa DDT và các đồng<br />
phân của nó (o,p,-DDT, p,p,-DDT) thành<br />
dạng bớt độc hơn, không độc hoặc khoáng<br />
hóa hoàn toàn thành CO2 và nước.<br />
Hiện nay, trên thế giới có nhiều tác giả đã<br />
phân lập được vi sinh vật có khả năng<br />
phân hủy DDT chủ yếu là vi khuẩn và<br />
nấm. Một số chủng nấm có khả năng phân<br />
hủy DDT được biết đến như Nocardia .sp,<br />
Phanerochaete<br />
chrysosporium,<br />
Trichoderma viridae v.v.[11].<br />
ết quả<br />
nghiên cứu phân lập và khả năng phân<br />
huỷ DDT của nấm sợi phân lập từ đất ô<br />
nhiễm thuốc trừ sâu ở Nghệ An. Loài nấm<br />
này có khả năng phân hủy DDT và các<br />
đồng phân của nó ở mức độ cao so với<br />
các chủng đã đư ợc nghiên cứu và công<br />
bố.<br />
2. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
2.1. Nguyên liệu<br />
Ba chủng nấm sợi được phân lập từ đất ô<br />
nhiễ<br />
ợp DDT, DDD, DDE,<br />
Hexachlorocyclorohexane<br />
(HCH),<br />
Heptachlor, Aldrin, Diendrin, Endrin ở<br />
nồng độ cao của Nam Đàn, Nghệ An. Các<br />
chủng nấm này đ ược đặt tên lần lượt là<br />
FNA1, FNA2, FNA3. Đây là 3 chủng nấm<br />
sợi trong bộ giống của phòng Công nghệ<br />
Sinh học Môi trường – Viện Công nghệ<br />
Sinh học, Viện KH&CN Việt Nam [9].<br />
Hóa chất sử dụng để nghiên cứu là các<br />
hóa chất tinh khiết, đảm bảo chất lượng<br />
được nhập ngoại từ các công ty hóa chất<br />
có u y tín n hư Sigma, Merk .v.v. Th iết bị<br />
sử dụng có độ chính xác, tin cậy cao của<br />
Viện Công nghệ Sinh học và Viện Công<br />
<br />
57(9): 46 – 51<br />
<br />
nghệ Môi trường – Viện Khoa học và<br />
Công nghệ Việt Nam.<br />
2.2. Phương pháp<br />
Nghiên cứu hình thái khuẩn lạc và hình<br />
thái bào tử nấm sợi<br />
Để nghiên cứu hình thái của nấm các<br />
chủng nấm sạch được cấy trên môi trường<br />
Czapek nghèo, thành phần môi trường<br />
gồm có (g/lít): 2,4g KNO3, 0,42g MgSO4,<br />
0,44g KH2PO4, 0,56g Na2HPO4, 1g NaCl,<br />
0,4g NaNO3, 0,1g KCl, 0,001g FeSO4, 6g<br />
Saccharose. Trong môi trường nuôi cấy<br />
có bổ sung 100ppm hỗn hợp DDT, DDD<br />
và DDE, nuôi cấy ở 30oC. Sau 5 ngày<br />
nấm phát triển tốt, chúng được quan sát<br />
và chụp ảnh khuẩn lạc trên đĩa thạch.<br />
Hình thái bào tử của các chủng nấm được<br />
quan sát và chụp ảnh dưới kính hiển vi<br />
quang học (Nikon eclipse 50i, Nhật Bản)<br />
với độ phóng đại 40 lần.<br />
Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ<br />
DDT đến khả năng sinh trưởng của<br />
chủng nghiên cứu<br />
Với mục đích tìm n ồng độ thích hợp nhất<br />
cho sinh trưởng của chủng nấm được<br />
chọn thì nghiên cứu khảo sát nồng độ<br />
DDT cũng được tiến hành trên môi trường<br />
Czapek nghèo có bổ sung hỗn hợp DDT,<br />
DDD, DDE lần lượt là 50ppm, 100ppm,<br />
200ppm, và 300ppm. Từ kết quả của<br />
nghiên cứu sẽ lựa chọn nồng độ thích hợp<br />
để tiến hành các khảo sát về khả năng<br />
phân hủy DDT của chủng nấm sợi trên.<br />
Nghiên cứu khả năng phân hủy DDT<br />
của chủng nấm sợi<br />
Khả năng phân hủy DDT của chủng<br />
FNA1 được xác định sau 7 ngày nuôi lắc<br />
180 vòng/phút ở 30oC trên môi trường<br />
Czapek nghèo có bổ sung nồng độ DDT<br />
