intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khảo sát về triết lí giáo dục của người Việt Nam

Chia sẻ: Vương Tâm Lăng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

46
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này trình bày việc khảo sát để xác định quan niệm phổ biến về TLGD của người Việt Nam và thực trạng ảnh hưởng của nó là cần thiết và hoàn toàn khả thi. Chỉ có điều, do tính trừu tượng của khái niệm nên nếu hỏi trực tiếp một phụ huynh hoặc một học sinh rằng “Xin bạn cho biết TLGD của bạn/ gia đình bạn,... là gì?” thì sẽ khó thu được kết quả. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khảo sát về triết lí giáo dục của người Việt Nam

  1. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 1-7 ISSN: 2354-0753 KHẢO SÁT VỀ TRIẾT LÍ GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI VIỆT NAM Trần Ngọc Thêm1,+, 1 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Nguyễn Thị Thúy Vy2, Thành phố Hồ Chí Minh; 2Trường Đại học Thủ Dầu Một, Bình Dương Nguyễn Minh Đăng2 + Tác giả liên hệ ● Email: ngocthem@hcmussh.edu.vn Article History ABSTRACT Received: 05/8/2020 In the context of educational philosophy becoming a hot topic of Accepted: 05/9/2020 discussion, survey and quantitative research are necessary. The survey Published: 20/11/2020 is based on a sample of 3070 responses with 33 questions investigating concept and context of educational philosophy according to the mission Keywords and goals; qualities and competences; the current and historical situation Educational philosophy, of educational philosophy of Vietnam. The results showed Vietnamese’s quantitative survey, perception of the educational philosophy according to each element, also mission and goals, qualities as the current context educational philosophy of Vietnam. The results and competences. also contributed as an important basis to create new educational philosophy. 1. Mở đầu Cho đến nay chưa có một cuộc khảo sát định lượng nào về triết lí giáo dục (TLGD) được tiến hành. Trong bối cảnh khi TLGD trong suốt một thời gian dài trở thành đề tài tranh luận rất sôi nổi, từ giới học thuật (hẹp) ra đến công luận xã hội (rộng) lên đến diễn đàn Quốc hội (cao) với nhiều ý kiến trái chiều, thì việc khảo sát, điều tra định lượng đã trở nên rất cần thiết. Song cái khó nằm ở chỗ triết lí là vấn đề mang tính lí luận cao, có vẻ như rất khó thực hiện khảo sát, điều tra định lượng. Thực ra, sự đa dạng ý kiến cũng chính là phản ánh sự đa dạng về quan niệm TLGD: mỗi người đi học, mỗi phụ huynh cho con đi học, mỗi người đi dạy, mỗi người tham gia quản lí giáo dục,... đều có thể có quan niệm riêng của mình về giáo dục và TLGD cùng các khía cạnh của nó. Mà đã có TLGD riêng của mỗi người thì phần chung trong quan niệm của những người có cùng đặc điểm, nguyện vọng, nhu cầu,… ấy sẽ tạo nên TLGD của nhóm; phần chung trong quan niệm của các nhóm trong một giai đoạn lịch sử