intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khí tượng học synốp phần 2

Chia sẻ: Thái Duy Ái Ngọc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

119
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mô hình đường dòng mực thấp trong khu vực tín phong và gió mùa (1) Sống áp cao (2) Rãnh áp thấp (3) Hệ thống đệm, A (anticyclone) - xoáy nghịch tương ứng với khu áp cao; C (cyclone) - xoáy thuận tương ứng với khu áp thấp (Harris, 1970) Phần Bắc Bán Cầu trên mô hình 1.11d minh hoạ rất rõ hệ thống hoàn lưu ở khu vực Đông Nam Á và Tây Bắc

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khí tượng học synốp phần 2

  1. 15 Hình 1.11. Mô hình đường dòng mực thấp trong khu vực tín phong và gió mùa (1) Số ng áp cao (2) Rãnh áp thấp (3) Hệ t hố ng đệm, A (anticyclone) - xoáy nghịch tương ứng với khu áp cao; C (cyclone) - xoáy thuận tương ứng với khu áp thấp (Harris, 1970) Phần Bắc Bán Cầu trên mô hình 1.11d minh hoạ rất rõ hệ thố ng hoàn lưu ở khu vực Đông Nam Á và Tây Bắc Thái Bình Dương. Trong đó biểu hiệ n rõ áp thấp Nam Á với đới gió tây và tây nam ở phần phía nam của áp thấp này. Phía đông áp thấp này là hệ thố ng áp cao, chính là áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương. Phía nam áp cao này là dả i áp thấp xích đạo. Hệ t hố ng đệm trong mô hình này được chia làm 3 phần: Phần ở phía Bắc Bán Cầu là số ng áp cao, ở phía nam là áp thấp còn trên xích đạo là vùng đệ m. Trường đường dòng và các trung tâm xoáy Trên các hình (1.12 - 1.19) là hệ t hố ng đường dòng hợp thành(1) ở các mực gradien(2), 850 mb, 500 mb, 200 mb tháng 1 và tháng 7 đặc trưng cho mùa gió mùa mùa đông và mùa gió mùa mùa hè ở miền nhiệt đớ i Đông Bán Cầu. Trên mỗ i bản đồ là trường đường dòng (đường liề n) với hướng theo chiều mũi tên và đường đẳng tốc gió hợp thành (đường đứt) vẽ qua 5kts (2kts=1m/s). Tốc độ gió hợp thành nhỏ hơn 5 và lớ n hơn 15 kts được tô đậ m. Trên các bản đồ, những đặc đ iểm cơ bản của trường áp và trường xoáy Gió hợp thành là vectơ tốc độ gió tổng hợp của hai vectơ gió trung bình nhiều năm theo (1) trục x(u) và y(v). Mực gradien có độ cao khoảng 600 m. (2)
  2. 16 cũng được thể hiện rõ với các trung tâm khí áp và xoáy được ký hiệu bằng chữ A: xoáy nghịch (khu áp cao) và chữ C: xoáy thuận (khu áp thấp). Trường đường dòng và xoáy mực gradien (600m) tháng 1 (hình 1.12) Trên Đông Á dòng khí toả ra từ cao áp Siberi(3) về phía biển và vượt xích đạo về phía Nam Bán Cầu, chuyển hướng thành tây bắc và thổ i vào áp thấp châu Úc (1). Trên miề n Tây Thái Bình Dương là số ng cao áp cận nhiệt. Hệ t hố ng dòng khí của số ng này thổ i cùng hướng đông bắc như dòng khí từ áp cao Siberi. Trừ phần rìa phía nam liên quan với front lạnh, tốc độ gió trong khu vực cao áp Siberi rất nhỏ (v
