Xã hội học, số 3 - 1990<br />
<br />
Khác biệt nam nữ trong gia đình nông thôn<br />
đồng bằng Bắc Bộ<br />
VŨ MẠNH LỢI *<br />
<br />
<br />
Vấn đề khác biệt nam nữ trong gia đình nông thôn từ lâu đã là mối quan tâm trong nhiều cuộc nghiên cứu<br />
của Viện Xã hội học. Các kết quả nghiên cứu cũng đã được trình bày rải rác trong các bài báo, tham luận hội<br />
nghị và các báo cáo nghiệm thu các đề tài. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng cho đến nay còn chưa có một cuộc<br />
nghiên cứu xã hội học chuyên biệt nào về vấn đề này một cách có hệ thống. Trong những nghiên cứu nói trên,<br />
sự khác biệt nam nữ trong gia đình phần nhiều chỉ được xem như một phần trong bức tranh chung của khung<br />
cảnh xã hội giúp cho sự phân tích các hiện tượng xã hội và các quá trình xã hội khác đang diễn ra ở nông thôn.<br />
Trong nhiều trường hợp, khác biệt nam nữ chỉ được xem như biểu hiện của biến số giới tính, cũng như biến<br />
số nông thôn - đô thị, sự phân hóa theo tuổi. . . trong mối quan hệ với các biến phụ thuộc khác (như thu nhập, số<br />
con mong muốn. . . ). Nói cho đúng hơn, khác biệt nam nữ được xét đến trong đơn vị làng xã nhiều hơn là trong<br />
đơn vị gia đình. Cho đến nay chưa có cuộc nghiên cứu nào phỏng vấn (hay quan sát hoặc thu lượm thông tin) cả<br />
hai vợ chồng trong cùng những gia đình trong mẫu về phân công lao động gia đình, việc nhà, trách nhiệm chăm<br />
sóc con cái chi tiêu, tâm tư nguyện vọng của người vợ và người chồng. . . Và cũng chưa có cuộc nghiên cứu về<br />
những biến đổi trong chu trình sống của gia đình nào nhằm làm sáng tỏ sự biến đổi các vai trò trong gia đình<br />
theo thời gian phát triển. Theo Bernard (1972) 1 có hai cuộc hôn nhân trong mỗi cuộc hôn nhân - những thử<br />
nghiệm và ý nghĩa của hôn nhân đối với vợ chồng là rất khác nhau. Do đó, với kết quả thu được từ sự phỏng vấn<br />
hoặc người vợ, hoặc người chồng trong một gia đình ta chưa đủ cơ sở để kết luận chắc chắn về mức độ khác<br />
nhau trong đời sống gia đình nông thôn hiện nay, mặc dù điều đó cũng đem lại cho chúng ta một hình dung nhất<br />
định nào đó .<br />
Sự thật, vấn đề khác biệt nam nữ trong gia đình, đặc biệt là vấn đề bất bình đẳng nam nữ trong gia đình là<br />
vấn đề có tính chất thế giới, cả đối với các xã hội đã phát triển lấn ở các nước đang phát triển. Nhưng hình thức,<br />
biểu hiện và mức độ của nó rất khác nhau từ nước này sang nước khác, từ vùng văn hóa này sang vùng văn hóa<br />
khác. Vậy ở Việt Nam nó có nội dung kinh tế, văn hóa, xã hội gì và nó khác với các nước láng giềng ở điểm<br />
nào? Đó là những vấn đề rất quan trọng cần được giải đáp.<br />
Lẽ dĩ nhiên, bài này không phải là một cố gắng nhằm giải đáp các vấn đề kể trên. Dựa vào các kết quả, dù<br />
còn tản mạn, của các cuộc nghiên cứu đã qua và những quan sát thực tế của tác giả tại nhiều địa phương, ở đây<br />
chỉ có tham vọng nêu lên một số vấn đề để cùng nhau suy nghĩ cho một cuộc nghiên cứu chuyên biệt sâu hơn về<br />
vấn đề này. Và tác giả cũng chỉ hạn chế việc xem xét sự khác biệt nam nữ quan sát thấy trong gia đình nông<br />
thôn đồng bằng Bắc Bộ trong khoảng từ 1983 trở lại đây, mặc dù đôi chỗ cũng có những hàm ý về một quá khứ<br />
xa xôi hơn .<br />
Nguồn số hếu sử dụng trong bài này lấy từ những ghi chép cá nhân trong nhiều cuộc điều tra xã hội học, từ<br />
những số liệu điều tra đã được sử lý trong các cuộc điều tra nông thôn của Viện xã hội học tại nhiều xã ở đồng<br />
bằng Bắc Bộ từ 1983 tới nay. Cần phải nói ngay rằng môi trường xã hội ở các xã được nghiên cứu rất khác<br />
nhau, chúng lại được nghiên cứu tại các thời điểm khác nhau với các bảng hỏi được cấu trúc khác nhau và với<br />
các câu hỏi về cùng một vấn đề cũng khác nhau cho nên chỉ những số thu được nhiều khi rất trái ngược nhau về<br />
cùng những vấn đề giống nhau, chẳng những giữa xã này với xã khác mà thậm chí ngay trong cùng một xã. Với<br />
ý định nêu lên khuynh hướng chung nhất của sự khác biệt nam-nữ trong gia đình nông thôn Bắc Bộ, chúng tôi<br />
chỉ chọn đưa vào bài này những số liệu mà theo ý chúng tôi chúng đại diện cho tình hình chung hiện nay của<br />
<br />
*<br />
Cán bộ nghiên cứu phòng Xã hội học Dân số, Viện Xã hội học<br />
1<br />
Bernard, Jcssic. 1 972. The Futurc of Marriage, New York: World. Dẫn lại theo Linda Thompsons và Alexis j. Walkcr<br />
trong jollmal of Manrrage and the Family, Vol. 51, No 4, 11 -1989, N. C. F. R. University of Nehraska - Lincoln.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
2 Xã hội học, số 3 - 1990<br />
nông thôn miền Bắc. Chắc chắn không tránh khỏi mâu thuẫn nếu chúng ta xét trong một khung cảnh hẹp hơn về<br />
thời gian và không gian.<br />
Mấy chục năm qua ở miền Bắc chúng ta đã cố gắng xây đựng "gia đình xã hội chủ nghĩa, vợ chồng bình<br />
đẳng, thương yêu giúp đỡ nhau tiển bộ, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ<br />
quốc, cùng nhau nuôi dạy con thành những công dân có ích cho xã hội" 2 , chúng ta đã cố gắng "giữ gìn và phát<br />
huy nhưng phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc xoá bỏ những tục lệ lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn<br />
nhân và gia đình phong kiến, chống ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia đình tư sản" 3 . Quả thực, về mặt pháp<br />
lý tệ tảo hôn và lấy lẽ đã bị đẩy lùi mạnh mẽ, thanh niên nam nữ đã có quyền tự do lựa chọn bạn đời. Nhiều vụ<br />
vi phạm pháp luật đã bị phát hiện kịp thời và xử lý nghiên khắc. Tuy nhiên, trong hàng triệu gia đình không có<br />
những xung đột tới mức luật pháp phải can thiệp, cuộc sống vẫn trôi đi theo những nguyên tắc ứng xử không<br />
thành văn, được mọi người ngầm chấp nhận. Việc nhà nào, nhà ấy lo, đóng cửa bảo nhau", không ai muốn (và<br />
cũng không có khả nặng) can thiệp vào. Trong cuộc sống gia đình tương đối riêng tư đó, sự bất bình đẳng nam -<br />
nữ - sản phẩm lịch sử của các chế độ cũ - vẫn âm 1 và dai dẳng tồn tại, vẫn được bầu không khí xã hội bao<br />
quanh che chở và ngầm ủng hộ. Có lẽ chính vì thế mà Điều 10, Luật Hôn nhân và Gia đình nước ta co thêm điều<br />
khoản nhấn mạnh "chổng có nghĩa vụ tạo điều kiện cho vợ thực hiện tốt chức năng của người mẹ" (không có<br />
điều nhấn mạnh vợ có nghĩa vụ tạo điều kiện cho chồng thực hiện tốt chức năng của người bố) .<br />
Nhiều người, cả ở các nước khác lẫn ở nước ta, tin rằng địa vị thứ yếu của phụ nữ so với nam giới trong gia<br />
đình chủ yếu là do vai trò thứ yếu của họ trong việc đóng góp các phúc lợi vật chất cho gia đình. Từ đó, để giải<br />
quyết vấn đề bất bình đẳng nam-nữ, việc nâng cao thu nhập của người phụ nữ sẽ có ý nghĩa then chốt. Thừa<br />
nhận cách lý giải này thì ta không thể hiểu được thực tế quan sát thấy ở nông thôn miền Bấc hiện nảy. Trong<br />
thời kỳ chiến tranh, khi nam giới ra mặt trận gần hết, phụ nữ trên thực tế đã đóng vai trò quyết định ở hậu<br />
phương, cả trong lao động sản xuất, chăm sóc con cái lẫn trông nom cha mẹ già hai họ. Sau chiến tranh, cho đến<br />
tận ngày nay ở rất nhiều xã họ vẫn tiếp tục là lực lượng lao động chính cả trong đơn vị Hợp tác xã lẫn trong đơn<br />
vị gia đình. Thêm vào đó, gánh nặng gia đình chủ yếu dồn lên vai họ. Nhiều thế hệ phụ nữ kế tiếp nhau trong<br />
hàng chục năm ròng đã từng có những đóng góp quan trọng và phần nhiều vào đời sổng gia đỉnh, thế nhưng địa<br />
vị của họ trong gia đình không được câi'hiện so với nam giới tương ứng với những đóng góp đó. Sự giải phóng<br />
phụ nữ dường như chỉ dừng lại ở những cái mà cơ chế xã hội mới mang lại (như trong lĩnh vực y tế, giáo dục<br />
các quyền luật định khác) chưa vào sâu được đời sống gia đình. Lẽ dĩ nhiên, việc cải thiện thu nhập của phụ nữ<br />
không phải không có tí tác dụng nào đến việc nâng cao địa vị của họ trong gia đình. Trong trường hợp nông<br />
thôn đồng bằng Bắc Bộ, tác động đó có nhưng không phải là quyết định.<br />
Bầu không khí phân biệt đối xử nam - nữ trong gia đình chờ đợi người phụ nữ ngay từ khi họ chưa ra đời. Là<br />
một thiết chế xã hội bảo thủ (với ý nghĩa là gia đình chỉ duy trì, củng cố và tái tạo lại những giá trị xã hội đã<br />
được kiểm nghiệm chắc chắn và cố tính ổn định cao thẻo thời gian) gia đình đã không theo kịp với những biến<br />
đổi mạnh mẽ và mau lẹ diễn ra ngoài xã hội. Tiếp tục truyền thống tổ chức gia đinh và họ thân tộc theo dòng bố<br />
và áng tộc danh về phía bố 4 , gia đình nông thôn Bắc Bồ ngày nay vần gán cho con trai những giá trị đặc biệt<br />
hơn hằn con gái. Khi chưa sinh con, các bậc cha mẹ đã mong muốn đứa con tương lai là con trai, đã ấp ủ những<br />
kế hoạch và hy vọng cố phân hóa nam - nữ đối với những đứa con tương lai, một sự phân hoá không đơn thuần<br />
dựa trên khác biệt sinh lý giữa hai giới. Thái độ này ngày nay tuy không còn quá mạnh đến mức bỏ mặc các bể<br />
gái nhưng còn đủ mạnh để dẫn dắt những hành động thiên vị con trai cụ thể của các bậc cha mẹ. Trong cuộc<br />
điều tra ở xã Quyết Tiến (1984) có đến 64% nữ và 59, 6% nam khi được hỏi đã trả lời họ nhất thiết phải cố con<br />
trai và sẽ đẻ đến bao giờ cố con trai mới thôi. Đồng thời đa số người được hỏi cũng bày tỏ nguyện vọng phải có<br />
<br />
2, (3). Luậnt Hôn nhân và Gia đình nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường<br />
- Chinh ký ngày 3-1-1987.<br />
<br />
<br />
4<br />
Xem bài của Trần Đình Hượu và Nguyễn Từ Chi trong Tạp chí Xã hội học số 2 năm 1989.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 3 - 1990<br />
ít nhất hai con trai để đề phòng trường hợp rủi ro với một trong số con trai của họ. Như vậy, nhu cầu chắc chắn<br />
cố ít nhất một con trai sống được đến lớn là một nhu cầu khá mạnh ở nông thôn. Khi đã có con, cha mẹ cũng đối<br />
xử và dạy dỗ con gái khác con trai. Con trai được chăm sóc tốt hơn, được chiều chuộng hơn, cố nhiều đặc quyền<br />
đặc lợi hơn chị em gái chúng, được dạy dỗ nhằm vào những thăng tiến xã hội sau này. Trong khi đó, con gái có<br />
phần "yếu thế" hơn, được dạy dỗ đức tính đảm đang, quán xuyến việc nhà, ngoan ngoãn vâng lời, chịu nhịn.<br />
Cuộc khảo sát tại xã Bình Minh (1985) đã cho thấy, đối với người được hỏi, những đức tính quan trọng của con<br />
cái:<br />
Bảng 1. Đánh giá đức tính quan trọng của con cái %<br />
<br />
<br />
Tuổi:người được hỏi Cácv đức tính Duới 30 31 đến40 41 đến 50 Trên 50<br />
<br />
Học giỏi Con trai 53 56 42 45<br />
<br />
Con gái 36 45 33 24<br />
Lao động tốt Con trai 37 45 35 44<br />
Con gái 39 43 38 43<br />
Ngoan, lễ phép Con trai 51 64 44 53<br />
Con gái 60 73 51 62<br />
Giỏi việc nhà Con trai 4 14 12 9<br />
Con gái 31 33 31 37<br />
Tích cực tham gia Con trai 6 9 9 12.<br />
công tác xã hội Con gái 2 6 3 4<br />
<br />
<br />
Những số liệu ở bảng 1 cho thấy kỳ vọng của cha mẹ đối với con trai và con gái khác nhau rất rõ. Ngoại trừ<br />
đặc tính "lao động tốt" cha mẹ đòi hỏi ở con trai và con gái gần như như nhau, thì không mấy ai đòi hỏi con trai<br />
phải thạo việc nhà. Trong khi kỳ vọng ở con trai nhiều hơn ở tiêu chí "học giỏi", các bậc cha mẹ lại đòi hỏi rất<br />
gắt gao con gái phải "ngoan, lễ phép" hơn và gần như không trông chờ ở "tính tích cực tham gia công tác xã<br />
hội" của họ. Nhìn chung, các bậc cha mẹ quan tâm đến con trai nhiều hơn ở định hướng có tính chất "hướng<br />
ngoại" cố liên quan đến các cơ hội thăng tiến xã hội sau này trong khi đòi hỏi con gái nhiều hơn theo những<br />
định hướng "hướng nội" có liên quan nhiều hơn đến việc chuẩn bị các vai trò của người phụ nữ đảm đang, thao<br />
hiền trong gia đình . Không thấy có sự khác biệt đáng kể giữa ý kiến của các bậc .cha mẹ theo các độ tuổi của<br />
họ. Điều này cũng phần nào thể hiện sự chậm biến đổi các giá trị xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác và sự tái<br />
tạo lại nó trong gia đình là khá nguyên vẹn đồng thời, các con số này cũng cho thấy dù cố những khác biệt theo<br />
con trai và con gái, sự khác biệt đó cũng không đến nỗi quá lớn như ở nhiều xã hội đang phát triển khác.<br />
Tìm hiểu định hướng nghề nghiệp của bố mẹ cho con cái, ta cũng thấy rất rõ sự khác biệt đối với con trai và<br />
con gái. ở nông thôn hiện nay người dân không có nhiều sự lựa chọn. Ngoài nghề nông có tính chất tương đối tự<br />
động, chỉ có thề làm thêm các nghề thử công (hoặc nửa thủ công) hay các nghề dịch vụ buôn bán nhỏ ở địa<br />
phương. Những nghề này ở xã nào cũng có, tuy mức độ nhiều ít có khác nhau. Người nông dân làm thêm những<br />
nghề này vào những lúc nông nhàn hoặc xen kẽ với nghề nông nhằm bổ sung thêm thu nhập ngoài thu về nông<br />
sản. Những nghề này cố vai trò cực kỳ quan trọng nhưng do tính chất bấp bênh của nó trong điều kiện hiện nay<br />
ở nông thôn nên chúng không có nhiều.uy tín đối với nông dân. Dù gắn bố với nghề nông nhưng phần lớn nông<br />
dân cho rằng chỉ làm nông .nghiệp không thôi không thể giàu lên được. Trong cuộc điều tra ở xã Dông Dương<br />
(1989) và xã Nguyên Xá (1989) tương ứng có đến 86% và 92% người được hỏi đã trả lời như vậy. Sự lựa chọn<br />
thuận tiện nhất đối với nông dân thay cho nông nghiệp là "thoát ly" . Mặc dù thoát .ly chi có nghĩa là đi khỏi<br />
làng, còn làm nghề gì còn chưa rõ nhưng nó có một ma lực đáng ngạc nhiên đối với nông dân, cả dối với thanh<br />
niên lẫn đối với cha mẹ họ. Họ tin rằng đi thoát ly làm cán bộ ("cán bộ" - lại một tù quen thuộc khác!) cuộc sống<br />
sẽ đỡ vất vả và sẽ cố uy tín cao hơn. Không đi sâu vào căn nguyên của vấn đề này, ở đây chúng tôi chỉ muốn tìm<br />
hiểu nó tác động đến định hướng nghề nghiệp của cha mẹ đối với con cái như thế nào. Vấn đề này được đề cập<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
4 Xã hội học, số 3 - 1990<br />
đến trong hầu hết các cuộc nghiên cứu Xã hội học trong gần mười năm qua. Và kết quả điều tra tại các xã khác<br />
nhau về vấn đề này khá thống nhất. Bảng 2 là kết quả điều tra mới đây nhất tại xã Hải Vân (1990). Diều đáng<br />
chú ý và ở đây không có sự khác biệt đáng kể giữa các câu trả lời của nam giới và nữ giới (chứng tỏ các bà vợ<br />
và các ông chồng cùng có chung một quan niệm về giá trị đối với con gái và con trai), do đó chúng tôi nêu lên ở<br />
đây con số chung.<br />
Bảng 2: "Ông (Bà) muốn con làm nghề gì?<br />
Tuổi người Con gái |<br />
được hỏi Con trai<br />
Nông Thủ Dịch vụ Thoát Khác Nông Thủ Dịch vụ Thoát Khác<br />
nghiệp CN buôn bán ly nghiệp CN buôn bán ly<br />
<br />
<br />
Dưới=25 7,14 14,28 0 78,57 0 57,14 7,14 0 28,57 7,14<br />
26-35 6,76 14,86 6,76 71,62 0 45,94 9,96 2 7,03 17,57 0<br />
36-45 9,09 22,73 6,06 62,12 0 54,54 7,57 10,60 22,73 4,54<br />
46 trở lên 15,38 17,3 3,85 46,15 17,3 34,61 7,69 13,46 23,08 21,15<br />
Chung 9,71 17,79 5,34 62,62 4,37 46,60 8,25 16,50 21,36 7,28|<br />
<br />
<br />
<br />
Các con số của bảng này cũng cho thấy nguyện vọng nghề nghiệp của cha mẹ đối với con cái cũng mang tính<br />
chất "hướng ngoại" đối với con trai và "hướng nội" đối với con gái. Đại đa số muốn con trai thoát ly nông<br />
nghiệp trong khi phần lớn muốn con gái ở lại làm nông nghiệp. Hai sự quyết chọn quan trọng thay thế cho nông<br />
nghiệp đối với con trai là thử công nghiệp và nhất là thoát ly nông thôn. Dịch vụ buôn bán không phải là mong<br />
muốn của hầu hết các bậc cha mẹ đối với con trai, trong khi đối với con gái lại là nguyện vọng của khá nhiều<br />
người. Diều này cho thấy về mặt truyền thống, quan niệm dịch vụ buôn bán là hoạt động chủ yếu do nữ giới<br />
đảm nhiệm vẫn còn khá mạnh ở nông thôn hiện nay 5 . Nếu xét đến uy tín của cử nghề thì ta thấy thường bố mẹ<br />
"nhắm" cho con trai những nghề có uy tín cao hơn so với con gái. ở đây, tuy có sự dao động các ý kiến theo độ<br />
tuổi nhưng không thấy có xu hướng nào rõ nét, ngoại trừ sự giảm khá đều đặn các ý kiến muốn con trai làm<br />
nông nghiệp từ độ tuổi cao sang độ tuổi trẻ hơn.<br />
Những tâm thế kể trên không đơn thuần chi dừng lại ở những nguyện vọng suông của cha mẹ. Trái lại, nó<br />
biểu hiện ra trong những tương tác hàng ngày giữa cha mẹ và con cái, giữa con trai và con gái trong cùng một<br />
gia đình với nhau. Con trai được ưu đãi và cố nhiều cơ hội sử dụng phúc lợi gia đình hơn, đặc biệt những khi gia<br />
đình chi có khả năng thanh toán cho nhu cầu của hoặc con trai hoặc con gái thì thường con gái phải chịu thiệt<br />
thòi. Các cuộc nghiên cứu cũng quan sát thấy tỷ lệ bỏ học ở các cấp thấp cao hơn ở các em gái. Tại cuộc khảo<br />
sát ở xã Dông Dương (1989), 25% số người được hỏi dự định cho con trai học trên cấp III nhưng chỉ có 11, 5%<br />
cố dự định như vậy cho con gái.<br />
Sinh ra và lớn lên trong một bầu không khí bất bình đẳng nam - nữ như vậy, dần dần các em học được các<br />
khuôn mẫu ứng xử, các chuẩn mực và giá trị thấm đượm tinh thần trọng nam khinh nữ. Lớn lên, các giá trị này<br />
nhập tâm thành cái điều chỉnh hành vi bên trong, con người không cảm thấy bị cưỡng chế khi tuân theo những<br />
khuôn mẫu có tính bất bình đẳng, họ thấy hoàn toàn bình thường và thoải mái làm theo cái mà gia đình và<br />
khung cảnh xã hội xung quanh chờ đợi ở họ. Điều này giải thích tại sao những bà mẹ lại dễ dàng đồng tình với<br />
các ông bố khi xử sự không công bằng với con gái. Kết quả là, khi trưởng thành, nam giới được chuẩn bị để<br />
đảm nhận những vai trò thuận lợi hơn trong gia đình cũng như ngoài xã hội, có khả năng lựa chọn lớn hơn, cố<br />
tính cơ động xã hội cao hơn.<br />
Thêm vào đó, những điều kiện bên ngoài cũng tạo nên những bất lợi cho chị em nông thôn khi lập gia đình.<br />
Hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài cùng với tính cơ động cao của nam giới khiến cho một bộ phận lớn nam<br />
thanh niên di chuyển (thoát ly) khỏi nông thôn, để lại nông thôn nhiều vùng sự mất cân đối giới tính nghiêm<br />
<br />
5<br />
Xem chú thích (4).<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 3 - 1990<br />
trọng. Trong cuộc điều tra ở xã Đông Dương (1989), tỷ lệ giới tỉnh (nam, nữ) trong độ tuổi tái sinh sản (từ 15-<br />
49) chỉ là 74,63%; Tỷ lệ giới tính cho người trong độ tuổi lan động (từ 16 đến 60) là 57,93% 6 . Tình hình này<br />
làm cho việc lập gia đình của chị em rất khó khăn, tăng thêm sự yếm thế vá lòng tự ti vốn đã có từ trước ở<br />
nhiều người. Trong rất nhiều trường hợp, ngay khi bước vào hôn nhân phụ nữ đã không ở trong địa vị ngang<br />
hàng với nam giới trên nhiều phương diện. Đối với quyết định hôn nhân, phụ nữ cũng lệ thuộc vào ý kiến của họ<br />
hàng nhiều hơn. ở Hải Vân (1990) có đến 33,73% phụ nữ trả lời là quyết định hôn nhân cần cố sự đồng ý của họ<br />
hàng trong khi con số này đối với nam giới là 19,51%. Cùng với quyết định hôn nhân là hàng loạt tập quán hôn<br />
lễ khác vẫn tiếp tục tồn tại nhấn mạnh tính thứ yếu của phụ nữ khi đi vào hôn nhân như ăn hỏi, đón dâu (tại sao<br />
lại không phải là một hình thức nào khác có tính trung lập, đòi hỏi sự tham gia bình đẳng của cả cô dâu lẫn chú<br />
rể? ), nơi ở mới theo chồng. . . Trong thông kê dân số và lao động xã Đông Cơ (1983) mục dân đến và đi vì lý<br />
do hôn nhân chỉ thuần túy là phụ nữ đi lấy chồng nơi khác đi khỏi xã và phụ nữ từ nơi khác lấy chồng xa này<br />
đến ở, tuyệt nhiên không ghi nhận được một trường hợp nào ngược lại, khi chồng theo vợ đi hoặc đến. 7<br />
Trong gia đình, có lê quyền lớn nhất mà phụ nữ có thể tha hồ tận hưởng đó là quyền lao động. Quả thật lao<br />
động của phụ nữ đúng là triền miên, cả lao động sản xuất lần lao động việc nhà, cả lao động được trả công lẫn<br />
lao động không được trả công. ở Tam Sơn ( 1983) 73,6% người được hỏi cho rằng trong sân xuất lúa lao động<br />
nữ bỏ vào nhiều hơn lao động nam, 19% cho rằng nam nữ bỏ vào lao động bằng nhau, chỉ có 7, 4% trả lời rằng<br />
lao động nam bỏ vào nhiều hơn lao động nữ. Bảng 3 cho thấy đống góp của vợ và chồng trong các loại lan<br />
động.<br />
Bảng 3. Ai trong gia đình là lao động chính trong các 1oại việc dưới đây?<br />
Loại công việc Chồng Vợ Bố mẹ già Các Người khác<br />
Con<br />
Chợ búa 12 189 4 16 2<br />
5,4 85,5 1,8 7,2 0,9<br />
chăn nuôi 66 148 3 36 3<br />
29,9 66,9 1,4 16,3 1,4<br />
Làm ruộng 96 121 3 57 3<br />
43,3 54,8 1,4 25,8 1,4<br />
Làm ruộng khoán 104 129 67 4<br />
47,1 58,4 30,3 1,8<br />
Làm thủ công 43 81 1 67 2<br />
19,5 36,7 0,5 30,3 0,9<br />
nghiệp<br />
<br />
<br />
Chú thích: Số trên là số tuyệt đồi, số dưới là số % người trả lời.<br />
Qua bâng này ta thấy đống góp của phụ nữ hơn hẳn đóng góp của nam giới trên tất cả các phần công việc.<br />
Trong Báo cáo Tổng kết cuộc khảo sát xã hội học ở Quảng Bị và Đại Yên ( 1989) 8 các nhà nghiên cứu cũng<br />
quan sát thấy "ớ hai xã miền Bắc, nữ giới đâm nhận hầu hết công việc sản xuất chính và phụ. Hầu hết nữ giới<br />
đều tham gia với vai trò chính trong các công việc như cấy làm giống, chăm sóc, làm phân. Chỉ có hai việc nữ<br />
tham gia ít là làm đất và thủy lợi (đất 10,1% nước 14,0%) . . . Vai trò của nam giới (chồng) dường như chỉ là hô<br />
trợ cho người phụ nữ trong mọi công việc". Cũng theo nhóm công tác này, thời gian làm việc của nam giới<br />
thường chỉ bằng 2/3 thời gian làm việc của phụ nữ. Trung bình một ngày nam giới cố khoảng 5,5 giờ nghỉ ngơi<br />
trong khi phụ nữ có khi phải làm việc đến 15 hay 16 giờ một ngây và chỉ cố trung bình vẻn vẹn 1 giờ nghỉ ngơi.<br />
Trong bảng 3 ta cũng thấy phần đóng góp của con cái rất đáng kể, nhất là trong các hoạt động lan động sản xuất.<br />
Tiếc rằng không có số liệu nối về đóng góp của con trai và con gái. Nhưng theo những quan sát của tác giả trong<br />
<br />
<br />
6<br />
,7 Tài liệu cá nhân, riêng mục (7) dựa vào số liệu thống kê của xã từ năm 1977 đến năm 1982.<br />
<br />
<br />
8<br />
. Cuộc điều tra do Nguyễn Đức Truyền tổ chức.<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
6 Xã hội học, số 3 - 1990<br />
nhiều cuộc nghiên cứu thực tế những năm qua thì, cũng như mẹ mình, con gái đóng góp nhiều hơn trong hầu hết<br />
các hoạt động lao động ở nông thôn hiện nay.<br />
Điều đáng ngạc nhiên là trong ba cuộc nghiên cứu mới đây nhất ( Đình Bảng - 1990, Hải Vân - 1990 và Tam<br />
Sơn - 1990) 9 khi các nhà nghiên cứu nêu câu hỏi "Ai là người đóng góp nhiều nhất vào thu nhập gia đình" (chứ<br />
không phải ai là lao động chính trong các công việc cụ thể) thì ở cả ba nơi đều thu được câu trả lời cho thấy<br />
chồng thường cố đóng góp lớn hơn vợ, con trai có đống góp nhiều hơn con gái. Sự thực, việc tìm hiểu thu nhập<br />
gia đình là một vấn đề cực kỳ khó khăn. Không phải đơn thuần vì người ta không muốn trả lời, mà còn vì chính<br />
bản thân họ không biết đích xác họ cố thu nhập là bao nhiêu? trong đó người chồng đống góp bao nhiêu, vợ bao<br />
nhiêu và các con có đóng góp bao nhiêu? Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp của một nền kinh tế còn chưa<br />
chuyển được sang sản xuất hàng hóa, lao động còn mang nặng tính chất tự thuê - tự trả công (self - employed<br />
labour), sự tham gia của từng người trong các công đoạn không rạch ròi và mỗi công đoạn không được hạch<br />
toán chi tiết về công xã. Hơn nữa các dạng hoạt động (làm ruộng, chăn nuôi, thủ công nghiệp. . . ) đan xen nhau<br />
phức tạp, các vai trò của người lao động thay đổi luôn luôn và quá trình sản xuất cho đến khi ra thành phẩm kéo<br />
dài trong nhiều tháng ngày nên việc xác định cho thật đúng phần đóng góp của mỗi người không phải đơn giản.<br />
Khi nối rằng nữ giới bỏ nhiều công lao động hơn nam giới thì điều đố không cổ nghĩa là nam giới không có<br />
đóng góp gì. Theo quan sát của chúng tôi, công việc của nam giới ở nông thôn cũng rất vất và tuy về trường độ<br />
lao động có kém hơn so với lao động nữ. Nam giới thường làm những công việc mà nữ giới không đảm đương<br />
được, hoặc vì quá nặng nhọc, hoặc vì tập quán lâu đời không cho phép. Trong cả hai trường hợp lao động của<br />
nam giới đều được đề cao hơn lao động của nữ giới, được gán cho nhiều giá trị hơn lao động nữ. Nữ giới thường<br />
làm những việc ít nhiều đơn điệu, lặp đi lặp lại hàng ngày và có thể được trẻ em hỗ trọ, trong đó có nhiều lao<br />
động không tạo ra sản phẩm (việc nhà). Công việc của nam giới gần như không ai thay thế được. Theo ý kiến<br />
của đồng chí Bí thư huyện ủy Huyện Dông Hưng - Thái Bình, ở vùng này nông dân chỉ coi người cày và người<br />
cấy là thợ, còn người làm các công việc khác không phải là thợ. Con gái được mẹ dạy cấy cực kỳ cẩn thận mới<br />
lấy được chồng. Còn cày ruộng là việc của nam giới, những ông chồng. Quả thật, công việc này ở tất cả các<br />
vùng mà chúng tôi đã khảo sát, nam giới đảm đương gần như hoàn toàn. Công việc đóng gạch, nung gạch, làm<br />
nhà (thường khi kéo dài vài ba năm, rồi sau đó lại phải đổi công làm nhà giúp những người đã đến làm nhà giúp<br />
mình) cũng do nam giới đảm nhiệm. Nam giới cũng có nhiều cơ hội đi làm thuê kiếm tiền hoặc thóc hơn nữ<br />
giới. ở ba xã nói trên, trừ Hải Vân không có thông tin, còn thì nam giới có nhiều cơ hội đi làm thuê hơn và cũng<br />
có số phần trăm người đi làm thuê cao hơn. Chẳng hạn, ở Tam Sơn có 60, 21% nam giới đi làm thuê 11 dạng<br />
công việc khác nhau trong khi chỉ có 40, 38% phụ nữ đi làm thuê 7 dạng công việc khác nhau.<br />
Như vậy, lao động nam thường có uy tín hơn là lao động nữ, và gần như toàn bộ lao động nam gắn với việc<br />
nâng cao thu .nhập và phúc lợi trong khi tuy làm nhiều hơn nhưng chỉ một phần lan động nữ đem lại thu nhập<br />
thôi. Trong nhiều trường hợp, khi ông chồng làm việc, mọi người ghi nhận đóng góp của anh ta nhưng khi<br />
người vợ làm việc, mọi người cho là chuyện tất nhiên. Chính điều này gay cảm tưởng rằng, nam giới đóng góp<br />
vào thu nhập nhiều hơn thậm chí ngay cả khi phần thu nhập thực tế do người vợ mang lại cao hơn phần của<br />
người chồng. Về thực chất, điều này chỉ là một biến thể của hiện tượng có tính chất phổ biến là sự bất bình đẳng<br />
nam-nữ trong lao động thể hiện ở chỗ người phụ nữ hoặc không được trả công, hoặc được trả công không xứng<br />
đáng. Trong trường hợp này, hoặc ngươi phụ nữ tự "trả công" mình không xứng đáng hoặc người chồng "trả<br />
công" vợ không xứng đáng với lao động bỏ ra bằng những đánh giá "không xứng đám của mình. Như vậy, tiêu<br />
chí "ai là người đóng góp nhiều nhất vào thu nhập gia đình" ở đây, theo chúng tôi, phản ánh uy tín về kinh tế gia<br />
đình của vợ-chồng nhiều hơn là phản ánh những đóng góp vật chất và do đó nó mang nội dung văn hóa nhiều<br />
hơn là nội dung kinh tế. Số liệu nghiên cứu ở Hải Vân năm 1990 cho thấy tương quan giữa ý kiến của nam và<br />
nữ về vấn đề này (xem bảng 4).<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />
Các cuộc nghiên cứu do Phó tiến sĩ Tô Duy Hợp tổ chức.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 3 - 1990<br />
Bảng 4. Ai là người đóng góp nhiều nhất vào thu nhập gia đình?<br />
Người được hỏi Chung<br />
Chồng Cả hai Con trai Con gái<br />
Nam 8 78 23 10 4 123<br />
6,5 63,41 18,70 8,13 3,25 100<br />
Nữ 17 39 19 4 4 83<br />
20,48 46,99 22,89 4,82 4,82 100<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chú thích: Số trên là số tuyệt đối số dưới là số phần trăm<br />
Điều lý thú là tỷ lệ phụ nữ đánh giá cao về mình cao hơn nhiều so với tỷ lệ nam giới đánh giá cao về vợ<br />
mình. Và tuy tỷ lệ nữ giới đánh giá cao về chồng khá cao, nó vẫn thấp hơn khá nhiều tỷ lệ nam giới đánh giá<br />
cao về chính mình. Tình hình này cho phép ta giả định hai điều: a) Có sự không hài lòng nhất định giữa chồng<br />
và vợ về việc một bên đánh giá về bên kia thấp hơn mức cần thiết. Diều này rất quan trọng vì nó kích thích nhu<br />
cầu đòi thiết lập sự công bằng trong đánh giá về đóng góp của mỗi bên; bị C) sự khẳng định rõ ràng (cả từ phía<br />
các bà vợ) vai trò quyết định về kinh tế của các ông chồng trong các gia đình. Về các bà vợ, điều này phản ánh<br />
mức độ qui phục của họ về kinh tế đối với các ông chồng, nhiều khi là "của chồng" nhưng "công vợ"<br />
Khác biệt nam-nữ thể hiện đặc biệt rô trong các hoạt động ngoài lao động. Nó thể hiện ở quyền quyết định<br />
của người gia trưởng trong phân công lao động, trong quyết đinh tương lai của con cái (nghề nghiệp, hôn nhân<br />
của con), trong chi tiêu tài Băn gia đình, trong các nghi thức giao tiếp trong xóm, ngoài làng. . . Tại cuộc nghiên<br />
cứu ở Đông Dương (1983), trà lời câu hỏi "ai là người quyết định việc phân công lao động trong gia đình? ",<br />
trong số 256 người được hỏi thì có tới 151 người (58,98%) khẳng định quyền quyết định của người chồng, 28<br />
người (10, 94%) cho rằng đó là người vợ, 69 người (26, 9%) trả lời rằng cả hai cùng bàn bạc và cùng quyết<br />
định, còn lại nêu lên những người khác (ông, bà, con lớn. . . ). Tình hình này cũng xảy ra ở rất nhiều xã khác mà<br />
Viện Xã hội học đã tiến hành khảo sát. Ba quyết định quan trọng khác là quyết định hôn nhân của con, quyết<br />
định nghề nghiệp của con và các quyết định chi tiêu, kết quả điều tra ô Hải Vân năm 1990 cho thấy vai trò nổi<br />
bật của người chồng trong quyết định hôn nhân của con và về nghề nghiệp của chúng (xem bâng 5). Tuy nhiên<br />
các con số cũng khẳng định quyền quyết định của người mẹ ở một mức độ nào đó, dưới danh nghĩa "cả hai".<br />
Quả thật, ngay trong phương án "cả hai" liệu hai vợ chồng có thực sự tham gia một cách bình đẳng hay không<br />
còn phần làm rô thêm, nhưng điều rõ ràng là, tuy còn chưa bình đẳng với nam giới nhưng phụ nữ Việt Nam đã<br />
có địa vị được cải thiện rất nhiều so với thời xưa và so với nhiều xã hội đang phát triển khác. Riêng quyền quyết<br />
định chi tiêu hơi đặc biệt, cần chú giải thêm cho rô. Theo các con số ở bảng 5, vai trò của vợ và chồng trong chi<br />
tiêu là ngang nhau. Chỉ với một chi tiết là ý kiến của giới nào cũng thiên về việc khẳng đinh quyền quyết định<br />
của giới mình. Di sâu tim hiểu chúng tôi thấy có hai loại chi tiêu trong sinh hoạt gia đỉnh. Đó là việc chi tiêu<br />
hàng ngày cho ăn uống, sinh hoạt, và thứ hai là những khoản chi tiêu lớn, đòi hỏi khá nhiều tiền như mua độ đặc<br />
(giương, tủ, bàn, ghế, vô tuyến, đài. . . ), làm nhà và sửa chữa nhà cửa v. v. . . Loại chi tiêu thứ nhất do phụ nữ<br />
đảm đương, loại chi tiêu .thứ hai do nam giới quyết định. Dối với việc chợ búa hàng ngày phụ nữ quyết định<br />
tương đối tự do. Trong khi đó, khi quyết những khoản lớn nói chung chồng có quyền nhưng không thể không<br />
tính tới ý kiến của người "tay hòm chìa khoá là các bà vợ được. Tại cuộc nghiên cứu mới đây ở xã Văn Nhân<br />
(1990), trong một cuộc phỏng vấn sâu một nhóm người thuộc họ Trần, một người trong số này đã giải thích quy<br />
gia đình "do bố mẹ quản, bố thạo bố quan, mẹ thạo mẹ quản. Con cần phải xin phép với họ Trần, bố có quyền là<br />
chính, còn người giữ tiền là mẹ. Nhưng ông chổng bạ gì cũng hỏi tiền vợ thì người ta cười chết. Bố chỉ quyết<br />
định những cái lớn, như xây nhà, tậu trâu. . . ". Cách quản lý quy gia đình kiểu này đã có truyền thống từ lâu (<br />
10), có điều ngày nay người chồng không có được mức độ quyền lực tuyệt đối như họ đã từng có trong lịch sử.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
8 Xã hội học, số 3 - 1990<br />
Bảng 5. Ai quyết định các công việc sau:<br />
Người được hỏi Chbng Vd Ca hai Concai Ngtf di khac<br />
<br />
HÔN NHÂN 18 6 47 17 41<br />
CỦA CON Nam 14,63 46 38,24 13,82 33,33<br />
<br />
Nữ 13 7,23 13 5<br />
15,66 55,42 15,66 6,62<br />
NGHỀ Nam 43 40 20 20<br />
NGHIỆP 34,96 32,52 16,26 16,26<br />
CỦA CON<br />
Nữ 16 8 44 12 3<br />
19,28 9,64 14,46 3,61<br />
53,01<br />
CHI TIÊU Nam 17 12 71 13 10<br />
13,82 9,76 57,72 10,57 8,13<br />
<br />
Nữ 7 20 46 7 3<br />
8,43 24,10 55,42 8,93 3,61<br />
<br />
<br />
<br />
Chú thích: Số trên là sỗ tuyệt dối, số dưới là số phần trăm tính riêng cho nam và nữ.<br />
(10) Xem chú thích (4)<br />
Trong các nghi thức giao tiếp cũng thể hiện rõ khác biệt nam-nữ. Công việc tiếp khách chủ yếu do nam giới<br />
đàm nhiệm. Nữ giới cũng chịu sự kiểm soát của họ hàng ở mức độ lớn hơn, nhất là những khi cố những quyết.<br />
đinh quan trọng như hôn nhân, làm nhà hoặc đi nơi khác làm ăn. Những khi có hội hè đình đám, ông chồng vẫn<br />
thường giữ vai trò là đại diện cho gia đình, dòng họ ở chỗ công cộng. Ở nhiều vùng, thậm chí ngây nay phụ nữ<br />
vẫn không được đi vào nghiêm điện (gian trong) của các nhà thờ họ và đình làng. Trong hoạt động giao tiếp, có<br />
lẽ phụ nữ cố quyền khá bình đằng với nam giới ở trong các cuộc họp bàn về lao động sản xuất và phương thức<br />
ăn chia ở Hợp tác xã, họp đội sân xuất cũng như các cuộc họp phụ huynh cho con em mình ở trường học. Đây là<br />
một bước tiến to lớn nhưng vẫn chưa bảo đăm được cho phụ nữ địa vị xứng đáng với họ trong gia đình. Nếu<br />
trong gia đình có điều bất ổn, phụ nữ vẫn thường là người chịu hậu quả nặng nề hơn, hứng chịu nhiều hơn sự<br />
trách móc của dư luận xung quanh (kể cả dư luận từ phía phụ nữ trong xóm, ngoài làng) . Diều bất công khác<br />
đối với phụ nữ là địa vị của họ cổ thể phụ thuộc vào cái mà họ không có khả năng kiểm soát, có tính chất ngẫu<br />
nhiên, ví dụ khả năng sinh đẻ, nhất là khả năng sinh con trai. Chừng nào phụ nữ chưa đẻ được một số con mà<br />
chồng và họ hàng chờ đợi, chừng nào chị chưa sinh được một con trai thì chừng ấy địa vị của chị trong gia đình<br />
còn bấp bênh, còn bị đặt trước dấu hởi.<br />
Việc nuôi dạy con cái do cả hai vợ chồng lo, nhưng nếu con ốm đau quặt quẹo, nếu con hư hỏng, mất nết thì<br />
người vợ sẽ bị chê trách trước tiên (con hư tại mẹ, cháu hư tại bà). Dư luận xã hội tỏ ra dễ tha thứ cho khuyết<br />
điểm của người chồng trong khi lại quá nghiêm khắc và nhớ dai những khiếm khuyết của người vợ.<br />
Có thể dần ra đây nhiều hằng chứng nữa về sự bất bình đằng nam-nữ trong gia đình nông thôn Bắc Bộ hiện<br />
nay, song khuôn khổ bài báo này không cho phép.<br />
Tóm lại, dù đạo luật mới, tiến bộ về hôn nhân và gia đình đã được thiết lập từ nhiều năm nay, cuộc sống gia<br />
đình vẫn đi theo con đường riêng của mình, vẫn tuân theo những tập quán, những khuôn mẫu xử sự, những<br />
chuẩn mực xã hội đã thâm căn cố đế trong xã hội, được tạo nên từ nhiều đời nay bởi đàn ông và để phục vụ cho<br />
đàn ông. Sinh ra và lớn lên trong một bầu không khí xã hội như vậy, mỗi người (kể cả nam giới lẫn nữ giới) dần<br />
dần nhập tâm những giá tri trọng nam khinh nữ đó mà không hề thắc mắc về nó, không hề cảm thấy bất bình<br />
thường để rồi khi đã trưởng thành (kể cả phụ nữ) lại tiếp tay cho việc củng cố, duy trì và tái tạo lại những giá trị<br />
đó không chút hoài nghi. Trong lịch sử, hệ thống giá trị đó đan bện với cơ cấu kinh tế, chính trị và tư tưởng<br />
thành một thể thống nhất, ổn định. Ngày nay, bối cảnh xã hội đã khác, hệ thống chính trị, tư tưởng và cơ cấu<br />
kinh tế đang chuyển đổi mạnh mẽ đòi hỏi phải có sự chuyển biến tương ứng hệ thống giá trị theo hướng giải<br />
phóng con người với ý nghĩa đầy đủ nhất của nó. Hệ thống giá trị cũ đã không còn ăn nhập một cách hòa hợp<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 3 - 1990<br />
được nữa với sự phát triển của xã hội. Trong điều kiện đó, vấn đề giải phóng phụ nữ ngay trong gia đình có ý<br />
nghĩa cực kỳ quan trọng. Chúng ta không thề giải phóng mọi năng lực kinh tế của con người khi không giải<br />
phóng họ về mặt xã hội, không giải phóng nhân cách của họ. Đó là một công việc khó khăn vỉ tính chất bảo thủ<br />
của hệ thống giá trị xã hội, vì sự cưỡng lại dai dằng của nó đối với mọi sự biến đổi. Đó là một công việc đòi hỏi<br />
thời gian .<br />
Nghiên cứu sự bất bình đẳng nam-nữ trong gia đình nông thôn Bắc Bộ, theo chúng tôi, .sẽ bế tắc nếu ta tiếp<br />
cận theo góc độ kinh tế. Thay vào đó, chúng tôi cho rằng cách tiếp cận thông qua văn hóa sẽ có nhiều triển<br />
vọng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />