intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khai phá dữ liệu Web

Chia sẻ: Nguyễn Đức Cường | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:54

135
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Khai phá dữ liệu Web trình bày tổng quan về khai phá dữ liệu Web; máy tìm kiếm; bài toán phân lớp; hệ thống thử nghiệm. Mời các bạn tham khảo tài liệu để nắm bắt nội dung chi tiết. Với các bạn chuyên ngành Công nghệ thông tin thì đây là tài liệu hữu ích.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khai phá dữ liệu Web

  1. Chương 1. TỔNG QUAN VỀ KHAI PHÁ DỮ LIỆU WEB 1.1. GIỚI THIỆU VỀ KHAI PHÁ DỮ LIỆU (DATAMING) VÀ KDD 1.1.1. Tại sao lại cần khai phá dữ liệu (datamining) Khoảng hơn một thập kỷ trở lại đây, lượng thông tin được lưu trữ trên các thiết bị điện tử (đĩa cứng, CD-ROM, băng từ, .v.v.) không ngừng tăng lên. Sự tích lũy dữ liệu này xảy ra với một tốc độ bùng nổ. Người ta ước đoán rằng lượng thông tin trên toàn cầu tăng gấp đôi sau khoảng hai năm và theo đó số lượng cũng như kích cỡ của các cơ sở dữ liệu (CSDL) cũng tăng lên một cách nhanh chóng. Nói một cách hình ảnh là chúng ta đang “ngập” trong dữ liệu nhưng lại “đói” tri thức. Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có thể khai thác được gì từ những “núi” dữ liệu tưởng chừng như “bỏ đi” ấy không ? “Necessity is the mother of invention” - Data Mining ra đời như một hướng giải quyết hữu hiệu cho câu hỏi vừa đặt ra ở trên []. Khá nhiều định nghĩa về Data Mining và sẽ được đề cập ở phần sau, tuy nhiên có thể tạm hiểu rằng Data Mining như là một công nghệ tri thức giúp khai thác những thông tin hữu ích từ những kho dữ liệu được tích trữ trong suốt quá trình hoạt động của một công ty, tổ chức nào đó. 1.1.2. Khai phá dữ liệu là gì? Khai phá dữ liệu (datamining) được định nghĩa như là một quá trình chắt lọc hay khai phá tri thức từ một lượng lớn dữ liệu. Một ví dụ hay được sử dụng là là việc khai thác vàng từ đá và cát, Dataming được ví như công việc "Đãi cát tìm vàng" trong một tập hợp lớn các dữ liệu cho trước. Thuật ngữ Dataming ám chỉ việc tìm kiếm một tập hợp nhỏ có giá trị từ một số lượng lớn các dữ liệu thô. Có nhiều thuật ngữ hiện được dùng cũng có nghĩa tương tự với từ Datamining như Knowledge Mining (khai phá tri thức), knowledge extraction(chắt lọc tri thức), data/patern analysis(phân tích dữ liệu/mẫu), data archaeoloogy (khảo cổ dữ liệu), datadredging(nạo vét dữ liệu),... Định nghĩa: Khai phá dữ liệu là một tập hợp các kỹ thuật được sử dụng để tự động khai thác và tìm ra các mối quan hệ lẫn nhau của dữ liệu trong một tập hợp dữ liệu khổng lồ và phức tạp, đồng thời cũng tìm ra các mẫu tiềm ẩn trong tập dữ liệu đó. Khai phá dữ liệu là một bước trong bảy bước của quá trình KDD (Knowleadge Discovery in Database) và KDD được xem như 7 quá trình khác nhau theo thứ tự sau:s
  2. 1. Làm sạch dữ liệu (data cleaning & preprocessing)s: Loại bỏ nhiễu và các dữ liệu không cần thiết. 2. Tích hợp dữ liệu: (data integration): quá trình hợp nhất dữ liệu thành những kho dữ liệu (data warehouses & data marts) sau khi đã làm sạch và tiền xử lý (data cleaning & preprocessing). 3. Trích chọn dữ liệu (data selection): trích chọn dữ liệu từ những kho dữ liệu và sau đó chuyển đổi về dạng thích hợp cho quá trình khai thác tri thức. Quá trình này bao gồm cả việc xử lý với dữ liệu nhiễu (noisy data), dữ liệu không đầy đủ (incomplete data), .v.v. 4. Chuyển đổi dữ liệu: Các dữ liệu được chuyển đổi sang các dạng phù hợp cho quá trình xử lý 5. Khai phá dữ liệu(data mining): Là một trong các bước quan trọng nhất, trong đó sử dụng những phương pháp thông minh để chắt lọc ra những mẫu dữ liệu. 6. Ước lượng mẫu (knowledge evaluation): Quá trình đánh giá các kết quả tìm được thông qua các độ đo nào đó. 7. Biểu diễn tri thức (knowledge presentation): Quá trình này sử dụng các kỹ thuật để biểu diễn và thể hiện trực quan cho người dùng. Hình 1 - Các bước trong Data Mining & KDD