  3. 17 Tại mực 850mb (khoảng 1,5km) còn thấy rõ dòng khí của xoáy nghịch Siberi ở Đông Á như trên bản đồ mực gradien (1). Số ng cao áp cận nhiệt Tây Thái Bình Dương nằm ở kho ảng 220 N (2). Dòng khí lạnh từ Nam Trung Quốc với độ dày 3 km thổ i qua Việt Nam và tới Singapore chỉ còn khoảng 1300 m (3). Giữa áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương và áp cao Siberi là rãnh áp thấp, trong nhiều trường hợp có thể hình thành một số áp thấp với một đường đẳng áp đóng kín. Rãnh áp thấp này(1) khi bị nén bởi hai áp cao có thể gây ra thời tiết xấu với mây tích, thậm chí cho mưa rào và dông. Rãnh gió mùa Nam Bán Cầu mở rộ ng từ phía tây châu Phi đến 180o E (4). Tại mực 850mb, rãnh này nằm theo hướng tây-đông giữa 10oS - 20oS và vị trí gần xích đạo nhất của nó là ở miề n Trung Ấn Độ Dương. Hình 1.13. Bản đồ đường dòng mực 850mb. Tháng1 (Harris, 1970) Trường đường dòng và xoáy mực 500 mb, tháng 1 (hình 1.14) Tại mực 500mb một nhánh của đới gió tây ôn đới tiến sâu về miền nhiệt đới đến tận vĩ độ 20oN (1). Đó là dòng xiết gió tây nhánh phía nam cao nguyên Tibet với tốc độ gió tới 45-60m/s. Đớ i gió tây ôn đới gây nhiều hậu quả t hời tiết đố i với miền Bắc Việt Nam. Trước hết là dòng giáng ở phía nam dòng xiết đem lạ i thời tiết ổn định vào tháng 1. Hệ quả t hứ hai là sóng trong đới gió tây tạo điều kiện cho xâm nhập lạnh mạnh, tạo các hình thế trong đó các đợt xâm nhập lạnh xả y ra liên tiếp. Trong trường hợp rãnh trên cao mạnh dị thường có thể gây bình lưu lạnh rất mạnh trên cao làm tăng độ bất ổn định đế n mức có thể gây nên mưa rào và dông vào giữa mùa đông như trường hợp tháng 12-2004. Trong nghiệp vụ người ta gọi là "rãnh áp thấp bị nén". (1)
  4. 18 Hình 1.14. Bản đồ đường dòng mực 500mb. Tháng1 (Harris, 1970) Dải áp cao cận nhiệt chia làm ba phần có trục nằm trong dả i 10-15oN ở các kinh tuyến khoảng 70oE, 100oE và 140oE (2). Hệ t hống đệ m bị đẩy về phía Nam Bán Cầu trở thành áp cao có trục ở 0-5oS (3). Trường đường dòng và xoáy mực 200 mb, tháng 1 (hình 1.15) Tháng 1 do sự mở rộ ng của áp thấp hành tinh Bắc Bán Cầu nên vị trí trung bình của số ng cao áp cận nhiệt Bắc Bán Cầu tại mực 200mb nằ m ở 10oN, 160oE nghĩa là d ịch chuyển 20o vĩ về phía xích đạo so với vị trí tháng 7 của nó. Gió đông giới hạn trong một dải hẹp và có tốc độ gió cực đạ i 30 kts. Ở đây có dòng vượt xích đạo về phía Bắc Bán Cầu (bán cầu mùa đông) trở thành dòng khí tây nam hướng về phía cực. Phía bắc 30oN đới gió tây ôn đới rất mạnh, nhất là dọc bờ đông châu Á, nơi tốc độ gió hợp thành trong dòng xiết trên đất Nhật vượt quá 100-150kts (1). Dọc theo kinh tuyến 80-90oE dòng khí dãn ra theo chiều bắc nam cho thấy ảnh hưởng rẽ nhánh đố i với đớ i gió tây của cao nguyên Tibet vẫn còn thể hiện rõ tới phần trên tầng đố i lưu (2). Dòng vượt xích đạo đưa không khí từ Nam Bán Cầu lên Bắc Bán Cầu ngược hướng với dòng vượt xích đạo ở mặt đất (3). Sống cao áp cận nhiệt Nam Bán Cầu nằm ở gần 14oS trên châu Úc và 18oS trên châu Phi, không xa phía nam vị trí của nó vào tháng 7 (4).