sẽ tạo nên TLGD của dân tộc trong giai đoạn lịch sử ấy. Như vậy, việc khảo sát để xác định quan niệm phổ biến về TLGD của người Việt Nam và thực trạng ảnh hưởng của nó là cần thiết và hoàn toàn khả thi. Chỉ có điều, do tính trừu tượng của khái niệm nên nếu hỏi trực tiếp một phụ huynh hoặc một học sinh rằng “Xin bạn cho biết TLGD của bạn/ gia đình bạn,... là gì?” thì sẽ khó thu được kết quả; thay vào đó, cần tìm hiểu về TLGD một cách gián tiếp thông qua một bộ công cụ nhận diện TLGD bằng những dấu hiệu mà người bình thường ai cũng có thể hiểu được. Bộ công cụ nhận diện TLGD có thể thiết kế trên cơ sở quan niệm do chúng tôi đề xuất về cách hiểu khái niệm TLGD cùng cấu trúc bên ngoài và bên trong của nó (Trần Ngọc Thêm, 2020a; 2020b). Theo đó, cấu trúc bên trong của TLGD là hệ thống tư tưởng gồm 3 tầng (Cấu trúc tối thiểu, Cấu trúc cơ bản, Cấu trúc mở rộng) với 6 thành tố: Sứ mệnh giáo dục, Mục tiêu giáo dục, Nguyên lí giáo dục, Giá trị cốt lõi của Văn hóa giáo dục, Yêu cầu về Nội dung và Yêu cầu về Phương pháp giáo dục. Trong đó sứ mệnh giáo dục và mục tiêu giáo dục là 2 thành tố cốt lõi thể hiện quan niệm về xã hội và con người cần xây dựng. Đến lượt mình, các thành tố này có thể nhận biết thông qua những dấu hiệu bình thường nhất. Việc thiết kế bộ câu hỏi khảo sát TLGD cần đáp ứng 3 yêu cầu: (1) Do có sự khác biệt rất lớn giữa TLGD kì vọng (trong nhận thức) và TLGD trên thực tế nên bộ câu hỏi không chỉ nhằm tìm hiểu quan niệm về TLGD mà cần tìm hiểu cả hiệu quả thực tế của mỗi thành tố của TLGD để đối chiếu; (2) Do có sự giới hạn về độ dài của bảng hỏi và thời gian của người tham gia khảo sát nên bộ câu hỏi cần tập trung vào khảo sát một số trọng tâm, chứ không dàn trải; (3) Để có cơ sở xây dựng TLGD Việt Nam mới, bộ câu hỏi còn cần khảo sát sự đánh giá của xã hội về những ưu điểm và hạn chế của nền giáo dục Việt Nam hiện tại và về sự vận động của TLGD Việt Nam trong lịch sử. Với những yêu cầu vừa nêu, bộ câu hỏi khảo sát TLGD của chúng tôi bao gồm 33 câu hỏi chia làm 10 nhóm tập hợp theo 3 cụm: Cụm I khảo sát quan niệm và thực trạng của TLGD theo sứ mệnh và mục tiêu (gồm 8 câu hỏi); cụm II khảo sát quan niệm và thực trạng của TLGD theo phẩm chất, năng lực, tri thức, phương pháp và hiệu quả tổng thể 1
  2. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 1-7 ISSN: 2354-0753 (gồm 15 câu hỏi); cụm III khảo sát thực trạng của giáo dục Việt Nam hiện nay và thử tìm hiểu đánh giá của xã hội về sự vận động của TLGD Việt Nam trong lịch sử (gồm 10 câu hỏi). Tham gia khảo sát có 3.070 người. Về thành phần xét theo đối tượng và độ tuổi được phân bố theo nguyên tắc phân đôi: Khoảng một nửa mẫu chọn dành cho người học và nửa còn lại dành cho nhà trường và gia đình. Trong nhóm thứ hai lại tiếp tục phân đôi: một nửa dành cho nhà trường (nhà giáo, nhà quản lí giáo dục), nửa còn lại dành cho gia đình (phụ huynh). Kết quả có 49,7% là học sinh - sinh viên (HSSV) dưới 25 tuổi; 25,2% là nhà giáo, nhà quản lí giáo dục từ 25 đến trên 50 tuổi; 21,8% là phụ huynh từ 25 đến dưới 50 tuổi. Tổng cộng theo đối tượng có: 51,3% là HSSV; 25,8% là nhà giáo, nhà quản lí giáo dục; 22,9% là phụ huynh (xem bảng 1). Bảng 1. Phân bố tỉ lệ người tham gia khảo sát theo đối tượng và độ tuổi Đối tượng Nhà giáo, nhà Phụ Tổng HSSV Độ tuổi quản lí giáo dục huynh (N = 3070) Dưới 25 tuổi 49,7 0,6 0,1 50,4% Từ 25 