  3. 1.1.3. Các chức năng chính của khai phá dữ liệu Data Mining được chia nhỏ thành một số hướng chính như sau: • Mô tả khái niệm (concept description): thiên về mô tả, tổng hợp và tóm tắt khái niệm. Ví dụ: tóm tắt văn bản. • Luật kết hợp (association rules): là dạng luật biểu diễn tri thứ ở dạng khá đơn giản. Ví dụ: “60 % nam giới vào siêu thị nếu mua bia thì có tới 80% trong số họ sẽ mua thêm thịt bò khô”. Luật kết hợp được ứng dụng nhiều trong lĩnh vực kính doanh, y học, tin-sinh, tài chính & thị trường chứng khoán, .v.v. • Phân lớp và dự đoán (classification & prediction): xếp một đối tượng vào một trong những lớp đã biết trước. Ví dụ: phân lớp vùng địa lý theo dữ liệu thời tiết. Hướng tiếp cận này thường sử dụng một số kỹ thuật của machine learning như cây quyết định (decision tree), mạng nơ ron nhân tạo (neural network), .v.v. Người ta còn gọi phân lớp là học có giám sát (học có thầy). • Phân cụm (clustering): xếp các đối tượng theo từng cụm (số lượng cũng như tên của cụm chưa được biết trước. Người ta còn gọi phân cụm là học không giám sát (học không thầy). • Khai phá chuỗi (sequential/temporal patterns): tương tự như khai phá luật kết hợp nhưng có thêm tính thứ tự và tính thời gian. Hướng tiếp cận này được ứng dụng nhiều trong lĩnh vực tài chính và thị trường chứng khoán vì nó có tính dự báo cao. 1.1.4. Ứng dụng của khai phá dữ liệu Data Mining tuy là một hướng tiếp cận mới nhưng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và phát triển nhờ vào những ứng dụng thực tiễn của nó. Chúng ta có thể liệt kê ra đây một số ứng dụng điển hình: • Phân tích dữ liệu và hỗ trợ ra quyết định (data analysis & decision support) • Điều trị y học (medical treatment) • Text mining & Web mining • Tin-sinh (bio-informatics) • Tài chính và thị trường chứng khoán (finance & stock market)
  4. • Bảo hiểm (insurance) • Nhận dạng (pattern recognition) • .v.v. 1.2. CƠ SỞ SỮ LIỆU HYPERTEXT VÀ FULLTEXT 1.2.1. Cơ sở dữ liệu FullText Dữ liệu dạng FullText là một dạng dữ liệu phi cấu trúc với thông tin chỉ gồm các tại liệu dạng Text. Mỗi tài liệu chứa thông tin về một vấn đề nào đó thể hiện qua nội dung của tất cả các từ cấu thành tài liệu đó. Ý nghĩa của mỗi từ trong tài liệu khkông cố định mà tuỳ thuộc vào từng ngữ cảnh khác nhau sẽ mang ý nghĩa khác nhau. Các từ trong tài liệu được liên kết với nhau theo một ngôn ngữ nào đó. Trong các dữ liệu hiện nay thì văn bản là một trong những dữ liệu phổ biến nhất, nó có mặt ở khắp mọi nơi và chúng ta thường xuyên bắt gặp do đó các bài toán về xử lý văn bản đã được đặt ra khá lâu và hiện nay vẫn là một trong những vấn đề trong khai phá dữ liệu Text, trong đó có những bài toán đáng chú ý như tìm kiếm văn bản, phân loại văn bản, phân cụm văn bản hoặc dẫn đường văn bản CSDL full_text là một dạng CSDL phi cấu trúc mà dữ liệu bao gồm các tài liệu và thuộc tính của tài liệu. Cơ sở dữ liệu Full_Text thường được tổ chức như môt tổ hợp của hai thành phần: Một CSDL có cấu trúc thông thường (chứa đặc điểm của các tài liệu) và các tài liệu CSDL Full-Text CSDL có cấu trúc chứa đặc điểm Các tài liệu của các tài liệu Nội dung cuả tài liệu được lưu trữ gián tiếp trong CSDL theo nghĩa hệ thống chỉ quản lý địa chỉ lưu trữ nội dung. Cơ sở dữ liệu dạng Text có thể chia làm hai loại sau: Dạng không có cấu trúc (unstructured): Những văn bản thông thường mà chúng ta thường đọc hàng ngày được thể hiện dưới dạng tự nhiên của con người và nó
  5. không có một cấu trúc định dạng nào. VD: Tập hợp sách, Tạp chí, Bài viết được quản lý trong một mạng thư viện điện tử. Dạng nửa cấu trúc (semi-structured): Những văn bản được tổ chức dưới dạng cấu trúc không chặt chẽ như bản ghi các ký hiệu đánh dấu văn bản và vẫn thể hiện được nội dung chính của văn bản, ví dụ như các dạnh HTML, email,... Tuy nhiên việc phân làm hai loại cũng không thật rõ ràng, trong các hệ phần mềm, người ta thường phải sử dụng các phần kết hợp lại để thành một hệ như trong cá hệ tìm tin (Search Engine), hoặc trong bài toán tìm kiếm văn bản (Text Retrieval), một trong những lĩnh vực qua tâm nhất hiện nay. Chẳng hạn trong hệ tìm kiếm như Yahoo, Altavista, Google... đều tổ chức dữ liệu theo các nhóm và thư mục, mỗi nhóm lại có thể có nhiều nhóm con nằm trong đó. Hệ Altavista còn tích hợp thêm chương trình dịch tự động có thể dịch chuyển đổi sang nhiều thứ tiếng khác nhau và cho kết quả khá tốt. 1.2.2. Cơ sở dữ liệu HyperText Theo từ điển của Đại học Oxford (Oxford English Dictionary Additions Series) thì Hypertext được định nghĩa như sau: Đó là loại Text không phải đọc theo dạng liên tục đơn, nó có thể được đọc theo các thứ tự khác nhau, đặc biệt là Text và ảnh đồ họa (Graphic) là các dạng có mối liên kết với nhau theo cách mà người đọc có thể không cần đọc một cách liên tục. Ví dụ khi đọc một cuốn sách người đọc không phải đọc lần lượt từng trang từ đầu đến cuối mà có thể nhảy cóc đến các đoạn sau để tham khảo về các vấn đề họ quan tâm. Như vậy văn bản HyperText bao gồm dạng chữ viết không liên tục, chúng được phân nhánh và cho phép người đọc có thể chọn cách đọc theo ý muốn của mình. Hiểu theo nghĩa thông thường thì HyperText là một tập các trang chữ viết được kết nối với nhau bởi các liên kết và cho phép người đọc có thể đọc theo các cách khác nhau. Như ta đã làm quen nhiều với các trang định dạng HTML, trong các trang có những liên kết trỏ tới từng phần khác nhau của trang đó hoặc trỏ tới trang khác, và người đọc sẽ đọc văn bản dựa vào những liên kết đó. Bên cạnh đó, HyperText cũng là một dạng văn bản Text đặc biệt nên cũng có thể bao gồm các chữ viết liên tục (là dạng phổ biến nhất của chữ viết). Do không bị hạn chế bởi tính liên tục trong HyperText, chúng ta có thể tạo ra các dạng trình bày mới, do đó tài liệu sẽ phản ánh tốt hơn nội dung muốn diễn đạt. Hơn nữa người đọc có thể chọn cho mình một cách đọc phù hợp chẳng hạn như đi sâu vào một vấn đề mà họ
  6. quan tâm. Sáng kiến tạo ra một tậpc cá văn bản cùng với các con trỏ trỏ tới các văn bản khác để liên kết một tập các văn bản có mối quan hệ voiứ nhau với nhau là một cách thực sự hay và rất hữu ích để tổ chức thông tin. Với người viết, cách này cho phép họ có thể thoải mái loại bỏ những băn khoăn về thứ tự trình bày, mà có thể tổ chức vấn đề thành những phần nhỏ, rồi sử dụng kết nối để chỉ ra mối liên hệ giữa các phần nhỏ đó với nhau. Với người đọc cách này cho phép họ có thể đi tắt trên mạng thông tin và quyết định phần thông tin nào có liên quan đến vấn đề mà họ quan tâm để tiêp tục tìm hiểu. So sánh với cách đọc tuyến tính, tức là đọc lần lượt thì HyperText đã cung cấp cho chúng ta một giao diện để có thể tiếp xúc với nội dung thông tin hiệu quả hơn rất nhiều. Theo khía cạnh của các thuật toán học máy thì HyperText đã cung cấp cho chúng ta cơ hội nhìn ra ngoài phạm vi một tài liệu để phân lớp nó, nghĩa là có tính cả đến các tài liệu có liên kết với nó. Tất nhiên không phải tất cả các tài liệu có liên kết đến nó đều có ích cho việc phân lớp, đặc biệt là khi các siêu liên kết có thể chỉ đến rất nhiều loại các tài liệu khác nhau. Nhưng chắc chắn vẫn còn tồni tại tiềm năng mà con người cần tiếp tục nghiên cứu về việc sử dụng các tài liệu liên kết đến một trang để nâng cao độ chính xác phân lớp trang đó. Có hai khái niệm về HyperText mà chúng ta cần quan tâm: Hypertext Document (Tài liệu siêu văn bản): Là một tài liệu văn bản đơn trong hệ thống siêu văn bản. Nếu tưởng tượng hệ thống siêu văn bản là một đồ thị, thì các tài liệu tương ứng với các nút. Hypertext Link (Liên kết siêu văn bản): Là một tham chiếu để nối một tài liệu HyperText này với một tài liệu HyperText khác. Các siêu liên kết đóng vai trò như những đường nối trong đồ thị nói trên. HyperText là loại dữ liệu phổ biến hiện nay, và cũng là loại dữ liệu có nhu cầu tìm kiếm và phân lớp rấ lớn. Nó là dữ liệu phổ biến trên mạng thông tin Internet CSDL HyperText với văn bản dạng “nửa cấu trúc” do xuất hiện thêm các “thẻ “: Thẻ cấu trúc (tiêu đề, mở đầu, nội dung), thẻ nhấn trình bày chữ (đậm, nghiêng,…). Nhờ các thẻ này mà chúng ta có thêm một tiêu chuẩn (so với tài liệu fulltext) để có thể tìm kiếm và phân lớp chúng. Dựa vào các thẻ đã quy định trước chúng ta có thể phân thành các độ ưu tiên khác nhaucho các từ khóa nếu chúng xuất hiện ở những vị trí khác nhau. Ví dụ khi tìm kiếm các tài liệu có nội dung liên quan đến “people “ thì chúng ta đưa từ khóa tìm kiếm là “people”, và các tài liệu có từ khóa “poeple” đứng ở tiêu đề thì sẽ gần với yêu cầu tìm kiếm hơn.
  7. Một sơ đồ minh hoạ Hypertext Document như là các nút và các Hypertext Link như là các liên kết giữa chúng So s¸nh ®Æc ®iÓm cña d÷ liÖu Fulltext vµ d÷ liÖu trang web Mặc dù trang Web là một dang đặc biệt của dữ liệu FullText, nhưng có nhiều điểm khác nhau giữa hai loại dữ liệu này. Một số nhận xét sau đây cho thấy sự khác nhau giữa dữ liệu Web và FullText. Sự khác nhau về đặc điểm là nguyên nhân chính dẫn đến sự khác nhau trong khai phá hai loại dữ liệu này (phân lớp, tìm kiếm,…).
  8. Một số đối sánh dưới đây về đặc điểm giữa dữ liệu Fulltext với dữ liệu trang đã được trình bày trong [2]. STT Trang web Văn bản thông thường (Fulltext) 1 Là dạng văn bản “nửa cấu trúc”. Văn bản thường là dạng văn bản “phi Trong nội dung có phần tiêu đề và cấu trúc”. Trong nội dung của nó có các thẻ nhấn mạnh ý nghĩa của không có một tiêu chuẩn nào cho ta từ hoặc cụm từ dựa vào đó để đánh giá 2 Nội dung của các trang Web Nội dung của các văn bản thông thường đườn mô tả ngắn gọn, cô thường thường rất chi tiết và đầy đủ đọng, có các siêu liên kết chỉ ra cho người đọc đến những nơi khác có nội dung liên quan 3 Trong nội dung các trang Web có Các trng văn bản thông thường không chứa các siêu liên kết cho phép liên kết được đến nội dung của các liên kết các trang có nội dung liên trang khác với nhau 1.3. KHAI PHÁ DỮ LIỆU VĂN BẢN (TEXTMINING) VÀ KHAI PHÁ DỮ LIỆU WEB (WEBMINING) Như đã đề cập ở trên, TextMining (Khai phá dữ liệu văn bản) và WebMining (Khai phá dữ liệu Web) là một trong những ứng dụng quan trọng của Datamining. Trong phần này ta sẽ đi sâu hơn vào bài toán này. 1.3.1. Các bài toán trong khai phá dữ liệu văn bản 1. Tìm kiếm văn bản a. Nội dung Tìm kiếm văn bản là quá trình tìm kiếm văn bản theo yêu cầu của người dùng. Các yêu cầu được thể hiện dưới dạng các câu hỏi (query), dạng câu hỏi đơn giản nhất là các từ khóa. Có thể hình dung hệ tìm kiếm văn bản sắp xếp văn bản thành hai lớp: Một lớp cho ra những các văn bản thỏa mãn với câu hỏi đưa ra và một lớp không hiển thị những văn bản không được thỏa mãn. Các hệ thống thực tế hiện nay không hiển thị
  9. như vậy mà đưa ra các danh sách văn bản theo độ quan trọng của văn bản tuỳ theo các câu hỏi đưa vào, ví dụ điển hình là các máy tìm tin như Google, Altavista,… b. Quá trình Quá trình tìm tin được chia thành bốn quá trình chính : Đánh chỉ số (indexing): Các văn bản ở dạng thô cần được chuyển sang một dạng biểu diễn nào đó để xử lý. Quá trình này còn được gọi là quá trình biểu diễn văn bản, dạng biểu diễn phải có cấu trúc và dẽ dàng khi xử lý. Định dạng câu hỏi: Người dùng phải mô tả những yêu cầu về lấy thông tin cần thiết dưới dạng câu hỏi. Các câu hỏi này phải được biểu diễn dưới dạng phổ biến cho các hệ tìm kiếm như nhập vào các từ khóa cần tìm. Ngoài ra còn có các phương pháp định dạng câu hỏi dưới dạng ngôn ngữ tự nhiên hoặc dưới dạng các ví dụ, đối với các dạngnày thì cần có các kỹ thuật xử lý phức tạp hơn. Trong các hệ tìm tin hiện nay thì đại đa số là dùng câu hỏi dưới dạng các từ khóa. So sánh: Hệ thống phải có sự so sánh rõ ràng và hoàn toàn câu hỏi các câu hỏi của người dùng với các văn bản đượcl ưu trữ trong CSDL. Cuối cùng hệ đưa ra một quyết định phân loại các văn bản có độ liên quan gầnvới câu hỏi đưa vào và thứ tự của nó. Hệ sẽ hiển thị toàn bộ văn bản hoặc chỉ một phần văn bản. Phản hồi: Nhiều khi kết quả được trả về ban đầu không thỏa mãn yêu cầu của người dùng, do đó cần phải có qua trình phản hồi để người dùng có thểt hay đổi lại hoặc nhập mới các yêu cầu của mình. Mặt khác, người dùng có thể tương tác với các hệ về các văn bản thỏa mãn yêu cầu của mình và hệ có chức năng cập nhậu các văn bản đó. Quá trình này được gọi là quá trình phản hồi liên quan (Relevance feeback). Các công cụ tìm kiếm hiện nay chủ yếu tập trung nhiều vào ba quá trình đầu, còn phần lớn chưa có quá trình phản hồi hay xử lý tương tác người dùng và máy. Quá trình phản hồi hiện nay đang được nghiên cứu rộng rãi và riêng trong quá trình tương tác giao diện người máy đã xuất hiện hướng nghiên cứu là interface agent. 2. Phân lớp văn bản(Text Categoization) a. Nội dung Phân lớp văn bản được xem như là quá trình gán các văn bản vào một hay nhiều văn bản đã xác định từ trước. Người ta có thể phân lớp các văn bản mộtc ách thủ công, tức là đọc từng văn bản một và gán nó vào một lớp nào đó. Cách này sẽ tốn rất nhiều thời gian và công sức đối với nhiều văn bản và do đó không khả thi. Do vậy mà
  10. phải có các phương pháp phân lớp tự động. Để phân lớp tự động người ta sử dụng các phương pháp học máy trong trí tuệ nhân tạo (Cây quyết định, Bayes, k người láng giềng gần nhất) Một trong những ứng dụng quan trọng nhất của phân lớp văn bản là trong tìm kiếm văn bản. Từ một tập dữ liệu đã phân lớp các văn bản sẽ được đánh chỉ số đô ívới từng lớp tương ứng. Người dùng có thể xác định chủ đề hoặc phân lớp văn bản mà mình mong muốn tìm kiếm thông qua các câu hỏi. Một ứng dụng khác của phân lớp văn bản là trong lĩnh vực tìm hiểu văn bản. Phân lớp văn bản có thể được sử dụng để lọc các văn bản hoặc một phần các văn bản chứa dữ liệu cần tìm mà không làm mất đi tính phức tạp của ngôn ngữ tự nhiên. Trong phân lớp văn bản, một lớp có thể được gán giá trị đúng sai (True hay False hoặc văn bản thuộc hay không thuộc lớp) hoặc được tính theo mức độ phụ thuộc (văn bản có môt mức độ phụ thuộc vào lớp). Trong trương hợp có nhiều lớp thì phân loại đúng sai sẽ là việc xem một văn bản có thuộc vào một lớp duy nhất nào đó hay không.. b. Quá trình Quá trình phân lớp văn bản. tuân theo các bước sau: Đánh chỉ số (Indexing): Quá trình đánh chỉ số văn bản cũng giống như trong quá trình đánh chỉ số của tìm kiếm văn bản. Trong phần này thì tốc độ đánh chỉ số đóng vai trò quan trọng vì một số các văn bản mới có thể cần đươc xử lý trong thời gían thực Xác định độ phân lớp: Cũng giống như trong tìm kiếm văn bản, phân lớp văn bản yêu cầu quá trình diễn tả việc xác định văn bản đó thuộc lớp nào đó như thế nào, dựa trên cấu trúc biểu diễn của nó. Đối với hệ phân lớp văn bản, chúng ta gọi quá trình này là bộ phân lớp (Categorization hoặc classifier). Nó đóng vai trò như những câu hỏi trong hệ tìm kiếm. Nhưng trong khi những câu hỏi mang tính nhất thời, thì bộ phân loại được sử dụng một cách ổn định và lâu dài cho quá trình phân loại. So sánh: Trong hầu hết các bộ phân loại, mỗi văn bản đều được yêu cầu gán đúng sai vào một lớp nào đó. Sự khác nhau lớn nhất đối với quá trình so sánh trong hệ tìm kiếm văn bản là mỗi văn bản chỉ được so sánh với một số lượng các lớp một lần và việcc họn quyết đnịh phù hợp còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các lớp văn bản.
  11. Phản hồi (Hay thích nghi): Quá trình phản hồi đóng vai trò trong hệ phân lớp văn bản. Thứ nhất là khi phân loại thì phải có môt số lượng lớn các văn bản đã được xếp loại bằng tay trước đó, các văn bản này được sử dụng làm mẫu huấn luyện để hỗ trợ xây dựng bộ phân loại. Thứ hai là đối với việc phân loại văn bản này không dễ dàng thay đổi các yêu cầu như trong quá trình phản hồi của tìm kiếm văn bản , người dùng có thể thông tin cho người bảo trì hệ thống về việc xóa bỏ, thêm vào hoặc thay đổi các phân lớp văn bản nào đó mà mình yêu cầu. 3. Một số bài toán khác Ngoài hai bài toán kể trên, còn có các bài toán sau: Tóm tắt văn bản Phân cụm văn bản Phân cụm các từ mục Phân lớp các từ mục Đánh chỉ mục các từ tiềm năng Dẫn đường văn bản Trong các bài toán xử lý vănbản đã nêu ở trên, chúng tra thấy vai trò của biểu diễn văn bản rất lớn, đặc biệt trong các bàit oán tìm kiếm, phân lớp, phân cụm, dẫn đường 1.3.2. Khai phá dữ liệu Web a. Nhu cầu Sự phát triển nhanh chóng của mạng Internet và Intranet đã sinh ra một khối lượng khổng lồ các dữ liệu dạng siêu văn bản(dữ liệu Web). Cùng với sự thay đổi và phát triển hàng ngaỳ hàng giờ về nội dung cũng như số lượng của các trang Web trên Internet thì vấn đề tìm kiếm thôn g tin đối với người sử dụng lại ngày càng khó khăn. Có thể nói nhu cầu tìm kiếm thông tin trên môt CSDL phi cấu trúc đã được phát triển chủ yếu cùng với sự phát triển của Internet. Thực vậy với Internet con người đã làm quen với các trang Web cùng với vô vàn các thông tin. Trong những năm gần đây Intrnet đã trở thành một trong những kênh về khoa học, thông tin kinh tế, thương mại và quảng cáo. Một trong những lý do cho sự phát triển này là sự thấp về giá cả tiêu tốn khi công khai một trang Web trên Internet. So sánh với những dịch vụ khác như mua bản hay quảng cáo trên một tờ báo hay tạp chí, thì một trang Web "đòi" rẻ hơn rất
  12. nhiều và cập nhật nhanh chóng hơn tới hàng triệu người dùng khắp mọi nơi trên thế giới. Có thể nói trang Web như là cuốn từ điển Bách khoa toàn thư. Thông tin trên các trang Web đa dạng về mặt nội dung cũng như hình thức. Có thể nói Internet như một xã hội ảo, nó bao gồm các thông tin về mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội được trình bày dưới dạng văn bản, hình ảnh, âm thanh,... Tuy nhiên cùng với sự đa dạng và số lượng lớn thông tin như vậy đã nảy sinh vấn đề quá tải thông tin. Người ta không thể tìm tự kiếm địa chỉ trang Web chứa thông tin mà mình cần, do vậy đòi hỏi cần phải có một trình tiện ích quản lý nội dung của các trang Web và cho phép tìm thấy các địa chỉ trang Web có nội dung giống với yêu cầu của người tìm kiếm. Các tiện ích này quản lý dữ liệu như các đối tượng phi cấu trúc. Hiện nay chúng ta đã làm quen với một số các tiện ích như vậy đó là: Yahoo, goolel, Alvista,... Mặt khác, giả sử chúng ta có các trang Web về các vấn đề Tin học, Thể thao, Kinh tể-Xã hội và xây dựng...Căn cứ vào nội dung của các tài liệu mà khách hàng xem hoặc download về, sau khi phân lớp chúng ta sẽ biết khách hàng hay tập trung vào nội dung gì trên trang Web của chúng ta, từ đó chúng ta sẽ bổ sung thêm nhiều các tài liệu về các nội dung mà khách hàng quan tâm và ngược lại. Còn về phía khách hàng sau khi phân tích chúng ta cũng biết được khách hàng hay tập trung về vấn đề gì, để từ đó có thể đưa ra những hỗ trợ thêm cho khách hàng đó. Từ những nhu cầu thực tế trên, phân lớp và tìm kiếm trang Web vẫn là bài toán hay và cần phát triển nghiên cứu hiện nay. b. Khó khăn Hệ thống phục vụ World Wide Web như là một hệ thống trung tâm rất lớn phân bố rộng cung cấp thông tin trên mọi lĩnh vực khoa học, xã hội, thương mại, văn hóa,... Web là một nguồn tài nguyên giàu có cho Khai phá dữ liệu. Những quan sát sau đây cho thấy Web đã đưa ra sự thách thức lớn cho công nghệ Khai phá dữ liệu 1. Web dường như quá lớn để tổ chức thành một kho dữ liệu phục vụ Dataming Các CSDL truyền thống thì có kích thước không lớn lắm và thường được lưu trữ ở một nơi, , Trong khi đó kích thước Web rất lớn, tới hàng terabytes và thay đổi liên tục, không những thế còn phân tán trên rất nhiều máy tính khắp nơi trên thế giới. Một vài nghiên cứu về kích thước của Web đã đưa ra các số liệu như sau: Hiện nay trên Internet có khoảng hơn một tỷ các trang Web được cung cấp cho người sử dụng.,
  13. giả sử kích thước trung bình của mỗi trang là 5-10Kb thì tổng kích thước của nó ít nhất là khoảng 10 terabyte. Còn tỷ lệt ăng của các trang Web thì thật sự gây ấn tượng. Hai năm gần đây số các trang Web tăng gấp đôi và còng tiếp tục tăng trong hai năm tới. Nhiều tổ chức và xã hội đặt hầu hết những thông tin công cộng của họ lên Web. Như vậy việc xây dựng một kho dữ liệu (datawarehouse) để lưu trữ, sao chép hay tích hợp các dữ liệu trên Web là gần như không thể 2. Độ phức tạp của trang Web lớn hơn rất nhiều so với những tài liệu văn bản truyền thống khác Các dữ liệu trong các CSDL truyền thống thì thường là loại dữ liệu đồng nhất (về ngôn ngữ, định dạng,…), còn dữ liệu Web thì hoàn toàn không đồng nhất. Ví dụ về ngôn ngữ dữ liệu Web bao gồm rất nhiều loại ngôn ngữ khác nhau (Cả ngôn ngữ diễn tả nội dung lẫn ngôn ngữ lập trình), nhiều loại định dạng khác nhau (Text, HTML, PDF, hình ảnh âm thanh,…), nhiều loại từ vựng khác nhau (Địa chỉ Email, các liên kết (links), các mã nén (zipcode), số điện thoại) Nói cách khác, trang Web thiếu một cấu trúc thống nhất. Chúng được coi như một thư viện kỹ thuật số rộng lớn, tuy nhiên con số khổng lồ các tài liệu trong thư viện thì không được sắp xếp tuân theo một tiêu chuẩn đặc biệt nào, không theo phạm trù, tiêu đề, tác giả, số trang hay nội dung,... Điều này là một thử thách rất lớn cho việc tìm kiếm thông tin cần thiết trong một thư viện như thế. 3. Web là một nguồn tài nguyên thông tin có độ thay đổi cao Web không chỉ có thay đổi về độ lớn mà thông tin trong chính các trang Web cũng được cập nhật liên tục. Theo kết quả nghiên cứu , hơn 500.000 trang Web trong hơn 4 tháng thì 23% các trang thay đổi hàng ngày, và khoảng hơn 10 ngày thì 50% các trang trong tên miền đó biến mất, nghĩa là địa chỉ URL của nó không còn tồn tại nữa. Tin tức, thị trường chứng khoán, các công ty quản cáo và trung tâm phục vụ Web thường xuyên cập nhật trang Web của họ.s Thêm vào đó sự kết nối thông tin và sự truy cập bản ghi cũng được cập nhật 4. Web phục vụ một cộng đồng người dùng rộng lớn và đa dạng Internet hiện nay nối với khoảng 50 trạm làm việc, và cộng đồng người dùng vẫn đang nhanh chóng lan rộng. Mỗi người dùng có một kiến thức, mối quan tâm, sở thích khác nhau. Nhưng hầu hết người dùng không có kiến thức tốt về cấu trúc mạng thông tin, hoặc không có ý thức cho những tìm kiếm, rất dễ bị "lạc" khi đang "mò
  14. mẫm"trong "bóng tối" của mạng hoặc sẽ chán khi tìm kiếm mà chỉ nhận những mảng thông tin không mấy hữu ích 5. Chỉ một phần rất nhỏ của thông tin trên Web là thực sự hữu ích Theo thống kê, 99% của thông tin Web là vô ích với 99% người dùng Web. Trong khi những phần Web không được quan tâm lại bị búi vào kết quả nhận được trong khi tìm kiếm. Vậy thì ta cần phải khai phá Web như thế nào để nhận được trang web chất lượng cao nhất theo tiêu chuẩn của người dùng? Như vậy chúng ta có thể thấy các điểm khác nhau giữa việc tìm kiếm trong một CSDL truyền thống với vviệc tìm kiếm trên Internet. Những thách thức trên đã đẩy mạnh việc nghiên cứu khai phá và sử dụng tài nguyên trên Internet c. Thuận lợi Bên cạnh những thử thách trên, còn một số lợi thế của trang Web cung cấp cho công việc khai phá Web. 1. Web bao gồm không chỉ có các trang mà còn có cả các hyperlink trỏ từ trang này tới trang khác. Khi một tác giả tạo một hyperlink từ trang của ông ta tới một trang A có nghĩa là A là trang có hữu ích với vấn đề đang bàn luận. Nếu trang A càng nhiều Hyperlink từ trang khác trỏ đến chứng tỏ trang A quan trọng. Vì vậy số lượng lớn các thông tin liên kết trang sẽ cung cấp một lượng thông tin giàu có về mối liên quan, chất lượng, và cấu trúc của nội dung trang Web, và vì thế là một nguồn tài nguyên lớn cho khai phá Web 2. Một máy chủ Web thường đăng ký một bản ghi đầu vào (Weblog entry) cho mọi lần truy cập trang Web. Nó bao gồm địa chỉ URL, địa chỉ IP, timestamp. Dữ liệu Weblog cung cấp lượng thông tin giàu có về những trang Web động. Với những thông tin về địa chỉ URL, địa chỉ IP,… một cách hiển thị đa chiều có thể được cấu trúc nên dựa trên CSDL Weblog. Thực hiện phân tích OLAP đa chiều có thể đưa ra N người dùng cao nhất, N trang Web truy cập nhiều nhất, và khoảng thời gian nhiều người truy cập nhất, xu hướng truy cập Web d. Các nội dung trong Webmining Như đã phân tích về đặc điểm và nội dung các văn bản HyperText ở trên, từ đó khai phá dữ liệu Web cũng sẽ tập trung vào các thành phần có trong trang Web. Đó chính là: 1. Khai phá nội dung trang Web (Web Content mining)
  15. Khai phá nội dung trang Web gồm hai phần: a. Web Page Content Nghĩa là sẽ sử dụng chỉ các từ trong văn bản mà không tính đến các liên kết giữa các văn bản. Đây chính là khai phá dữ liệu Text (Textmining) b.Search Result Tìm kiếm theo kết quả. Trong các máy tìm kiếm, sau khi đã tìm ra những trang Web thoả mãn yêu cầu người dùng, còn một công việc không kém phần quan trọng, đó là phải sắp xếp kết quả theo thứ tự dộ gần nhau với nội dung cần tìm kiếm. Đây cũng chính là khai phá nội dung trang Web. 2. Web Structure Mining Khai phá dựa trên các siêu liên kết giữa các văn bản có liên quan. 3. Web Usage Mining a. General Access Partern Tracking: Phân tích các Web log để khám phá ra các mẫu truy cập của người dùng trong trang Web. b. Customize Usage Tracking: Phân tích các mẫu truy cập của người dùng tại mỗi thời điểm để biết xu hướng truy cập trang Web của từng đối tượng người dùng tại mỗi thời điểm khác nhau Web Mining Web Web Web Content Structure Usage Web Page Search General Access Customized Content Result Pattern Usage Các nội dung trong khai phá Web
  16. Chương 2. MÁY TÌM KIẾM 2.1. NHU CẦU Như đã đề cập ở phần trên. Internet như một xã hội ảo, nó bao gồm các thông tin về mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội được trình bày dưới dạng văn bản, hình ảnh, âm thanh,... Thông tin trên các trang Web đa dạng về mặt nội dung cũng như hình thức Tuy nhiên cùng với sự đa dạng và số lượng lớn thông tin như vậy đã nảy sinh vấn đề quá tải thông tin. Đối với mỗi người dùng chỉ một phần rất nhỏ thông tin là có ích, chẳng hạn có người chỉ quan tâm đến trang Thể thao, Văn hóa mà không mấy khi quan tâm đến Kinh tế. Người ta không thể tìm tự kiếm địa chỉ trang Web chứa thông tin mà mình cần, do vậy đòi hỏi cần phải có một trình tiện ích quản lý nội dung của các trang Web và cho phép tìm thấy các địa chỉ trang Web có nội dung giống với yêu cầu của người tìm kiếm. Hiện nay chúng ta đã làm quen với một số các tiện ích như vậy đó là: Yahoo, Google, Alvista,... M¸y t×m kiÕm lµ c¸c hÖ thèng ®−îc x©y dùng cã kh¶ n¨ng tiÕp nhËn c¸c yªu cÇu t×m kiÕm cña ng−êi dïng (th−êng lµ mét tËp c¸c tõ kho¸), sau ®ã ph©n tÝch vµ t×m kiÕm trong c¬ së d÷ liÖu ®· cã s½n vµ ®−a ra c¸c kÕt qu¶ lµ c¸c trang web cho ng−êi sö dông. Cụ thể, người dùng gửi một truy vấn, dạng đơn giản nhất là một danh sách các từ khóa, và máy tìm kiếm sẽ làm việc để trả lại một danh sách các trang Web có liên quan hoặc có chứa các từ khóa đó. Phức tạp hơn, thì truy vấn là cả một văn bản hoặc một đoạn văn bản hoặc nội dung tóm tắt của văn bản. 2.2. CẤU TRÚC VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG 2.2.1. Tổng quan về các hệ tìm kiếm hiện nay Bằng một ví dụ cụ thể, ta xem xét hệ tìm kiếm Google Trong phần này ta đưa ra cái nhìn tổng quan về cách làm việc của một hệ tìm kiếm Google. Phần sau sẽ thảo luận về ứng dụng chính (Crawling, indexing, searching) và cấu trúc dữ liệu mà phần này chưa kịp đề cập. Phần lớn Google được thiết kế bằng C, C++ và chạy tốt trên Solaris hay Linux. Trong Google, Web crawling(download các trang Web) được thực hiện bởi một vài Webcrawler phân tán. Có một máy chủ URL gửi danh sách các URL mà đã được đính kèm tới crawler. Những trang Web được đính kèm đó đựơc gửi tới máy chủ lưu trữ. Máy chủ lưu trữ sẽ nén và lưu trữ các trang vào Repository (Nơi lưu trữ). Mọi trang Web đều có một chỉ số ID kèm theo gọi là DocID. Chức năng
  17. Index được được thực hiện bởi Indexer và Sorter. Indexer thực hiện các chức năng sau: Đọc từ Repository , giải nén tài liệu và phân tích chúng. Mỗi tài liệu được được chuyển thành một tập hợp các từ xuất hiện gọi là Hits. Hits ghi các từ, vị trí các từ, xấp xỉ của phông chữ, sự viết hoa thường. Indexer phân bố những Hits thành các bộ gọi là "Barrels". Indexer thực hiện một chức năng quan trọng khác, đó là nó phân tích tất cả những hyperlink trên tất cả các trang và lưu trữ những thông tin quan trọng về chúng vào một file nguồn. File H×nh 2.3_M« h×nh kiÕn tróc cña m¸y t×m kiÕm Google này chứa một lượng đủ lớn các thông tin để xác định mỗi liên kết trỏ từ và trỏ tới trang nào, cùng nội dung của liên kết. Như vậy, Crawler có nhiệm vụ down các trang web về lưu trữ vào respository Indexer đọc từ respository giải nén các tài liệu và phân tích, mã hóa thành Hits, sắp xếp thành "Barrels". Phân tích tất cả các hyperlink lưu trữ vào một file 2.2.2. Cấu trúc của các hệ tìm kiếm Các máy tìm kiếm hiện nay thường được tổ chức thành ba Modul sau: Modul đánh chỉ mục (indexing): Dò tìm các trang Web trên Internet, phân tích chúng rồi lưu vào CSDL. Modul tìm kiếm (searching): Truy xuất các CSDL để trả về danh sách các tài liệu thỏa mãn một yêu cầu người dùng (dưới dạng truy vấn là một tập các từ khóa). Modul giao diện người máy: Lấy kểt quả từ modul tìm kiếm. Sau đây ta đi sâu vào chi tiết của từng modul và nhiệm vụ của chúng
  18. a. Modul đánh chỉ mục (Indexing) Modul đánh chỉ mục thực hiện các nhiệm vụ sau 1. Phân tích cú pháp văn bản và đánh chỉ mục toàn bộ các từ khoá trong văn bản (số lần xuất hiện, vị trí xuất hiện) 2. Lập đồ thị liên kết giữa các siêu văn bản (liên kết xuôi và liên kết ngược). 3. Tính toán độ quan trọng – PageRank của tất cả các văn bản dựa vào cấu trúc liên kết siêu văn bản (GoogleTM). Sau đây, ta xem xét chi tiết từng nhiệm vụ a.1. Bộ dò trên Web theo các hyperlink (Web Crawler) Crawler (s): Hầu hết các máy tìm kiếm hoạt động dựa trên các chương trình có tên là Crawler, chương trình này cung cấp dữ liệu (là các trang Web) cho máy tìm kiếm hoạt động. Crawler là các chương trình nhỏ của các máy tìm kiếm làm công việc duyệt Web. Công việc của nó cũng tương tự như công việc của con người truy cập Web dựa vàomối liên kết để đi đến các trang Web khác nhau. Các Crawler được cung cấp các địa chỉ URL ban đầu và sẽ phân tích các liên kết có trong các trang đó và đưa các thông tin về cho bộ phận điều khiển crawler (Crawler control). Bộ phận điều khiển này sẽ quyết định xem liên kết nào sẽ được đi thăm tiếp theo và gửi lại kết quả đó cho Crawler (trong một vài máy tìm kiếm chức năng này của bộ phận điều khiển crawler có thể được crawler thực hiện luôn). Các Crawler cũng chuyển luôn các trang đã tìm thấy đó vào kho chứa các trang (Page Repository), tiếp tục đi thăm các trang Web khác trên Internet cho đến khi các nguồn chứa cạn kiệt. Vậy modul Crawler truy lục các trang lấy từ Mạng, download xuống sau đó các trang đựợc đánh chỉ mục bởi Môdul đánh chỉ mục, sau đó đẩy vào CSDL. Quá trình này cứ lặp đi lặp lại cho đến khi Crawler có quyết định dừng. Để bộ điều khiển quyết định được trang Web nào được đi thăm tiếp theo Một máy tìm kiếm tiêu chuẩn cần xem xét hai vấn đề chính trong modul crawler: - Số các trang Web là rất lớn, nên Crawler không thể down toàn bộ các trang mà chỉ chọn những trang "quan trọng". Vậy những trang như thế nào được coi là quan trọng và độ quan trọng được tính toán như thế nào?
  19. - Bởi vì nội dung các trang Web liên tục thay đổi nên sau khi download, crawler phải thường xuyên thăm lại các trang đã được down để cập nhật sự thay đổi đó. Hơn nữa mức độ thay đổi của các trang là khác nhau nên crawler phải cẩn thận xem xét trang nào cần xem lại, trang nào bỏ qua. Vấn đề 1: Độ quan trọng Cho một trang Web P, chúng ta có các cách tính độ quan trọng sau: 1. Có một truy vấn Q. Độ quan trọng của P được định nghĩa là "sự giống nhau về từ ngữ" giữa P và Q 2. Biểu diễn Q và P bởi hai vector n chiều v=(w1, w2,..., wn) với wi là biểu thị cho từ thứ i trong bộ từ vựng , cụ thể wi=số lần xuất hiện của từ thứ i. Độ chêch lệch giữa P và Q là giá trị cos của hai vector biểu diễn Gọi độ quan trọng nhận được từ phương pháp tính này là IS(P) 2. Trang nào được nhiều trang khác link đến sẽ quang trọng hơn, nên một cách để tính độ quan trọng của trang P là tính số link đến P Gọi độ quan trọng nhận được từ phương pháp tính này là IB(P) 3. Tính độ quan trọng bởi chính địa chỉ URL của nó. Nếu địa chỉ trang Web nào tận cùng bằng".com" hay có chứa từ "home" sẽ quan trọng hơn Gọi độ quan trọng nhận được từ phương pháp tính này là IL(P) 4. Một phương pháp nữa để tính độ quan trọng là đếm số lần người dùng truy cập vào trang trong một khoảng thời gian nào đó Vậy cuối cùng độ quan trọng của trang P sẽ là sự kết hợp của các độ quan trọng tính theo các cách trên, theo một tỷ lệ nào đó: IC(P)=k1. IS (P)+k2.IB(P)+ k3.IL(P)+k4.IU(P) (với k1,k2,k3,k4 và truy vấn Q là cho trước) Vấn đề 2: Sự cập nhật các trang đã download Có hai chiến lược cho sự cập nhật các trang đã download: 1. Cập nhật theo định kỳ tất cả các trang: crawler sẽ thăm lại tất cả các trang với cùng một tần số f, không tính đến mức độ thường xuyên thay đổi của chúng.Nghĩa là các trang được “đối xử” công bằng bất kể chúng thay đổi ra sao.
  20. Cập nhật thường xuyên theo nghĩa là khi down được 10.000 trang chẳng hạn thì sẽ tính lại PageRank, index của word trong URL 2. Cập nhật theo một tỷ lệ: Trang nào càng nhiều thay đổi thì tần suất cập nhật càng lớn. VD: các trang e1, e2,...,en, thay đổi theo thứ tự k1,k2,...,kn lần a.2. Indexing (Quá trình đánh chỉ mục) Indexer Module sẽ tìm hiểu tất cả các từ trong từng trang Web được lưu trữ trong kho chứa các trang, và ghi lại các địa chỉ URL của các trang có chứa mỗi từ. Kết quả sinh ra một bảng chỉ mục rất lớn, và nhờ có bảng chỉ mục này nó có thể cung cấp tất cả các địa chỉ URL của các trang khi có yêu cầu. Hai modul đánh chỉ số (indexer) và collection analysis trên hình 1 làm nhiệm vụ xây dựng các chỉ số khác nhau cho các trang web đã down về. Modul Indexer xây dựng hai loại chỉ số cơ bản: Text(content)Index và H×nh1.2_§å thÞ minh ho¹ c¸c nút ( tài liÖu Hypertext) structor(link) index. và các cạnh nối (link) trong mét tËp tµi liÖu Hypertext Sử dụng 2 loại chỉ số trên và các trang web trong nơi lưu trữ các trang (repository), modul collection analysis đã xây dựng thêm nhiều chỉ sơ hữu ĩch khác. Dưới đây chúng ta mô tả ngắn gọn một vài loại chỉ số, tập trung vào cấu trúc và cách sử dụng của chúng. Link index Để xây dựng chỉ số liên kết (link indext), một phần của bộ dò (Crawler) được mã hóa dưới dạng một sơ đồ với các nút và các cạnh nối, trong đó các nút là các trang Web, các cạnh nối giữa các nút là các liên kết giữa các trang. Chỉ số index sẽ được xây dựng lần theo các nút và các cạnh của sơ đồ. (vẽ hình)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2