  5. 19 Hình 1.15. Bản đồ đường dòng mực 200mb. Tháng 1 (Harris, 1970) Trường đường dòng và xoáy mực gradien, tháng 7 (hình 1.16) Tháng 7 trường nhiệt áp cấu trúc lại gần như ngược so với mùa đông. Áp cao Siberi biến mất, áp thấp Nam Á phát triển mạnh và dần dần bao trùm khắp lục địa Đông Nam Á (1). Phần kéo dài của áp thấp này sang phía đông là rãnh gió mùa (Harris, 1970; Carson, 1985). Gió thổ i vào rãnh này từ phía đông nam và nam phố i hợp với dòng khí vượt xích đạo từ áp cao châu Úc (5) và áp cao Mascarene (6) tạo thành hệ t hống gió mùa tây nam mùa gió mùa mùa hè. Áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương dịch chuyển lên phía bắc và mở rộ ng với dải có tốc độ gió nhỏ hơn 5 kts (2). Khu vực tín phong có tốc độ cực đại ở phía nam cao áp này và nằ m ở 15o đến 20oN (3). Giữa áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương và vùng đệ m sát xích đạo có thể hình thành rãnh xích đạo như mô hình d trên hình 1.11. Vào đầu mùa hè, rãnh này thường là dải hộ i t ụ nhiệt đới nằ m lệch về phía nam so với rãnh gió mùa đang nằm ở phần phía bắc của lục địa Đông Nam Á. Vào giữa và cuố i mùa hè, rãnh gió mùa mở rộ ng về phía nam và có thể nố i liề n với rãnh xích đạo tạo thành một dả i hộ i tụ nhiệt đớ i kéo dài ngang qua Đông Nam Á tớ i Biển Đông. Khu vực nhiệt đới Nam Bán Cầu thịnh hành sống cao áp với tín phong thổ i về phía xích đạo (5, 6). Hình 1.16. Bản đồ đường dòng và xoáy mực gradien, tháng 7 (Atkinson và Sadler, 1970) Trường đường dòng và xoáy mực 850 mb, tháng 7 (hình 1.17)
  6. 20 Vào tháng 7 hệ t hống đệ m với đường dòng thuận chiều kim đồ ng hồ gần xích đạo giữa dả i gió mùa hướng tây của bán cầu mùa hè và tín phong của bán cầu mùa đông kéo dài dọc suốt từ phía tây của Thái Bình Dương t ới phía đông của Đại Tây Dương (1). Hệ thố ng đệ m hoạt độ ng rất đặc biệt. Trong trường hợp hệ thố ng này d ịch chuyển về phía Bắc của xích đạo tới khu vực Ấn Độ nó được gọi là số ng cận xích đạo. Tương tự như ở mặt đất, hệ thố ng dòng khí thuận chiều kim đồng hồ bao quanh khu đệm xuất phát từ Nam Bán Cầu vượt xích đạo và chuyển hướng tới Ấn Độ và vịnh Bengal lan sang tậ n phía đông tới Biển Đông và Philipin tạo nên mộ t hệ thố ng gió mùa mùa hè ở mực 850 mb có hướng tây (2). Trên khu vực Nam Á và Đông Nam Á là khu áp thấp có tâm ở Ấn Độ và Pakistan (3, 4). Tại mực 850 mb hệ t hố ng gió mùa hướng tây ở phần sau rãnh gió mùa khi tới Biển Đông trở t hành gió tây nam thổ i về phía bắc Biển Đông hộ i tụ với tín phong có hướng nam và đông nam thổ i ở phần cực tây của áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương. Phía nam áp cao này là rãnh xích đạo. Trục rãnh gió mùa có thể nố i liề n với rãnh xích đạo tạo nên dải hộ i tụ nhiệt đới (đường chấm) (6). Lúc này có trục số ng áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương nằm ở kho ảng 25oN (7). Ở Nam Bán Cầu dả i áp cao gồ m ba trung tâm nằm ở kho ảng 20-30oN, trong đó có áp cao châu Úc và áp cao Mascarene. Hình 1.17. Bản đồ đường dòng và xoáy mực 850mb, tháng 7 (Harris, 1970) Trường đường dòng và xoáy mực 500 mb, tháng 7 (hình 1.18) Hệ thống đệm nằm chếch theo hướng tây nam-đông bắc (1) phần ở Nam Bán Cầu là xoáy thuận, phần Bắc Bán Cầu là xoáy nghịch. Dòng khí vượt xích đạo về phía Bắc Bán Cầu tạo dải gió mùa tây nam giới hạn ở khu vực phía nam trung tâm áp thấp nằm trên phần nam của lục địa Đông Nam Á (4). Hai phần của trung tâm áp thấp Nam Á này hơi dịch về phía nam so với vị trí của nó tại mực 850mb (2, 3). Áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương mở rộng, tháng 7 có trục ở khoảng 270N. Áp cao Úc châu và áp cao Mascarene có trục nằm ở khoảng 25-30oS.