  3. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 1-7 ISSN: 2354-0753 Mục tiêu giáo dục thường hướng đến cái đích cụ thể hơn của giáo dục là phục vụ việc đào tạo con người, chỉ ra “Mẫu con người” (chuẩn đầu ra) với những phẩm chất và năng lực tương ứng phù hợp với những nhu cầu của xã hội cần xây dựng. Mục tiêu giáo dục (mẫu người cần đào tạo) là sự cụ thể hóa, chi tiết hóa cho sứ mệnh giáo dục, tức là mẫu xã hội cần xây dựng (Trần Ngọc Thêm, 2020b, tr 5). Trên cơ sở quan niệm này, TLGD theo mục tiêu được khảo sát qua 6 câu hỏi. Cùng một nội dung “Những điều gì là quan trọng nhất” (trong nhận thức) trong thời gian học ở trường và sau khi ra trường được khảo sát từ góc nhìn của phụ huynh (các câu hỏi 4, 6) và người học (câu hỏi 5) với kết quả trình bày trong bảng 3. Bảng 3. Những điều quan trọng nhất (%; N = 3070) Góc nhìn Góc nhìn Những điều quan trọng nhất của phụ huynh (câu 4, 6) của người học (câu 5) TRONG TRƯỜNG Phương pháp, kĩ năng tốt 78,4; 79,6 87,5 Kiến thức phong phú 73,6 81,4 Bằng cấp có giá trị 62,7 58,0 Thành tích học tập (điểm số) cao 57,6 48,2 RA TRƯỜNG Hiệu quả làm việc cao 76,6 83,0 Thu nhập cao 71,9 71,1 Ngành nghề phù hợp, giá trị 68,4 66,5 Địa vị xã hội cao 57,9 50,2 So sánh cho thấy trong thời gian học ở trường thì phụ huynh quan tâm nhiều đến bằng cấp và điểm số hơn bản thân người học (62,7% và 57,6% so với 58,0% và 48,2%); trong khi người học (con cái) thì quan tâm đến phương pháp, kĩ năng và kiến thức mình thu nhận được nhiều hơn cha mẹ (87,5% và 81,4% so với 78,4-79,6% và 73,6%). Sau khi ra trường thì người tốt nghiệp quan tâm đến hiệu quả làm việc hơn cha mẹ (83,0% so với 76,6%); cha mẹ quan tâm đến địa vị xã hội hơn người tốt nghiệp (57,9% so với 50,2%); còn về thu nhập và ngành nghề thì mối quan tâm của phụ huynh và người học là ngang nhau. Những sự khác biệt và tương đồng này là phù hợp với thực tế và dễ hiểu. Kết quả của câu hỏi số 7 (Với tư cách là người đang đi học hoặc đã từng đi học, Bạn thấy cha mẹ thường hỏi câu nào khi Bạn đi học về?) góp phần khẳng định thêm rằng rất nhiều phụ huynh Việt Nam khi cho con đi học chỉ quan tâm đến điểm số (số phụ huynh đón con đi học về bằng câu hỏi “Hôm nay con được mấy điểm?” có tỉ lệ xác nhận cao nhất - 30,1%). Đứng ở vị trí thứ hai (20,1% xác nhận) là số phụ huynh “không hỏi gì cả”, có thể là do họ tin tưởng (và phó thác hoàn toàn cho) con cái, hoặc ngược lại, (tin tưởng và) phó thác hoàn toàn cho nhà trường. Kết quả của câu hỏi số 2 (Bạn hoặc con em của Bạn đi học thêm (nếu có) thì thường vì lí do nào?) cho thấy phần lớn đều có nhận thức đúng về động cơ giáo dục (câu trả lời “Để bổ sung, củng cố kiến thức” chiếm 66,4%). Tuy nhiên, mục tiêu đối phó không phải là không có: Câu trả lời “Để không bị thầy/cô “đì” trên lớp” chiếm 14,3%; “Theo yêu cầu của gia đình” chiếm 9,9%; “Theo phong trào (cùng các bạn)” chiếm 3,7%; “Theo yêu cầu của thầy/cô” chiếm 2,3%. Kết quả của câu hỏi số 23 cho thấy động cơ giáo dục nêu trên (học để bổ sung, củng cố kiến thức) mới chỉ dừng lại trong nhận thức nhiều hơn là biến thành thực tiễn. Trả lời cho câu hỏi “Bạn thường bổ sung, củng cố kiến thức đã học theo cách nào?”, phần lớn cho biết họ đều học để đối phó với kì thi: “Ôn lại khoảng 1-2 tuần trước khi thi” (38,6%); “Ôn lại khoảng vài ngày trước khi thi” (27,9%); khá hơn là “Ôn lại suốt thời gian học môn này” (24,0%). Số người học thực sự vì tri thức, học suốt đời (Ôn lại và đọc bổ sung cả sau khi thi) chỉ có 9,4%. 2.2. Quan niệm và thực trạng của triết lí giáo dục theo phẩm chất, năng lực 2.2.1. Triết lí giáo dục theo phẩm chất được khảo sát bằng 3 câu hỏi: - Câu hỏi 17 về “Những phẩm chất mà HSSV Việt Nam cần có để vào đời” cho kết quả như biểu đồ 1 (trang bên). 3
  4. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 1-7 ISSN: 2354-0753 Biểu đồ 1. Thống kê kết quả trả lời về “Những phẩm chất mà HSSV Việt Nam cần có để vào đời” - Câu hỏi 20 về “Những tật xấu mà HSSV Việt Nam cần tránh” cho kết quả trình bày như ở biểu đồ 2. Có thể nhận thấy có sự thống nhất rất cao giữa kết quả của câu hỏi 17 về những phẩm chất (= giá trị) cần có và của câu hỏi 20 về những tật xấu (= phi giá trị) cần tránh ở những cặp đầu: Phẩm chất “Trung thực” đứng ở vị trí số 1 trong câu 17 (80,2%) giúp khắc phục tật xấu “Bệnh giả dối” ở vị trí số 1 trong câu 20 (77,4%), cùng với nó là “Bệnh thành tích” (chạy theo thành tích thì phải giả dối) ở vị trí số 2 (72,3%). Phẩm chất “Trách nhiệm” ở vị trí số 2 trong câu 17 (78,8%) giúp khắc phục tật xấu “Bệnh thành tích” ở vị trí số 2 trong câu 20 (thực sự có trách nhiệm với mình và với công việc thì sẽ không chạy theo thành tích nữa). Phẩm chất “Bản lĩnh” đứng ở vị trí số 3 trong câu 17 (73,7%) giúp khắc phục tật xấu “Bệnh thiếu bản lĩnh” cũng ở vị trí số 3 trong câu 20 (71,2%). Phẩm chất “Tự tin” ở vị trí số 5 trong câu 17 (69,4%) giúp khắc phục tật xấu “Bệnh thụ động” ở vị trí số 4 trong câu 20 (67,3%)… Biểu đồ 2. Thống kê kết quả trả lời về “Những tật xấu mà HSSV Việt Nam cần tránh” - Câu hỏi 26 về “Quan hệ ứng xử phổ biến trong gia đình Bạn” giúp bộc lộ nhiều sự bất nhất giữa nhận thức và thực tiễn, hành động và kết quả trong quan hệ ứng xử phổ biến ở gia đình người Việt Nam: trong khi quan hệ “Cha mẹ tôn trọng con cái” được nhận thức là quan trọng hàng đầu với 70,7% (vị trí số 1) thì trên thực tế việc “Con cái có thể tham gia bàn bạc việc nhà, góp ý kiến với cha mẹ” chỉ chiếm 58,3% (vị trí số 4), tình trạng “Gia đình coi trọng dân chủ” chỉ chiếm 49,5% (vị trí số 8). Trong khi “Cha mẹ luôn dạy con ngoan, vâng lời” chiếm 69,6% % (vị trí số 2), thì ngày nay trên thực tế tình trạng “Con cái luôn phục tùng cha mẹ” chỉ còn chiếm 29,4% (vị trí số 10). 2.2.2. Triết lí giáo dục theo năng lực được khảo sát bằng 3 câu hỏi: Câu hỏi 18 về “Những năng lực mà HSSV Việt Nam cần có để vào đời” cho kết quả trình bày ở biểu đồ 3. Các năng lực hàng đầu được chọn là: Giao tiếp, Tự học, Sáng tạo, Giải quyết vấn đề (với tỉ lệ xác nhận lần lượt là: 80,4%; 80,0%; 75,5%; 73,1%). Điều đáng lo ngại là năng lực thẩm mĩ bị xem nhẹ nhất (44,1%, đứng ở vị trí cuối cùng, số 15). Năng lực thể chất, tính toán cũng rất bị coi thường (thể chất 55,6% - vị trí số 12; tính toán 52,3% - vị trí số 14). Số liệu năng lực thể chất bị coi thường góp phần lí giải vì sao thể lực, đặc biệt là sức bền và sức mạnh của thanh niên Việt Nam được xếp vào mức kém và rất kém so với khu vực và chuẩn mực (Bộ Nội vụ & Quỹ UNFPA, 2015, tr 45- 52). Số liệu năng lực tính toán bị coi thường là hệ quả tính cách đại khái, qua loa của người Việt. 4
  5. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 1-7 ISSN: 2354-0753 Biểu đồ 3. Thống kê kết quả trả lời về “Những năng lực mà HSSV Việt Nam cần có để vào đời” - Câu hỏi 27 “Đánh giá phổ biến của thầy/cô về năng lực của Bạn khi Bạn đi học” cho thấy phần đông HSSV Việt Nam thuộc diện “Học giỏi và chăm chỉ” với 59,3% (vị trí số 1); số được đánh giá là “Học giỏi và thông minh” không nhiều lắm, chiếm 19,7% (vị trí số 3); số “Học lực yếu kém” thì rất ít (0,3% - vị trí số 4). - Câu hỏi 24 tìm hiểu yêu cầu về năng lực phẩm chất của giáo viên. Kết quả cho thấy 4 năng lực phẩm chất được coi trọng hàng đầu ở người giáo viên là: “Có kiến thức chuyên môn sâu rộng” (85,5%); “Luôn lắng nghe ý kiến của học sinh” (77,9%); “Có phương pháp truyền đạt dễ hiểu” (77,8%) và “Giàu kinh nghiệm thực tế” (69,6%). Năng lực “Giỏi ngoại ngữ, vi tính” ở vị trí sau cùng (chỉ chiếm 48,8%). 2.2.3. Câu hỏi 33 nhằm khảo sát triết lí về nội dung chương trình đào tạo, kết quả cho thấy sự bất hợp lí của cơ cấu tri thức: Có đến 65,7% người được khảo sát xác nhận là nhiều kiến thức đã học hầu như không bao giờ dùng đến; và số lượng kiến thức dư thừa này chiếm tới khoảng từ 30% đến 50% nội dung chương trình đào tạo (59,7% người xác nhận). Trong khi đó, những hiểu biết về văn hóa dân tộc, cách giao tiếp ứng xử, kiến thức tâm lí... lại thiếu rất nhiều (80,2% người xác nhận), và những kiến thức còn thiếu này tuy ở trường có dạy nhưng liều lượng quá ít, cách dạy không hiệu quả (66,5% người xác nhận). 2.2.4. Triết lí về phương pháp giáo dục được khảo sát trong 4 câu hỏi: - Câu hỏi 10 cho biết ở bậc đại học, hình thức “Thầy/Cô giảng + trò ghi” trên 75% thời gian (dưới 25% còn lại dành cho thảo luận) được 45,0% người tham gia xác nhận (vị trí số 1); hình thức dạy/học “Thầy/Cô giảng + Trò ghi” 100% thời gian được 27,0% người tham gia xác nhận (vị trí số 2). - Câu hỏi 11 cho biết có 47,5% người tham gia xác nhận là Thầy/Cô “Thường đặt câu hỏi, nêu vấn đề cho trò thảo luận” (vị trí số 1); 30,0% xác nhận là Thầy/Cô “Luôn khuyến khích trò suy nghĩ sáng tạo, nêu ý kiến riêng; dù có thể ngược với Thầy/Cô” (vị trí số 2). Chỉ có 22,6% cho biết là Thầy/Cô “Thường không hài lòng khi trò nói/viết khác hoặc ngược với Thầy/Cô” (vị trí số 3). - Câu hỏi 8 cho biết khi đi học, mỗi khi Thầy/Cô hỏi về một vấn đề nào đó, người học thường “Nói điều mình nghĩ (quan điểm riêng)” (47,1% xác nhận, vị trí số 1). Số lượng người học thiếu bản lĩnh ít hơn: Có 28,3% xác nhận là họ “Rất ngại nói quan điểm của riêng mình vì sợ nói sai” (vị trí số 2); 12,8% xác nhận là họ “Nói điều nghĩ là thầy/cô muốn nghe” (vị trí số 3); 11,8% xác nhận là họ “Rất ngại nói quan điểm riêng của mình vì sợ không giống số đông” (vị trí số 4). - Câu hỏi 9 cho biết nguyên nhân của việc thi rớt hoặc bị điểm kém được xác định là do người học “Không hiểu bài” (79,2%, vị trí số 1); “Không học thuộc bài” (75,4%, vị trí số 2); “Ham chơi, bận nhiều việc” (46,3%, vị trí số 3); “Thiếu suy nghĩ, không có chính kiến” (44,3%, vị trí số 4). 2.2.5. Khảo sát về hiệu quả của triết lí giáo dục có 3 câu hỏi: - Câu hỏi 25 cho biết vào thời đi học, đa số người học muốn sau khi ra trường sẽ chọn làm việc ở “Cơ quan nhà nước, có cuộc sống ổn định” (26,6%, vị trí số 1); “Công ty, xí nghiệp có thu nhập cao” (20,4%, vị trí số 2); số muốn làm việc ở “Cơ quan nhà nước, có địa vị xã hội” chỉ còn chiếm 7,5% (vị trí cuối cùng, số 6). - Câu hỏi 29 cho biết là cho đến nay, sau khi ra trường, phần đông người học đã “làm đúng ngành đã học và không thay đổi ngành nghề” (34,2%, vị trí số 1); “làm ngành gần với ngành đã học” (25,5%, vị trí số 3-4); “làm trái ngành so với ngành đã học” (13,3%, vị trí số 5-6). - Câu hỏi 30 cho biết về mức độ thành công của người học sau khi ra trường đi làm, thì số đông là “Bình thường, không nổi bật nhưng cũng không quá mờ nhạt” (44,2%, vị trí số 1); “Thành đạt nhờ luôn tìm tòi sáng tạo, có đóng 5
  6. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 1-7 ISSN: 2354-0753 góp tốt, được tập thể và lãnh đạo ghi nhận” (38,3%, vị trí số 2); số “Thành đạt, thăng tiến nhanh, nhờ làm đúng ý lãnh đạo, luôn được lãnh đạo hài lòng” và “Thành đạt nhờ khéo léo, có quan hệ tốt với lãnh đạo và được lòng đồng nghiệp” chiếm thiểu số (9,0% và 6,2% - vị trí số 3-4). 2.3. Thực trạng của giáo dục Việt Nam hiện nay và triết lí giáo dục Việt Nam trong lịch sử 2.3.1. Khảo sát về thực trạng của giáo dục Việt Nam hiện nay có 3 câu hỏi: - Câu hỏi 1 khảo sát nhận định chung về thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay. Số đánh giá “Bình thường” chiếm tỉ lệ cao nhất (35%). Nhưng nếu gộp 3 mức đánh giá “Yếu kém” (23,2%) + “Khuyết tật” (19,3%) + “Khủng hoảng” (9,8%) thì tỉ lệ đánh giá thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay nhìn chung là yếu kém và có khuyết tật chiếm con số trên trung bình (52,3%) (biểu đồ 4). Biểu đồ 4. Thống kê kết quả trả lời về Biểu đồ 5. Thống kê kết quả trả lời về “Thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay” (%) “Ba thành tích nổi bật của giáo dục Việt Nam” (%) - Câu hỏi 2 khảo sát sự đánh giá của người tham gia về những ưu điểm nổi bật của giáo dục Việt Nam trong hơn chục năm gần đây. Ba thành tích nổi bật của giáo dục Việt Nam tính đến 2018 là “Thành tích thi quốc tế ấn tượng”; “Xếp hạng đại học được cải thiện”; “Phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở thành công” đều được người tham gia khảo sát thừa nhận, nhưng theo thứ tự ngược lại: Thành tích “Phổ cập giáo dục tiểu học, THCS thành công” tuy không được công luận nhắc đến nhiều nhưng lại được người tham gia khảo sát đánh giá ở mức cao nhất (70,2%); thành tích thi quốc tế PISA được quốc tế (World Bank, 2018; Dang H., Glewwe P., Lee J., and Vu K., 2020) và lãnh đạo Việt Nam đánh giá cao thì người tham gia lại đánh giá ở mức thấp nhất (55%) (biểu đồ 5). Biểu đồ 6. Thống kê kết quả trả lời về “Những nhược điểm của giáo dục Việt Nam hiện nay” (%) - Câu hỏi 3 khảo sát sự đánh giá của người tham gia về những nhược điểm nổi bật của giáo dục Việt Nam trong hơn chục năm gần đây. Thứ tự và số liệu của 11 nhược điểm được từ 49,9% thừa nhận trở lên được trình bày trong biểu đồ 6. Trong đó, ba nhược điểm đứng đầu là “Nặng lí thuyết, nhẹ thực hành”; “Bệnh thành tích, hình thức, hư danh”; “Gian lận trong GD (gian lận thi cử, văn bằng...)”. Nhược điểm ở vị trí cuối cùng là “Quản lí giáo dục yếu 6
  7. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 490 (Kì 2 - 11/2020), tr 1-7 ISSN: 2354-0753 kém”, đây là nhược điểm không ảnh hưởng trực tiếp đến người tham gia khảo sát nên mới có vị trí này, nó không phản ánh đúng thực trạng là nguyên nhân gốc của nhiều nhược điểm khác. Ngay ở Mĩ, việc quản lí giáo dục cũng chưa thể xem là đã tốt (Sadker D.M., Zittleman K.R., 2016, tr 256). 2.3.2. Khảo sát về đánh giá của xã hội về sự vận động của triết lí giáo dục Việt Nam trong lịch sử có 5 câu hỏi: - Câu hỏi 12 khảo sát đánh giá về nội dung mục tiêu giáo dục chủ yếu của Việt Nam qua 4 giai đoạn lịch sử cho ta thấy thứ tự tỉ lệ xác nhận về nội dung các mục tiêu phản ánh mức độ am hiểu về lịch sử giáo dục (giai đoạn hiện nay biết rõ nhất nên nội dung mục tiêu được đồng thuận cao nhất): “Mục tiêu GD thời đổi mới (từ 1986 đến nay) là: Đào tạo con người phát triển toàn diện; Nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” có 80,1% đồng ý. “Mục tiêu GD thời xây dựng XHCN (1954-1986) là: Đào tạo con người phát triển toàn diện, vừa hồng vừa chuyên” có 59,9% đồng ý. “Mục tiêu giáo dục thời phong kiến là: Đào tạo người làm quan” có 59,7% đồng ý. “Mục tiêu giáo dục thời thuộc Pháp là: Đào tạo công chức phục vụ bộ máy cai trị” có 49,4% đồng ý. - Bốn câu hỏi (từ 13 đến 16) khảo sát đánh giá về mức độ hoàn thành mục tiêu giáo dục chủ yếu của Việt Nam qua 4 giai đoạn lịch sử cho ta thấy thứ tự tỉ lệ đánh giá cũng phản ánh mức độ am hiểu về lịch sử giáo dục (Giai đoạn hiện nay biết rõ nhất nên mức độ hoàn thành mục tiêu “bị” đánh giá thấp nhất): Kết quả thực hiện mục tiêu giáo dục “Đào tạo con người phát triển toàn diện, vừa hồng vừa chuyên” của Việt Nam thời xây dựng XHCN (1954- 1986) là “Hoàn thành tốt” được 61,3% đồng ý. Kết quả thực hiện mục tiêu giáo dục “Đào tạo công chức cho bộ máy cai trị” của Việt Nam thời Pháp thuộc là “Hoàn thành tốt” được 53,8% đồng ý. Kết quả thực hiện mục tiêu giáo dục “Đào tạo người làm quan” của Việt Nam thời Phong kiến là “Hoàn thành tốt” được 46,2% đồng ý. Kết quả thực hiện mục tiêu giáo dục “Đào tạo con người phát triển toàn diện; Nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” của Việt Nam thời đổi mới (từ 1986 đến nay) là “Hoàn thành tốt” được 37,6% đồng ý. 3. Kết luận Các kết quả khảo sát thu được cho thấy một bức tranh rất sống động nhận thức của người Việt Nam về TLGD theo từng thành tố; góp tiếng nói quan trọng góp phần giải quyết cuộc tranh luận sôi nổi về TLGD với những ý kiến trái chiều. Kết luận đó là người Việt Nam có TLGD, song TLGD này cần được nhìn nhận từ nhiều góc độ. Kết quả khảo sát cũng cho thấy rõ thực trạng của TLGD Việt Nam hiện nay: trong bối cảnh quốc gia và quốc tế đã có nhiều thay đổi, TLGD này đang chứa đựng nhiều điều bất hợp lí, không còn phù hợp. Bài báo này mới dừng lại ở việc giới thiệu một bức tranh toàn cảnh; nhiều số liệu, kết quả cần được xem xét và phân tích kĩ lưỡng hơn để góp phần làm cơ sở cho việc xây dựng một TLGD Việt Nam mới. Lời cảm ơn: Các tác giả cảm ơn sự tài trợ của Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia giai đoạn 2016-2020 qua đề tài “Triết lí giáo dục Việt Nam từ truyền thống đến hiện tại” (mã số KHGD/16-20.ĐT.011). Tài liệu tham khảo Bộ Nội vụ & Quỹ UNFPA (2015). Báo cáo Quốc gia về thanh niên Việt Nam. Dang H., Glewwe P., Lee J., and Vu K. (2020). What Explains Vietnam’s Exceptional Performance in Education Relative to Other Countries? Analysis of the 2012 and 2015 PISA Data. https://doi.org/10.35489/BSG-RISE- WP_2020/036. Sadker D.M., Zittleman K.R. (2016). Teachers, schools, and society: a brief introduction to education, 4th ed. McGraw-Hill Education. Trần Ngọc Thêm (2016). Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai. NXB Văn hóa - Văn nghệ. Trần Ngọc Thêm (2020a). Tính hệ thống của triết lí giáo dục: Các mối quan hệ bên ngoài và các loại triết lí giáo dục. Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 30, tr 1-5. Trần Ngọc Thêm (2020b). Tính hệ thống của triết lí giáo dục qua các mối quan hệ bên trong của nó. Tạp chí Giáo dục, số 479, tr 1-7. World Bank (2018). Growing Smarter: Learning and Equitable Development. DOI: 978-1-4648-1261-3. 7
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2