thích hợp. Độ tồn lưu DDT, DDD, DDE<br />
sau 7 ngày nuôi cấy được tách chiết và<br />
phân tích bằng phương pháp sắc ký lỏng<br />
cao áp (HPLC), sử dụng máy GC/ECD<br />
2010 của hãng Shimadzu Nhật Bản.<br />
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đào Thị Ngọc Ánh và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
3.1. Các đặc điểm hình thái khuẩn lạc<br />
và cuống sinh bào tử của FNA1, FNA2,<br />
FNA3<br />
Sau 5 ngày nuôi cấy trên môi trường<br />
Czapek nghèo có bổ sung DDT hình thái<br />
khuẩn lạc của 3 chủng nấm được quan<br />
sát và miêu tả ở hình 1. Chủng FNA1 có<br />
khuẩn lạc mọc lan rộng, đường kính 2<br />
cm, khuẩn ty khí sinh màu xanh lá mạ<br />
viền ngoài màu xanh trắng, bông xốp.<br />
Khuẩn lạc chủ<br />
, đường kính<br />
1,2 cm, bề mặt khuẩn ty khí sinh chắc, có<br />
múi, màu xanh rêu đậm, viền ngoài<br />
trắng, tâm có giọt tiết màu đen. Chủng<br />
FNA3 có khuẩn lạc tròn, rộng 1,5 cm,<br />
viền ngoài khẩn ty khí sinh có màu trắng<br />
hơi khứa, trong màu nâu, sinh giọt tiết<br />
màu nâu đậm. Khuẩn ty cơ chất của cả 3<br />
chủng trên đều màu trắng. Cuống sinh<br />
bào tử<br />
<br />
57(9): 46 – 51<br />
<br />
chủng FNA1 phát triển tốt nhất (Hình 2,<br />
Hình 3).<br />
Tên<br />
chủn<br />
g<br />
<br />
Hình thái<br />
khuẩn lạc<br />
<br />
Hình thái<br />
cuống sinh<br />
bào tử<br />
<br />
FNA<br />
1<br />
<br />
FNA<br />
2<br />
<br />
FNA<br />
3<br />
<br />
Hình 1. Hình thái khuẩn lạc và cuống<br />
sinh bào tử chủng FNA1, FNA2, FNA3<br />
(Hình 1).<br />
Với các đặc điểm về hình thái khuẩn lạc<br />
và bào tử n h ư trên có thể xếp 3 chủng<br />
nấm sợi này vào chi Aspergillus. Do<br />
chủng FNA1 phát triển nhanh nhất, tạo<br />
sinh khối lớn nên đã được chọn để tiến<br />
hành các nghiên cứu tiếp theo.<br />
3.2. Ảnh hưởng của nồng độ DDT đến<br />
khả năng sinh trưởng của chủng FNA1<br />
Để lựa chọn môi trường nuôi cấy với<br />
nồng độ DDT thích hợp môi trường<br />
Czapek nghèo vẫn tiếp tục được sử dụng<br />
và các nồng độ DDT khác nhau được bổ<br />
sung vào bình nuôi cấy. Sinh khối nấm<br />
được sấy khô đến khối lượng không đổi<br />
và cân bằng cân phân tích sau 7 ngày nuôi<br />
cấy. Kết quả cho thấy ở nồng độ 200 ppm<br />
<br />
Hình 2. Khả năng phát triển của chủng<br />
FNA1 trên môi trường czapek nghèo chứa<br />
DDT<br />
3.3. Khả năng phân hủy DDT của<br />
chủng nấm sợi FNA1<br />
Sau khi xác định được ở nồng độ DDT là<br />
200 ppm chủng FNA1 phát triển tốt nhất,<br />
nghiên cứu đánh giá khả năng phân hủy<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đào Thị Ngọc Ánh và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
DDT đã được tiến hành bằng phương<br />
pháp sắc ký lỏng cao áp để phân tích độ<br />
tồn lưu của DDT và các đồng phân của<br />
nó. Sau 7 ngày nuôi cấy mẫu không có vi<br />
sinh vật và có FNA1 đã đư ợc so sánh, kết<br />
quả phân tích được thể hiện trên sắc ký đồ<br />
ở hình 4 (A, B). Khả năng phân hủy DDE,<br />
DDD và DDT của chủng FNA1 đạt rất<br />
cao, các chất trên được loại bỏ lần lượt là<br />
92,69 %, 97,19 % và 97,23 % (Bảng 1).<br />
<br />
57(9): 46 – 51<br />
<br />
nhiễ<br />
m<br />
<br />
Khôn<br />
g có<br />
VSV<br />
(ppm)<br />
<br />
FNA<br />
1<br />
(ppm<br />
)<br />
<br />
(ppm<br />
)<br />
<br />
(%)<br />
<br />
DDE<br />
<br />
4,271<br />
<br />
0,312<br />
<br />
3,959<br />
<br />
92,6<br />
9<br />
<br />
DDD<br />
<br />
10,23<br />
8<br />
<br />
0,287<br />
<br />
9,951<br />
<br />
97,1<br />
9<br />
<br />
DDT<br />
<br />
162,8<br />
<br />
4,5<br />
<br />
158,3<br />
<br />
97.2<br />
3<br />
<br />
Tỷ lệ phần trăm<br />
<br />
Nồng độ DDT<br />
<br />
Hình 3. Tỷ lệ phân trăm khối lượng khô sinh<br />
khối nấm<br />
<br />
Hình 4. Phổ sắc ký đồ của mẫu nuôi cấy<br />
không có vi sinh vật (A) và có vi sinh vật<br />
(B).<br />
Bảng 1. Khả năng phân hủy DDT, DDE,<br />
DDD bởi chủng FNA1<br />
Chất<br />
ô<br />
<br />
Lượng thu<br />
hồi<br />
<br />
Lượng bị<br />
loại bỏ<br />
<br />
Đã có nhiều công bố về khả năng phân<br />
hủy sinh học DDT của vi sinh vật. Các<br />
nhóm vi sinh vật tiềm năng cho quá trình<br />
phân hủy DDT phục vụ cho xây dựng qui<br />
trình công nghệ khử độc đất nhiễm hỗn<br />
hợp DDT, HCH và các chất ô nhiễm hữu<br />
cơ chứa clo khác được quan tâm là nấm,<br />
xạ khuẩn và vi khuẩn. Theo các nghiên<br />
cứu thì có tới hơn 300 chủng vi sinh vật<br />
có khả năng phân hủy DDT và các dẫn<br />
suất, một số vi sinh vật chuyển hoá DDT<br />
đã được công bố bao gồm Escheria coli,<br />
Enterobacter aerogenes, Enterobacter<br />
cloacae,<br />
Klebsiella<br />
pneumoniae,<br />
Pseudomonas aeruginosa, Pseudomonas<br />
putida, Bacillus sp. v.v. và một số nấm như<br />
Saccharomyces cerevisiae, Phanerochaete<br />
chrysosporium, Trichoderma [5]. Quá trình<br />
chuyển hoá DDT của các vi sinh vật đã<br />
được nghiên cứu phần lớn đều theo cơ chế<br />
đồng trao đổi chất. Cũng có thể chủng<br />
FNA1 được phân lập từ đất ô nhiễm DDT<br />
và các thuốc trừ sâu khác cũng phân h ủy<br />
DDT theo cơ chế đồng trao đổi chất. Các<br />
nghiên cứu trước đã s ử dụng môi trường<br />
muối khoáng chứa DDT nhưng chủng<br />
FNA1 không phát triển, chủng này chỉ<br />
phát triển trên môi trường có bổ sung<br />
saccharose. Tuy nhiên cần rất nhiều<br />
nghiên cứu tiếp theo để làm sáng tỏ cơ<br />
chế chuyển hóa DDE, DDD, DDT của<br />
chủng nấm sợi này.<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Đào Thị Ngọc Ánh và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Khả năng phân hủy hỗn hợp DDT của<br />
nấm FNA1 cao hơn hằn so với khả năng<br />
phân hủy của vi khuẩn được phân lập từ<br />
cùng mẫu nghiên cứu là BNA71 và<br />
BNA73 [9]. Hai chủng này phân hủy lần<br />
lượt là 12,53 % và 19,66 % DDT tổng sau<br />
14 ngày nuôi cấy, trong khi chủng FNA1<br />
phân hủy được 94,41 % sau 7 ngày. Điều<br />
này hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu<br />
trong và ngoài nước cho thấy khả năng<br />
phân hủy DDT của nấm tốt hơn hẳn vi<br />
khuẩn và xạ khuẩn. Aislabie và cộng sự<br />
đã sử dụng chủng Terrabacter sp. DDE-1<br />
để nghiên cứu khả năng phân huỷ sinh<br />
học của vi khuẩn. Nồng độ DDE đã giảm<br />
n 0,062 mg/ml (48<br />
từ 0,1 mg/ml xuố<br />
%) sau 10 ngày nuôi cấy Terrabacter sp.<br />
đị<br />
Aerobacter aerogenes<br />
Bacillus subtilis<br />
5µg/ml [4].<br />