  7. 21 Hình 1.18. Bản đồ đường dòng mực 500 mb, tháng 7 (Harris, 1970) Trường đường dòng và xoáy mực 200 mb, tháng 7 (hình 1.19) Vào tháng 7, áp cao cận nhiệt mực 200 mb di chuyển về phía tây bắc tớ i phía trên cao nguyên Tibet. Ở đây cao áp này được sự đốt nóng của cao nguyên làm dãn các mặt đẳng áp và bằng cách đó tăng cường áp cao. Chính vì vậy nhiều tác giả đã gọ i nó là áp cao Tibet. Trong tháng này, tạ i mực 200mb áp cao cận nhiệt có trục nằm ở 30oN và bao quát toàn bộ phần trên tầng đố i lưu Đông Bán Cầu. Giữa cao áp cận nhiệt Bắc Bán Cầu và số ng cao áp ở Nam Bán Cầu là dải gió đông mở rộ ng và mạnh nhất ở phần trên tầng đố i lưu (2). Thành phần vượt xích đạo của dòng khí về phía Nam Bán Cầu giữa 50oE và 150oE là rất mạnh, mạnh nhất là ở miền trung Ấn Độ Dương (tốc độ 20 kts). 20W 10W 0 10E 20E 30E 40E 50E 60E 70E 80E 90E 100E 110E 120E 130E 140E 20W 10W 0 10E 20E 30E 40E 50E 60E 70E 80E 90E 100E 110E 120E 130E 140E Hình 1.19. Bản đồ đường dòng và xoáy mực 200mb, tháng 7 (Harris, 1970)
  8. 22 1.7 CHUYỂN ĐỘNG THẲNG ĐỨNG Chuyển độ ng thẳng đứng đóng vai trò quan trọ ng trong quá trình hình thành mây và mưa. Những khu vực tô đậm trên các hình biểu thị nơi có dòng thăng (ký hiệu là U: up) chiế m ưu thế trong giá trị trung bình. Trên khu vực Đông Nam Á và xích đạo dòng thăng phát triển rất mạnh và trải ra trên phạ m vi lớn trên khu vực xích đạo. Trên hình 1.20 và 1.21 biểu diễn các khu vực dòng thăng miền nhiệt đới theo tốc độ khí áp (10-4mb/s) ở mực 500mb. Theo tọa độ khí áp dòng thăng có đại lượng âm còn dòng giáng (ký hiệu D: down) có đại lượng dương. Tháng 12 đến tháng 2, dòng thăng phát triển mạnh trên khu vực xích đạo thuộc Indonesia với tốc độ tới -10mb/s. Các khu vực dòng giáng có liên quan vớ i xoáy nghịch lạnh ở Biể n Đông Trung Quốc và phần bắc Biển Đông Việt Nam. D U U D D D U U D D D U D Hình 1.20. Tốc độ dòng thẳng đứng trung bình tháng 12-2 (a), tháng 3-5 (b) tại mực 500mb (Kyler, 1970) U - Dòng thăng D - Dòng giáng D U D D D D D U U
  9. 23 Hình 1.21. Tốc độ dòng thẳng đứng trung bình tháng 7-8 (a), tháng 9-10 (b) tại mực 500mb (Kyler, 1970) U - Dòng thăng D - Dòng giáng Tháng 3 đến tháng 5 khu vực dòng thăng trên Indonesia mạnh lên không nhiều. Khu vực dòng giáng ở Tây Thái Bình Dương có liên quan với dải áp cao cận nhiệt mạnh lên và kéo dài về phía Biển Đông. Tháng 7 đến tháng 8 dòng thăng mạnh và mở rộng nhất trên khu vực Đông Nam Á và kéo dài thành dải trên Bắc Ấn Độ Dương. Tốc độ dòng thăng đạt tới 10-15mb/s trên miề n Nam Việt Nam, Biển Đông và vịnh Bengal. Tháng 9 đến tháng 11 dòng thăng giả m yếu so với tháng 8 nhưng vẫn mở rộ ng trên Đông Nam Á với tốc độ 10mb/s. 1.8 DÒNG XIẾT MIỀN CẬN NHIỆT VÀ NHIỆT ĐỚI Trong miền cận nhiệt đới và nhiệt đới tồn tại và phát triển các dòng xiết phần trên, phần giữa và cả phần dưới tầng đố i lưu (dòng xiết mực thấp). Dòng xiết cận nhiệt mùa đông Theo Krishnamurti dòng xiết cận nhiệt đới mùa đông là dòng xiết có tốc độ rất lớn (150-200kts) bao quanh Trái Đất một cách liên tục (hình 1.22). Ở Đông Nam Á đó là dòng xiết gió tây nhánh phía nam cao nguyên Tibet. Vào mùa đông khi có sự xâm nhập
  10. 24 lạnh vào miền nhiệt đới dòng xiết này mạnh lên, khi qua Hà Nộ i có thể đạt tới tốc độ gió 45 m/s. Trục dòng xiết cận nhiệt đới trung bình nằm ở vĩ tuyến 27, 5oN, dao độ ng trong khoảng 20-35oN. Hình 1.22 là kết quả phân tích đường đẳng tốc trung bình của dòng xiết cận nhiệt đới vào mùa đông 1955-1956. Cần lưu ý là tốc độ ở trung tâm lớn hơn so với giá trị trên bản đồ gió hợp thành cho tháng 1. Cùng với mỗ i đợt xâm nhập lạnh từ cực, dòng xiết cận nhiệt lạ i mạnh lên do sự tăng cường của tính tà áp trước front lạnh, rìa xoáy nghịch lạnh. Hình 1.22. V ị trí trung bình của dòng xiết cận nhiệt mùa đông Bắc Bán Cầu (1955- 1956). Đường đẳng tốc tại mực 200mb vẽ qua 50kts. Vị trí trung bình của dòng xiết ở 27, 5oN. Đường đẳng tốc 50kts qua Đà Nẵng và 100kts qua Hà Nộ i (Krishnamurti, 1961) Sự tồn tại và ổn định của dòng xiết gió tây nhánh phía nam cao nguyên Tibet còn được coi là dấu hiệu mở đầu và kết thúc mùa đông synôp tại Đông Á. Khoảng cuố i tháng 10 đầu tháng 11, tùy theo sự bắt đầu mùa đông hàng năm, dòng xiết gió tây nhánh phía nam cao nguyên Tibet xuất hiện và ổn đ ịnh thì khi đó mùa đông synôp ở Đông Nam Á bắt đầu. Mùa hè synôp bắt đầu khi dòng xiết gió tây nhánh phía nam cao nguyên Tibet rút về phía bắc và ổ n định tạ i đó. Trên hình 1.23 là mặt cắt gió vĩ hướng theo chiều thẳng đứng trong các giai đoạn hình thành dòng xiết gió tây nhánh phía nam cao nguyên Tibet. Trong giai đoạn đầu (hình 1.23a) dòng xiết gió tây phát triển trên cao nguyên Tibet, đường đẳng tốc 0m/s phân chia hai dải gió đông và gió tây nằ m trên cao tại mực 350mb. Trong giai đoạn tiếp theo đường đẳng tốc 0m/s đã hạ thấp xuố ng tới mực 700mb. Cuố i cùng phía nam cao nguyên Tibet xuất hiện dòng xiết gió tây ở mực 700mb (hình 1.23c).
  11. 25 c a Hình 1.23. Mặt cắt gió vĩ hướng: W: gió tây và E gió đông theo chiều thẳng đứng dọc theo kinh tuyến 90oE qua cao nguyên Tibet. Dòng xi ết gió tây nhánh phía nam hình thành theo trình tự bi ểu di ễn trên các hình a, b, c. Các số dọc theo trục hoành là chỉ s ố các trạm lấy số liệu để xây dựng m ặt cắt gió. b Dòng xiết gió đông nhiệt đới mùa hè Mùa hè tại mực 150-200mb phía nam cao áp Tibet là dòng xiết gió đông (hình 1.24) trong dải từ 10-15oN. Trục dòng xiết này gần mực 150mb, tách khỏ i dải gió đông tầng bình lưu. Từ hình 1.24, ta thấy phía bắc dọc theo vĩ tuyến 30-40oN là đới gió tây với dòng xiết (WJ) có tốc độ tới 45m/s với các số ng và rãnh với biên độ lớn. Phía nam áp cao Tibet là hai dòng xiết gió đông (EJ) có tốc độ khoảng 30-40 m/s với khu vực hộ i tụ ở Đông Nam Á (CV) và khu vực phân k ỳ ở trên châu Phi (CR). WJ WJ 4) Hình 1.24. Đường dòng và đường đẳng tốc (kts, gió đông có dấu (-) tại AT200 (03-GMT ngày 25/7/1955). Đường m ũi tên là trục dòng xi ết trong đới gió tây (WJ) và trong đới gió đông (EJ) với khu vực cửa vào hội tụ ở Đông Nam Á (CV), cửa ra với khu vực phân kỳ ở châu Phi (CR) Koteswaran, 1958)
  12. 26 1.9 ÁP CAO CẬN NHIỆT TÂY THÁI BÌNH DƯƠNG VÀ ÁP CAO TIBET Áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương và áp cao Tibet đóng vai trò quan trọ ng đố i với sự hình thành và biến đổ i của thời tiết và đặc trưng khí hậu Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Áp cao Tibet quy định dòng xiết gió đông và sự phân k ỳ dòng khí ở phần trên tầng đố i lưu. Ở phần dưới tầng đố i lưu, áp thấp Nam Á là nguyên nhân của sự hộ i tụ dòng khí. Áp cao cận nhiệt tây bắc Thái Bình Dương không chỉ quy định thời tiết ở nơi mà nó khố ng chế mà còn đưa không khí nhiệt đới biển, nóng ẩm vào miền Bắc Việt Nam theo tín phong đông nam và vào miền Nam Việt Nam theo tín phong đông bắc (phía nam vĩ tuyến 160N) gây thời tiết rất đặc trưng vào cả hai mùa gió mùa. Áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương Áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương là một phần của dả i áp cao cận nhiệt tồn tạ i và hoạt độ ng quanh năm. Vào mùa đông áp cao cận nhiệt thu hẹp lại về phía đông bắc Thái Bình Dương nhưng khi gió mùa đông bắc gián đoạn, bộ phận phía tây của áp cao cận nhiệt dịch chuyển sang phía tây về phía Đông Nam Á và đưa tín phong đông nam vào miền Bắc Việt Nam gây thời tiết ấm và nắng như trở về mùa hè. Áp cao cận nhiệt là cao áp nóng tầm cao, theo chiều cao áp cao cận nhiệt phát triển, mở rộ ng phạ m vi và lấn về phía lục địa Đông Nam Á, trong một số trường hợp có thể tới Đông Ấn Độ. Trên mặt đất, áp cao cận nhiệt thường bao bởi đường đẳng áp 1010mb tuy không phả i lúc nào cũng thể hiện rõ. Ở phần giữa tầng đố i lưu (trên bản đồ AT500) áp cao cận nhiệt chia thành hai đơn thể: một ở Đông Thái Bình Dương một ở Tây Thái Bình Dương. Đơn thể phía Tây Thái Bình Dương lạ i có thể chia thành hai áp cao, giữa chúng là khu vực sống yếu hay khu vực đứt đoạn. Bão có thể đi qua khu vực số ng yếu và di chuyển lên phía bắc. Vào mùa hè ở phần trên tầng đố i lưu, tại mực 200mb ngoài áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương, trên cao nguyên Tibet còn có áp cao Tibet. Áp cao cậ n nhiệt ở Tây Thái Bình Dương có ảnh hưởng trực tiếp đến thời tiết và khí hậu Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, do số liệu trên biển còn thưa thớt gây khó khăn cho việc phân tích áp cao này trên bản đồ thời tiết hàng ngày cũng như việc nghiên cứu trung tâm ho ạt động quan trọng này. Có thể xác định trục cao áp theo quy tắc: trên trường gió và trường dòng bằng cách coi trục áp cao là đường nố i các điể m có tốc độ gió tây bằng không hay đường nố i các điể m có độ cong xoáy nghịch lớ n nhất của các đường đẳng áp. Có thể xác định vị trí trung bình tháng của áp cao cận nhiệt qua vị trí trung bình tháng của trục của nó. Trong năm cao áp di động theo chiều bắc nam và hoạt độ ng mạnh nhất vào mùa hè. Tháng 5 trục áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương dịch chuyển lên phía bắc tới vĩ tuyến 14- 15oN (hình 1.25).
  13. 27 o 30 N 150oW o 130 W 145 140 15oW Hình 1.25. Sự di chuyển qua các tháng của trung tâm xoáy nghịch cận nhiệt m ặt đất ở Bắc Thái Bình Dương. Các số bi ểu thị các tháng trong năm Sang tháng 6 vị trí của trục của áp cao cận nhiệt nằm ở vĩ độ 20oN. Trung tuần tháng 6 (khoảng ngày 10-20) áp cao cận nhiệt có thể “nhảy” lần thứ nhất tới vĩ độ 25oN. Tháng 7 trục áp cao cận nhiệt lên tới vĩ độ 27oN. Trung tuần tháng 7 có sự “nhảy” lần thứ hai tới vĩ độ 28oN. Tháng 8 áp cao cận nhiệt tiếp tục dịch chuyển lên phía bắc tới 30oN, vị trí cao nhất vào các tháng mùa hè. Trong một thời đoạn ngắn trục áp cao cận nhiệt có thể lên tới 35-40oN. Có năm trục áp cao cận nhiệt nằm ở phía bắc nhất không phải vào tháng 8 mà vào tháng 7. Tháng 9 bắt đầu mùa thu, cao áp bị đẩy xuống phía nam tới 26oN. Do sự mở rộng của áp thấp hành tinh xuống phía nam. Bắt đầu các đợt lạnh trong gió mùa đông bắc sớm. Áp cao cận nhiệt tháng 7 có cường độ mạ nh nhất. Trên bả n đồ đường dòng tháng 7 ở gầ n mặt đất (mực gradien; 600 m) áp cao cận nhiệt nằ m ở k ho ảng 25oN. Càng lên cao áp cao cận nhiệt càng lấ n sang phía lục đ ịa Đông Nam Á. T ừ mực giữa đến phầ n trên t ầng đố i lưu, áp cao cận nhiệt t ăng cường và mở rộ ng, trong một số t rường hợp có thể nhập vớ i áp cao Tibet. Đến mực AT500 hai trung tâm cao áp đã hình thành ở p hầ n Bắc rãnh gió mùa dướ i thấp và t ạo thành dả i áp cao. Trên trường áp, tâm áp cao mặt đất nằm lệch về p hía đông còn ở trên cao lạ i lệch về phía tây (Hình 1.26). Áp cao Tibet Hình 1.26. Thiết diện của áp cao cận nhiệt: Áp cao Tibet là xoáy nghịch với cường độ cực đạ i tại Mặt đất (dưới); Trên cao (trên) mực 200mb vào mùa hè Bắc Bán Cầu. Theo Carson. N (1975) áp cao này vố n là áp cao cận nhiệt tại mực 200mb, vào tháng 4 nó có trung tâm nằ m trên đảo Borneo (Hình 1.27). Tháng 5 d ịch chuyển tới Myanma và tiếp đó dịch chuyển lên phía bắc tớ i cao nguyên Tibet vào tháng 7. Tháng 8 áp cao dịch chuyển xuố ng phía nam và vào tháng 9 nó có trung tâm nằm ở phía bắc vịnh Bengal.
  14. 28 Hình 1.27. Vị trí các tâm áp cao phần trên tầng đối lưu Đông Nam Á (mực 200mb) trong các tháng 4, 5, 7, 9 Áp cao này duy trì ở đây cho đến tháng 9 thì bắt đầu dịch chuyển về phía đông nam tới Indonesia và trở nên khó xác định vào cuố i tháng 10 khi mùa đông synôp ở Đông Nam Á bắt đầu. Sự tồn tạ i và d ịch chuyển của áp cao ở Nam Á và Tây Bắc Thái Bình Dương tại mực 200mb là hệ t hống đặc trưng trên cao của hoàn lưu khí quyển Đông Á. Đến tháng 7, tháng 8 áp cao này có cường độ mạnh nhất do sự đốt nóng bổ trợ của cao nguyên Tibet như đã nói ở trên. Vị trí của áp cao này phù hợp với bản đồ đường dòng trung bình mực 200mb. Các dòng khí trên mực 200mb này quy đ ịnh dòng vượt xích đạo ở phần trên tầng đố i lư u nhiệt đới và có hướng ngược so với hướng dòng vượt xích đạo ở mặt đất vào cả mùa đông và mùa hè ở Bắc Bán Cầu. Dưới đây chúng tôi khái quát một số đặc đ iể m của các nhiễu độ ng thời kỳ dài, ít nhiều có ảnh hưởng đến hình thế synôp hạn ngắn và có ý nghĩa định hướng đố i với dự báo thời tiết các hạn khác nhau. Đó là dao động tựa 2 năm, dao độ ng nhiệt đới 40 - 50 ngày Madden và Julian (MJO) và hiện tượng ENSO.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2