Bumpus và Aust đã sử dụng nấm đả<br />
P. chrysosporium nghiên cứu xử lý DDT<br />
trong môi trường thiếu nitơ, sau 30 ngày<br />
nuôi cấy, khoảng 50 % DDT đã được<br />
chuyển hoá trong đ ó có 1 0 % đã được<br />
khoáng hoá hoàn toàn và thấy xuất hiện<br />
các sản phẩm của quá trình trao đổi chất<br />
như dicofol, FW-152 và DBP [2].<br />
Fernando (1989) kiểm tra khả năng phân<br />
huỷ 14C-DDT trong hỗn hợp đất và lõi<br />
ngô bởi nấm P. chrysosporiumi cho thấy<br />
sau 60 ngày 10% 14C chuyển sang dạng<br />
14<br />
C-CO2, 5% sang dạng hoà tan trong<br />
nước và 18% ở dạng không thể tách chiết.<br />
Con đường chuyển hóa DDT của vi khuẩn<br />
E. Aerogenes được công bố bởi<br />
Wedemeyer năm 1976ũng<br />
c t ạo ra sản<br />
phẩm trung gian là DDD và DDE [8]. Từ<br />
kết quả phân tích DDD và DDE cho thấy<br />
hàm lượng DDD và DDE của mẫu có bổ<br />
sung chủng FNA1 thấp hơn nhiều của<br />
mẫu đối chứng. Số liệu này chứng tỏ<br />
chủng FNA1 có khả năng phân hủy cả<br />
DDT, DDD và DDE. So sánh khả năng<br />
<br />
57(9): 46 – 51<br />
<br />
chuyển hóa DDT và các dẫn xuất với con<br />
đường chuyển hóa bởi hai chủng P.<br />
Chrysosporium, E. Aerogenes, chúng tôi<br />
nhận thấy kiểu phân hủy sinh học DDT<br />
của chủng FNA1 khá giống với các chủng<br />
nêu trên.<br />
Như vậy chủng FNA1 có khả năng phát<br />
triển tốt và phân hủy DDT ở nồng độ rất<br />
cao trong thời gian ngắn. Còn rất nhiều<br />
chủng vi khuẩn và nấm khác đã được phát<br />
hiện có khả năng phân hủy DDT rất tốt<br />
với nồng độ rất thấp từ 0,1 – 2 ppm như<br />
loài Rhodotorula gracilis, Torulopsis<br />
utilis phân hủy lần lượt 97 %, 94 % DDT<br />
với nồng độ ban đầu là 2ppm, còn loài<br />
Blepharisma intermedium phân hủy 90 %<br />
DDT với nồng độ ban đầu là 1ppm.<br />
Bidlan và Manonmaniã đch ứng minh<br />
chủng Serratia marcescens DT-1P làm<br />
giảm 50% DDT sau 48 giờ với nồng độ<br />
ban đầu là 5ppm. Kanoknit phân lập được<br />
167 chủng từ tỉnh Songkhla, Thái Lan có<br />
khả năng phát triển trên môi trường có<br />
chứa 25ppm DDT. Chỉ có năm chủng sinh<br />
trưởng và phát triển và tạo vòng phân hủy<br />
ở nồng độ 100ppm DDT, sau 10 ngày<br />
nuôi cấy năm chủng này có khả năng<br />
phân loại bỏ từ 20,3 % đến 37,4 % DDT<br />
với nồng độ ban đầu là 25 ppm. Chúng<br />
mình trên cho thấy khả năng phân hủy<br />
DDT của chủng FNA1 cao hơn hẳn nhiều<br />
chủng đã được công bố [12].<br />
Theo các khảo sát bước đầu mà chúng tôi<br />
đã tiến hành cho thấy chủng FNA1 sinh<br />
enzyme ngoại bào trên môi trường chọn<br />
lọc đặc hiệu với chất cảm ứng là 100 ppm<br />
DDT. Đây có thể là một trong các lý do<br />
tại sao loài nấm sợi này phân hủy chuyển<br />
hóa DDE, DDD, DDT rất tốt so với các<br />
chủng vi sinh vật khác. Để tìm hiểu và<br />
ứng dụng chủng FNA1 như là một ứng cử<br />
viên cho phương pháp tăng cường sinh<br />
học xử lý đất nhiễm nặng hỗn hợp thuốc<br />
trừ sâu và côn trùng cần rất nhiều nghiên<br />
cứu khác. Theo các kết quả thu được từ<br />
rất nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới<br />
thì enzyme ngoại bào do nấm sợi sinh<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn