intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam”

Chia sẻ: Truong Cong Trinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:38

271
lượt xem
82
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là bộ phận hợp thành của môi trường sống, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa bàn phân bố dân cư và tổ chức các hoạt động kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, việc sử dụng tài nguyên đất đai một cách hợp lý và hiệu quả là vấn đề được cả thế giới quan tâm. Tuy nhiên, hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Quảng Nam nói riêng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam”

  1. KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam” 1
  2. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là bộ phận hợp thành của môi trường sống, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa bàn phân bố dân cư và tổ chức các hoạt động kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, việc sử dụng tài nguyên đất đai một cách hợp lý và hiệu quả là vấn đề được cả thế giới quan tâm. Tuy nhiên, hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Quảng Nam nói riêng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập, nhất là ở huyện miền núi. Để giải quyết vấn đề đó, đã có rất nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng đất, một trong số biện pháp mang lại hiệu quả tốt nhất đó là công tác quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ). QHSDĐ là một trong 13 nội dung quản lý nhà nước về đất đai, được ghi nhận tại điều 6 và điều 21 đến điều 30 Luật đất đai 2003. Vai trò của QHSDĐ được cụ thể hóa tại điều 18 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1992 theo đó: “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đả m bảo việc sử dụng đất đúng mục đích và có hiệu quả” [16,127]1. Như vậy, việc quản lý đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật được nhà nước đặc biệt quan tâm trong hoạt động quản lý và sử dụng đất trong giai đoạn hiện nay. Song, trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thêm vào đó, việc dân số ngày càng gia tăng đã làm cho QHSDĐ trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết. Công tác QHSDĐ ở Quảng Nam nói chung và huyện Nam Giang nói riêng trong những năm qua đã đạt được nhiều hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tề-xã hội của địa phương. Tuy nhiên Công tác QHSDĐ dần bộc lộ những hạn chế và bất cập. Thực tế cho thấy, Quảng Nam là một tỉnh cần được quy hoạch và bảo vệ chặt chẽ nhưng quá trình triển khai, lập và tổ chức thực hiện QHSDĐ được phê duyệt và đưa vào thực hiện thì dẫn đến tình trạng “Quy hoạch treo”. Tình trạng vi phạ m, lấn chiếm đất có quy 1 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2
  3. hoạch vẫn còn phổ biến. Tiến độ thực hiện các phương án QHSDĐ còn chậm và chưa chú ý tới yếu tố bảo vệ môi trường, phát triển bền vững… Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nói trên nhưng nguyên nhân cơ bản nhất đó là do pháp luật về QHSDĐ chưa hoàn thiện và do sự yếu kém trong việc thực hiện pháp luật QHSDĐ của cơ quan chức năng. Nhận thức được tầm quan trọng của QHSDĐ nên Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật QHSDĐ trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù hoạt động QHSDĐ trên thực tế còn nhiều hạn chế nhưng vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện. Các công trình nghiên cứu và pháp luật QHSDĐ hết sức ít ỏi, chủ yếu chỉ dừng lại ở các bài báo ở trên tạp chí và trên các báo điện tử, chưa đáp ứng được yêu cầu tìm hiểu của người sử dụng đất và yêu cầu về việc tham khảo và thực hiện của các cơ quan nhà nước. Vấn đề quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới cũng được nhiều người nghiên cứu nhưng lại được nhìn nhận và đánh giá ở trên phương diện khác. Các công trình nghiên cứu chủ yếu chỉ chú ý với vấn đề đầu tư cơ sở hạ tầng mà chưa đặt nó vào công tác QHSDĐ. Chính vì thế nghiên cứu pháp luật về QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay là hết sức cấp thiết. Với mục tiêu nhìn nhận và đánh giá những kết quả của pháp luật QHSDĐ và việc thực hiện pháp luật QHSDĐ để quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang giai đoạn 2011 – 2015. Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và những bất cập tồn tại trong quá trình thực hiện quy hoạch cũng như đề ra các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật QHSDĐ và nâng cao hiệu quả sử dụng đất để quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang trong những năm tới, bản thân đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam” Đây là đề tài lần đầu tiên được nghiên cứu nên tài liệu nghiên cứu còn hạn chế, bản thân chưa học tập được phương pháp nghiên cứu của người đi trước. Do đó, bản thân rất mong nhận được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của người quan tâm đến hoạt động QHSDĐ và công tác quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới để đề tài này được hoàn thiện hơn. 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn nghiên cứu Qua quá trình tìm hiểu “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễn trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam” tác giả rút ra được ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, hiểu thêm các quy định của pháp luật về QHSDĐ, về quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới sử giúp cho đề tài nhìn thấy rõ việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới 3
  4. trong QHSDĐ là một công việc khó khăn, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, các cấp trong địa phương. Ý nghĩa khoa học: Việc nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan đến QHSDĐ và quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tạo điều kiện cho bản thân tìm hiểu các quy định trong việc áp dựng thực tế để tăng thêm việc nghiên cứu, xây dựng những kiến thức cơ bản cho bản thân cũng như cho việc học. Ngoài ra, báo cáo thực tập này cũng cung cấp một vấn đề cơ bản cho tất cả cá nhân, tổ chức quan tâm đến vấn đề này. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật về QHSDĐ và thực tiễn thực hiện trong hoạt động quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới nhằ m đưa ra các giải pháp hoàn thiện vấn đề này. Bên cạnh đó, tiểu luận còn là một tài liệu tham khảo, mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả QHSDĐ của tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Nam Giang nói riêng. 3. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quy hoạch sử dụng đất và thực tiễ n trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam” nhằ m tăng cường sự hiểu biết về tầm quan trọng của vấn đề QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới, trao dồi các kỹ năng phục vụ cho công việc sau này. Mục đích của đề tài nghiên cứu bao gồm: - Thông qua tìm hiểu những vấn đề lý luận về quy hoạch sử dụng đất và vấn đề quy định về xây dựng nông thôn mới, từ đó chỉ ra được mối quan hệ giữa hoạt động QHSDĐ nói chung và công tác quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới ngày nay nói riêng. - Thông qua tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về QHSDĐ nhằ m tìm ra những điểm hợp lý, những hạn chế và bất cập để tìm ra những giải pháp nhằ m đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về QHSDĐ. - Tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động QHSDĐ và thực tiễn thực hiện trong quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang, thông qua đó thấy được thực trạng pháp luật về QHSDĐ cũng như thực trạng thực hiện pháp luật về QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang. - Từ thực trạng thực hiện pháp luật QHSDĐ nói chung và hoạt động QHSDĐ để quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới của tỉnh huyện Nam Giang nói riêng, khóa luận mong muốn tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn để nâng cao hiệu quả 4
  5. hoạt động QHSDĐ trong công tác quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Nam Giang. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng mà khóa luận nghiên cứu đó là các quy định của pháp luật về hoạt động QHSDĐ. Đồng thời, tìm hiểu việc áp dụng pháp luật vào hoạt động QHSDĐ cũng như thực tiễn của hoạt động QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang. Về phạ m vi nghiên cứu, khóa luận chủ yếu nghiên cứu vấn đề về QHSDĐ và các quy định về quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới trong phạm vi các quy định của Luật đất đai năm 2003 và các văn bản pháp quy về vấn đề quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –Lê Nin. Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu các vấn đề dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn và lý luận giúp cho nội dung báo cáo mang một sắc thái riêng dựa trên nền tảng khoa học từ đó rút ra quan điểm cho bản thân. Ngoài những phương pháp đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác trong khóa luận đó là: - Phương pháp phân tích, tổng hợp chủ yếu được sử dụng ở chương lý luận về QHSDĐ, về quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam. - Phương pháp giải thích pháp luật được tác giả sử dụng để lý giải và phân tích các quy định của pháp luật về QHSDĐ, về quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam. - Phương pháp thống kê được sử dụng khi xử lý số liệu từ các báo cáo về hoạt động QHSDĐ của huyện Nam Giang. - Bên cạnh những phương pháp thống kê và điều tra xã hội học chủ yếu được sử dụng ở chương thực tiễn thực hiện pháp luật QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới trên toàn huyện để thấy được những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, bất cập tronzg công tác thực hiện pháp luật QHSDĐ trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới của huyện Nam Giang. 5
  6. 6. Bố cục khóa luận: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của khóa luận được chia thành bốn chương. Chương 1: Một số về đề lý luận về quy hoạch sử đụng đất và quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới. Chương 2: Nội dung cơ bản của pháp luật quy hoạch sử dụng đất. Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật quy hoạch sử dụng đất trong việc quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam. Chương 4: Phương hướng, giải pháp trong công tác quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đất xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Giang – Quảng Nam. 6
  7. II. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUY HOẠCH ĐẤT XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 1.1. Những vấn đề chung về quy hoạch sử dụng đất 1.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất. Về mặt bản chất, quy hoạch là sự chuyển hóa từ ý tưởng qua tư duy thành hành động nhằm tạo ra những kết quả để đạt được mục tiêu nhất định. Trên thực tế, ý tưởng và mong muốn của con người luôn có xu hướng nâng cao không ngừng nhưng điều kiện để thực hiện được ý tưởng thì luôn bị giới hạn bởi sự hạn chế của các nguồn lực, vì vậy cần phải có tư duy. Như vậy, quy hoạch là quá trình của tư duy lý thuyết quan hệ với từng sự việc được hình thành và thể hiện qua một quá trình hành động thực tế. Trong quá trình này nhà quy hoạch phải tính toán, cân nhắc và đề xuất những hoạt động cụ thể để đạt được kết quả dẫn đến mục tiêu. Mục tiêu đạt được phải đảm bảo tính hiệu quả và tính bền vững. Xét trên quan điểm đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt thì QHSDĐ là một phạ m trù kinh tế - xã hội và có thể xác định khái niệ m QHSDĐ là hệ thống các biện pháp của Nhà nước, quản lý và tổ chức sử dụng đất hợp lý, hiệu quả thông qua việc phân bố đất đai cho các mục đích sử dụng đất và định hướng tổ chức sử dụng đất trong các cấp lãnh thổ, các ngành, tổ chức đơn vị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, thực hiện đường lối kinh tế của Nhà nước trên cơ sở dự báo theo quan điể m sinh thái, bền vững, phù hợp với xã hội và bảo vệ môi trường Xét trên quan điểm đất đai là tài nguyên quốc gia, là một yếu tố cơ bản của sản xuất xã hội, nguồn lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội thì QHSDĐ là một hệ thống chỉ tiêu đánh giá tiềm năng đất đai, những loại hình sử dụng đất và các tiề m năng kinh tế - xã hội nhằm lựa chọn và xác định các giải pháp sử dụng đất tối ưu, đáp ứng các nhu cầu của con người trên cơ sở bảo vệ các nguồn tài nguyên lâu dài. Xét trên quan điểm đất đai là tài nguyên quốc gia, là một yếu tố cơ bản của sản xuất xã hội, nguồn lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội thì QHSDĐ là một hệ thống chỉ tiêu đánh giá tiềm năng đất đai, những loại hình sử dụng đất và các tiề m năng kinh tế - xã hội nhằm lựa chọn và xác định các giải pháp sử dụng đất tối ưu, đáp ứng các nhu cầu của con người trên cơ sở bảo vệ các nguồn tài nguyên lâu dài. Xét trên quan điể m đất đai là tài sản quốc gia do nhà nước đại diện sở hữu và kiể m soát thì QHSDĐ là sự tính toán, phân bổ đất đai cụ thể về số lượng, chất lượng, vị trí, không gian cho các mục tiêu kinh tế - xã hội để việc sử dụng đất phù 7
  8. hợp với các điều kiện về đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng và từng ngành sản xuất [19,112]2. Như vậy, việc lập QHSDĐ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài. Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, QHSDĐ nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập QHSDĐ chi tiết cho mình. Xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, làm cơ sở để tiến hành giao đất và đầu tư để phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ nhu cầu dân sinh, văn hóa – xã hội. Từ những phân tích trên ta có thể rút ra khái niệ m QHSDĐ như sau: QHSDĐ là quá trình tư duy của lý thuyết để hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng trong thực tế một cách bền vững để mang lại lợi ích cao nhất. Thực hiện đồng thời hai chức năng đó là điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp bảo vệ đất với môi trường và phát triển bền vững. 1.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất QHSDĐ là một trong những yếu tố quan trọng đối với phát triển nền kinh tế của đất nước. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì đặc điểm của QHSDĐ cũng khác nhau. QHSDĐ luôn là một bộ phận cấu thành của phương thức sản xuất xã hội nhất định trong giai đoạn lịch sử đó. Chính vì thế, khi phương thức sản xuất thay đổi thì đặc điể m của QHSDĐ cũng thay đổi theo. Trong thời kỳ trước, QHSDĐ nhìn chung còn mang nặng yếu tố chủ quan, các phương án QHSDĐ chưa chú trọng đến yếu tố môi trường và phát triển kinh tế. Các phương án QHSDĐ của xã hội trước chỉ chú ý tới những biện pháp trước mắt là ổn định cuộc sống của người dân chứ chưa chú trọng tới việc phát triển bền vững. Ngày nay, trước những thảm họa do thiên tai và môi trường gây nên, thêm vào đó là sức ép của sự gia tăng dân số khiến con người ngày càng chú ý tới vấn đề QHSDĐ. Con người đã có những biện pháp QHSDĐ một cách thích hợp nhằm ngăn chặn những ảnh hưởng xấu của môi trường cũng như hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. QHSDĐ không chỉ quan tâm đến vấn đề môi trường và sinh thái mà còn quan tâm đến các lĩnh vực khác như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân s ố… Tóm lại, chúng ta thấy đặc điểm của QHSDĐ trong mỗi giai đoạn khác nhau, luôn thể hiện chính sách cũng như đường lối của các giai cấp thống trị. Hay nói cách khác, QHSDĐ cũng mang bản chất giai cấp và thể chế chính trị của mỗi nhà 2 Đại học luật Hà Nội (2006), giáo trình luật đất đai, nhà xuất bản tư pháp Hà Nội 8
  9. nước trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội nhất định. Trong xu hướng cả thế giới đang đối mặt với những thảm họa mang tính toàn cầu thì yêu cầu về QHSDĐ phát triển một cách bền vững và bảo tồn được các di tích lịch sử là một yếu tố quan trọng cần được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm. 1.1.3 Sơ lược về quy hoạch và sử dụng đất ở Việt nam qua các thời kỳ Với những đặc điểm QHSDĐ ta có thể chia QHSDĐ qua năm giai đoạn cơ bản đó là giai đoạn trước năm 1980; giai đoạn 1980 đến 1986; giai đoạn 1987 đến 1993, giai đoạn 1993 đến nay. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, QHSDĐ cũng mang những nét đặc trưng riêng thể hiện bản chất chính trị, kinh tế và xã hội của giai đoạn đó. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam năm 1980 Vào thời kỳ trước năm 1980, khi mà ở nước ta chưa thực hiện công cuộc đổi mới đất nước thì QHSDĐ ở Việt Nam chưa thực sự nhận được quan tâm của Đảng và nhà nước. QHSDĐ không được coi là công tác của ngành quản lý đất đai mà chỉ được đề cập tới như một phần của quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp. Mặc dù công tác QHSDĐ lồng vào công tác phân vùng quy hoạch nông, lâm nghiệp đã được xúc tiến từ năm 1962 nhưng chủ yếu là do các ngành chủ quản tiến hành cùng với một số tỉnh, ngành có liên quan và chưa có sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt nam thời kỳ 1980 – 1986 Đây là giai đoạn chuẩn bị những điều kiện tiền đề cơ bản để nhà nước ra những chính sách đổi mới. Hiến pháp 1980 ra đời đã bắt đầu có những quy định về QHSDĐ. Như vậy nhà nước đã tham gia vào công tác quản lý đất đai theo quy hoạch như một chủ thể đặc biệt. QHSDĐ đã bước đầu được coi là công tác của ngành quản lý đất đai chứ không phải chỉ đề cập tới như một phần của quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp như ở thời kỳ trước năm 1980 nữa. Trong thời kỳ này, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ rõ phải xúc tiến công tác điều tra cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiên cứu chiến lược kinh tế - xã hội, dự báo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm (1986 – 1990). Các bộ ngành, các tỉnh, thành phố đã tham gia triển khai chương trình lập Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất. Trong đó, đã đề cập đến vấn đề sử dụng đất đai và sơ đồ đã được tính toán tương đối có hệ thống để khớp với cả nước, với các vùng kinh tế lớn, các huyện trong tỉnh với sự tham gia phối hợp của các ngành, đã bước đầu đánh giá được hiện trạng, tiề m năng và đưa ra các dự kiến sử dụng quỹ đất quốc gia. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam thời kỳ 1987 – 1993 9
  10. Đây là thời kỳ đánh dấu sự ra đời Luật đất đai năm 1987. Lần đầu tiên nước ta có một văn bản pháp luật riêng điều chỉnh đến lĩnh vực đất đai tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác QHSDĐ. Mặc dù Luật đất đai 1987 không thể khái quát hết mọi vấn đề của quan hệ pháp luật đất đai. Nhưng xét trên phương diện lịch sử thì Luật đất đai 1987 đã làm tròn được sứ mệnh lịch sử của mình. Thời kỳ này, nước ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới sau hội nghị đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Công cuộc đổi mới đất nước làm cho nền kinh tế đứng trước những khó khăn và thử thách lớn khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, đây là thời kỳ công cuộc đổi mới ở nông thôn diễn ra sâu sắc cùng với việc giảm vai trò quản lý tập trung của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, tăng quyền tự chủ cho hộ nông dân và thực thi các chính sách đổi mới khác, công tác quy hoạch sử dụng đất đai ở cấp xã nổi lên như một vấn đề cấp bách về giao đất, cấp đất, dãn dân và một số nơi có xu hướng đô thị hóa rõ rệt. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam thời kỳ 1993 - 2003 Khi đất nước chuyển sang một giai đoạn mới, Luật đất đai 1987 không thể đả m đương được sứ mệnh lịch sử của mình nữa nên yêu cầu mới đặt ra là phải thay thế luật cũ bằng một luật mới tiến bộ hơn. Để đáp ứng yêu cầu đó Luật đất đai 1993 ra đời nhằm điều chỉnh quan hệ đất đai theo cơ chế thị trường, xóa bỏ tình trạng vô chủ trong quan hệ sử dụng đất, xác lập quyền năng cụ thể cho người sử dụng đất. Ở thời kỳ này, công tác đất đai đi vào nề nếp sau một thời gian dài tuyệt đối hóa về công hữu hóa đất đai ở miền Bắc và buông lỏng công tác này ở các tỉnh phía Nam dẫn đến tình trạng có quá nhiều diện tích đất không có chủ sử dụng đất. Sau Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1992, Nhà nước triển khai công tác nghiên cứu chiến lược phát triển, quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội ở hầu hết các tỉnh thành, các vùng kinh tế, các vùng trọng điểm và quy hoạch phát triển ngành ở hầu hết các bộ ngành. Các công trình nghiên cứu này đều tính tới năm 2010, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong vòng 10 đến 15 năm tới, việc nghiên cứu triển khai công tác QHSDĐ trong phạm vi cả nước đang là vấn đề bức xúc được các ngành, các cấp và mọi thành viên xã hội hưởng ứng. - Quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam thời kỳ 2003 đến nay Năm 2003 là cái mốc quan trọng trong công tác quản lý đất đai, thời kỳ này đất đai thực sự được xem như là hàng hóa, được tham gia vào thị trường bất động sản một cách chính quy. Đây c ũng là thời kỳ Luật đất đai 2003 và Nghị định 181/2004/NĐ – CP ra đời nhằm điều chỉnh kịp thời QHSDĐ trong hoàn cảnh lịch sử mới. Thời kỳ này, công tác quy hoạch cũng được các cấp, các ngành và nhân dân quan tâm thực hiện. Các cơ quan chức năng đã bắt đầu có sự phối hợp với nhau khi tiến hành lập quy hoạch sử dụng đất. Việc lập QHSDĐ của các cấp, các ngành 10
  11. đã đi vào nề nếp, góp phần quan trọng tăng cường thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai và chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất trong nông nghiệp, nông thôn, đã giải quyết được tình trạng thiếu lương thực kéo dài và đưa nước ta vào nhóm những quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu nông thủy sản. Kinh tế nông thôn đã thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp và chuyền dần sang sản xuất hàng hóa, bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn được cải thiện. Qua những phân tích trên, tác giả sẽ thể hiện các giai đoạn phát triển của QHSDĐ qua sơ đồ như sau. gđ 3 gđ 5 gđ 1 2003 1986 1993 1980 gđ 2 gđ 4 * Sơ đồ 1: Sơ đồ thể hiện các giai đoạn phát triển QHSDĐ ở Việt Nam Như vậy, chúng ta thấy QHSDĐ của nước ta qua các thời kỳ đều đánh dấu sự phát triển từ thấp đến cao. Công tác QHSDĐ ngày càng được hoàn thiện nhằm đáp ứng được những yêu cầu mới của xã hội thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong công tác lập QHSDĐ. Mặc dù ở một số thời kỳ, QHSDĐ còn chưa được quan tâm đúng mức và bộc lộ nhiều hạn chế. Tuy nhiên, so với hoàn cảnh điều kiệ n xã hội lúc bấy giờ thì công tác QHSDĐ cũng đã mang lại nhiều đóng góp to lớn cho việc thực hiện QHSDĐ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất và kinh tế - xã hội tại thời điểm lịch sử đó. 1.2 Những vấn đề chung về xây dựng nông thôn mới: 1.2.1.Khái niệm về xây dựng Nông thôn mới Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị trị cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ và nghành nghề; các hình thức sản suất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tậng kinh tế- xã hội được tăng cường; bộ mặt ở nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đờ sống vật chất và tinh thần của người dân ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giả m nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hộ i được giữ vững. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ 11
  12. tăng trưởng có xu hướng giả m dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồ n lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng ở nhiều mặt hàng còn thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức chậm đổi mới sản xuất, chưa đáp ứng yêu cầu về phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và phát triển nông thôn thiếu qui hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội còn nhiều yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đồi sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Để giải quyết những tồn tại, hạn chế và yếu kém trên đây, Nghị quyết 26- NQ/TW ngày 05/8/2008 c ủa Ban Chấp hành Trung ương 7, khóa X về Nông nghiệp, nông dân và nông thôn đã xác định: - Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. - Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệ m vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt. - Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thầ n của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, 12
  13. công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. - Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệ m vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đàm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân. Như vậy chúng ta có thể rút ra khái niệ m về xây dựng Nông thôn mới như sau: Xây dựng nông thôn mới là một mục tiêu mang tính toàn diện, bao hàm cả phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nông thôn cũng như xây dựng Đảng, nó mang đậm đặc trưng thời đại. Có thể nói một cách khái quát rằng, xây dựng nông thôn mới phải đáp ứng được yêu cầu khoa học phát tri ển, xã hội ấm no, phát triển nông thôn song hành với thành thị, xây dựng nên nông thôn mới phồn thịnh. 1.2.2. Nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới: - Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn - Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị - Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn - Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn - Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn - Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân. 1.3. Thực hiện Pháp luật qui hoạch sử dụng đất để xây dựng nông thôn mới 1.3.1. Mối quan hệ giữa qui hoạch sử dụng đất và xây dựng nông thôn mới Trên cơ sở các nhiệ m vụ về xây dựng nông thôn mới đã được xác định tại Nghị quyết số 26-NQ/TW Trung ương 7 khóa X ngày 05/8/2008. Chúng ta nhận thấy, giữa qui hoạch sử dụng đất và xây dựng nông thôn mới chúng có mối quan hệ mật thiết, gắn liền với nhau. Xây dựng nông thôn mới gắn với việc qui hoạch lại sản 13
  14. xuất nông nghiệp theo hướng tăng năng suất, tạo sản phẩm nông nghiệp có giá trị thương mại cao; tiếp theo là gắn với qui hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm, khu hành chính xã.v.v. hay nói cách khác xây dựng nông thôn mới phải được nằm trong qui hoạch tổng thể về phát triển nông nghiệp, sắp xếp dân cư và đầu tư hạ tầng cơ sở. Do đó, để thực hiện được các vấn đề trên thì cần phải có kế hoạch, qui hoạch sử dụng đất để vừa làm cơ sở pháp lý trong công tác quản lý về đất đai, qui hoạch vừa để tạo được định hướng phát triển trong thời gian ngắn, trung và dài hạn đáp ứng được yêu cầu phát triển về xây dựng nông thôn mới. Nếu chính quyền địa phương có những định hướng, tầm nhìn tốt trong qui hoạch đất đai, thì vấn đề xây dựng các vùng sản xuất, cụm dân cư, đường xá, trường học, trung tâm hành chính của xã nông thôn mới sẽ thuận lợi, tạo động lực phát triển về lâu dài và có tính bền vững. Ngược lại, nếu công tác QHSD đất không được quản lý chặt chẽ, hoặc nói cách khác là chính quyền địa phương không quan tâm thực hiện, thì nhiệ m vụ xây dựng nông thôn mới sẽ gặp nhiều khó khăn, rời rạc, các vùng mạnh ai nấy làm, không theo một trật tự không gian và vùng cụ thể, vì vậy sẽ không tạo được động lực để phát triển kinh tế- xã hội nông thôn tại địa phương. 1.3.2. Sự cần thiết của thực hiện pháp luật qui hoạch với xây dựng nông thôn m ới Từ mối quan hệ mật thiết giữa QHSDĐ và xây dựng nông thôn mới như đã phân tích trên đây, thì việc thực hiện pháp luật QHSDĐ để xây dựng nông thôn mới là cần thiết, nó vừa đảm bảo về mặt pháp luật trong quản lý, sử dụng đất, đồng thời tạo được sự thống nhất trong định hướng phát triển về kinh tế- xã hội tại vùng nông thôn, nhất là tại các địa phương miền núi cao, biên giới để nhằ m thực hiện thành công các mục tiêu về xây dựng nông thôn mới theo Nghị quyết số 26-NQ/TW Trung ương 7 khóa X ngày 05/8/2008. Đặc biệt là trong những năm gần đây, khi dân số vẫn đang tiếp tục tăng, trong khi đó, diện tích đất có hạn, đất nông nghiệp dần thu hẹp, nếu không thực hiện pháp luật về QHSDĐ sẽ gây ra những tranh chấp, lấn chiế m, sử dụng đất không đúng mục đích, ảnh hưởng lớn đến việc sắp xếp vùng sản xuất, cụm dân cư, đất xây dựng cơ sở hạ tầng.v.v.từ đó tác động tiêu cực đến quá trình thực hiện đổi mới toàn diện ở nông thôn mà mục tiêu đã đề ra. Vì vậy, để tăng cường trong công tác quản lý sử dụng đất, cũng như đảm bảo các định hướng, qui hoạch về phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng nông thôn mới đi vào qui cũ, thống nhất. Nhất thiết việc thực hiện pháp luật QHSDĐ thực hiện trên thực tiễn. 14
  15. CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT Pháp luật về QHSDĐ bao gồ m hệ thống các quy định của Luật đất đai 2003 về các vấn đề liên quan đến QHSDĐ nhằ m tạo cơ sở pháp lý để hoạt động QHSDĐ có thể thực hiện tốt trong đời sống xã hội. Hiện nay, vấn đề QHSDĐ được quy định rất cụ thể từ điều 21 đến điều 30 tại chương 2 mục II Luật đất đai 2003 và được hướng dẫn từ điều 12 đến điều 29 nghị định số 181/2004/NĐ – CP. Ngoài ra, các nội dung QHSDĐ còn được hướng dẫn tại quyết định số 04/2005/QĐ – BTNMT và thông tư 04/2006/TT – BTNMT. Các quy định này tạo thành một hệ thống các quy phạ m điều chỉnh các quan hệ về QHSDĐ và được quy định cụ thể như sau: 2.1 Nguyên tắc lập quy hoạch sử dụng đất QHSDĐ có tính tổng thể rất cao, nội dung đề cập tương đối rộng nên khi lập phương án QHSDĐ cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của pháp luật đất đai. Trước đây Luật đất đai 1993 chưa có các quy định đề cập đến các nguyên tắc lập quy hoạch. Chỉ đến khi Luật đất đai 2003 có hiệu lực thì các nguyên tắc lập QHSDĐ mới được pháp luật quy định. Điều 21 Luật đất đai 2003 đã nêu lên tám nguyên tắc lập QHSDĐ. Các nguyên tắc lập QHSDĐ như sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lập quy hoạch. 2.2 Căn cứ lập quy hoạch sử dụng đất Khi lập QHSDĐ, nếu như chỉ tuân thủ vào các nguyên tắc của việc lập QHSDĐ mà không có các căn cứ để định hướng cho việc thực thi quy hoạch thì các phương án QHSDĐ sẽ không mang tính khả thi. Vì thế, chúng ta cần phải có những căn cứ để các phương án QHSDĐ có thể thực hiện một cách hiệu quả nhất. Luật đất đai 2003 đã quy định về các căn cứ lập QHSDĐ dựa trên sự kế thừa của Nghị định 68/2001/NĐ-CP của chính phủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Các căn cứ QHSDĐ được quy định tại điều 22 Luật đất đai 2003. Cụ thể, các căn cứ xây dựng quy hoạch phải xuất phát từ: Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước; quy hoạch phát triển của các ngành và các địa phương; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường; Hiện trạng sử dụng đất và nhu cầu sử dụng đất; Định mức sử dụng đất; tiến bộ khoa học và công nghệ có liên quan đến việc sử dụng đất; Kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất kỳ trước [18,27]3. 3 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003). Luật đất đai, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 15
  16. 2.3. Nội dung của quy hoạch sử dụng đất Từ những nguyên tắc và các căn cứ lập QHSDĐ, ta thấy nội dung của QHSDĐ luôn biến đổi phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở kế thừa những quy định về nội dung QHSDĐ của Luật đất đai 1993 và Nghị định 68/2011/NĐ – CP. Luật đất đai 2003 đã quy định nội dung QHSDĐ cụ thể như sau: Điều tra, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và hiện trạng sử dụng đất, đánh giá tiềm năng đất đai; xác định phương hướng, mục tiêu sử dụng đất trong kỳ quy hoạch; Xác định diện tích đất phải thu hồi để thực hiện các công trình, dự án; Xác định các biện pháp sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ môi trường; Giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất [18,29]4. 2.4. Kỳ quy hoạch sử dụng đất. Kỳ QHSDĐ là khoảng thời gian mà nhà nước đặt ra để chính quyền các cấp có cơ sở xây dựng chiến lược từ tổng thể đến chi tiết để thực hiện các nội dung QHSDĐ. Điều 24 luật đất đai 2003 quy định về kỳ QHSDĐ của tất cả các cấp là mười năm. Quy định về kỳ quy hoạch là một quy định mới so với các văn bản pháp luật điều chỉnh về QHSDĐ trước đây. Việc quy định về kỳ QHSDĐ giúp nhà nước quản lý đúng tiến độ thực hiện QHSDĐ của các cấp trong cả nước cũng như khoảng thời gian để nhà nước có thể kịp thời điều chỉnh những biến động về QHSDĐ theo quy định hiện hành (10 năm) vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý. Chúng ta áp dụng kỳ quy hoạch chung cho tất cả các cấp trong khi đó nhu cầu sử dụng đất, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở mỗi cấp quy hoạch lại khác nhau. So với quy hoạch của cả nước thì khoảng thời gian này còn tương đối ngắn, trong khi đó đối với cấp xã thì thời gian này khá dài, chưa phù hợp được với yêu cầu của quá trình đổi mới. Vì vậy cần phải xem xét lại các quy định về kỳ QHSDĐ cho phù hợp với khả năng và yêu cầu thực tế. 2.5. Trách nhiệm lập và xét duyệt quy hoạch sử dụng đất. Lập và xét duyệt QHSDĐ là một trong những bước quan trọng trong quá trình xây dựng QHSDĐ. Theo đó trách nhiệm lập và xét duyệt QHSDĐ được quy định rất cụ thể tại điều 25, 26 luật đất đai 2003 và được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định 181/2004/NĐ – CP của chính phủ về thi hành luật đất đai 2003. - Thứ nhất là các quy định của pháp luật về trách nhiệm lập QHSDĐ. Việc quy định trách nhiệ m lập QHSDĐ là nhằ m xác lập quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành khảo sát và lập QHSDĐ. Điều này nhằ m tách bạch trách nhiệ m của tập thể với trách nhiệ m của cá nhân đồng thời tăng cường ý thức trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền. 4 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), luật đất đai, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 16
  17. Việc lập QHSDĐ được pháp luật quy định tại điều 25 Luật đất đai 2003, điều 15 Nghị định 181/2004/NĐ – CP của Chính phủ. Theo đó: Chính phủ tổ chức và thực hiện lập QHSDĐ của cả nước; UBND tỉnh tổ chức thực hiện QHSDĐ của cấp mình; UBND huyện thuộc tỉnh có trách nhiệ m lập QHSDĐ của cấp huyện và UBND huyện thuộc thành phố trung ương lập QHSDĐ của cấp xã thuộc khu vực đô thị; UBND xã có trách nhiệm lập QHSDĐ của cấp xã không thuộc quy hoạch phát triển đô thị [18,30]5. - Thứ hai là về quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất QHSDĐ muốn đi vào thực hiện trong cuộc sống phải được cơ quan nhà nước có thẩ m quyền xem xét và phê duyệt. Xét duyệt là công đoạn cuối cùng trước khi các phương án quy hoạch được công bố và đưa vào thực hiện trong cuộc sống. Đây là bước mà cơ quan cấp trên xác nhận lại một lần cuối tính hợp lý và hợp pháp của các phương án QHSDĐ c ủa cấp dưới. Thẩm quyền quyết định và phê duyệt QHSDĐ được quy định tại điều 26 luật đất đai 2003 cụ thể như sau: Quốc hộ i quyết định QHSDĐ của cả nước do Chính phủ trình. Chính phủ xét duyệt QHSDĐ của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét duyệt QHSDĐ của đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp. UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt QHSDĐ cấp xã không thuộc vùng quy hoạch phát triển đô thị [18,31]6. 2.6. Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất Điều chỉnh QHSDĐ là việc cơ quan nhà nước thay đổi một số nội dung của QHSDĐ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Việc điều chỉnh chỉ thực hiện khi có một số thay đổi của các yếu tố có liên quan làm cho các QHSDĐ đã được xét duyệt không còn phù hợp và khi đi vào thực hiện không có tính khả thi. Việc điều chỉnh QHSDĐ được quy định tại điều 27 đã quy định rất cụ thể các trường hợp điều chỉnh QHSDĐ, về nội dung cũng như thẩ m quyền quyết định xét duyệt QHSDĐ của các cấp. Những quy định về điểu chỉnh đả m bảo được yêu cầu về tính khả biến của QHSDĐ. Đặc biệt quy định cơ quan có thẩm quyền xét duyệt QHSDĐ cấp nào thì có thẩm quyền xét duyệt điều chỉnh QHSDĐ cấp ấy là quy định hợp lý. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã quy định cụ thể hồ sơ xét duyệt và hồ sơ điều chỉnh xét duyệt QHSDĐ tại điều 17, 19, 20, 21 và 26 Nghị định 181/2004/NĐ - CP, theo đó mỗi cấp lập quy hoạch sẽ có những hồ sơ khác nhau. Nhìn chung các quy định của pháp luật về điều chỉnh QHSDĐ là khá đầy đủ và hợp lý. Tuy nhiên, hồ sơ xét duyệt điều chỉnh QHSDĐ chưa đề cập đến báo cáo đánh 5 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003). Luật đất đai, Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 6 Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nghị định 181/2004/NĐ - CP của chính phủ thi hành luật đất đai. 17
  18. giá môi trường chiến lược như các quy định của luật bảo vệ môi trường. Qua đó cho thấy sự thống nhất của Luật đất đai 2003 và Luật bảo vệ môi trường 2005 là chưa cao. 2.7. Công bố quy hoạch sử dụng đất Từ trước tới nay, người dân thường khó tiếp cận với các phương án QHSDĐ, phần lớn việc làm quy hoạch cho đến trình tự pháp lý để được phê duyệt và có hiệu lực đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, người dân không có được đầy đủ thông tin hoặc nếu có thì cũng chỉ là những thông tin không chính xác về quy hoạch. Chính vì vậy, pháp luật đã quy định các cơ quan nhà nước phải công khai toàn bộ các tài liệu về QHSDĐ nhằm tạo điều kiện cho người sử dụng đất biết để thực hiện đúng quy hoạch. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với các phương án QHSDĐ, tránh tình trạng một số người lợi dụng thông tin quy hoạch để trục lợi cho bản thân. Việc công bố QHSDĐ được thực hiện theo điều 28 luật đất đai 2003 và điều 27 Nghị định 181/2004/NĐ - CP của Chính phủ. Theo đó: - Bộ tài nguyên môi trường có trách nhiệm công bố công khai toàn bộ tài liệu về QHSDĐ của cả nước đã được quốc hội quyết định. Hình thức công bố bao gồ m: Công bố tại trụ sở cơ quan trong suốt kỳ QHSDĐ, đăng công báo, công bố trên mạng thông tin quản lý nhà nước của chính phủ và trích đăng trên báo hằng ngày của trung ương. - Sở TNMT và phòng TNMT có trách nhiệm công bố công khai toàn bộ tài liệu QHSDĐ của địa phương đã được xét duyệt. Hình thức công bố bao gồ m: công bố tại trụ sở cơ quan trong suốt thời kỳ QHSDĐ, công bố trên mạng thông tin quản lý nhà nước của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và trích đăng trên báo c ủa địa phương. - UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm công bố công khai toàn bộ tài liệu về QHSDĐ chi tiết và các dự án đầu tư đã được xét duyệt tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn trong suốt kỳ QHSDĐ. Những quy định trên giúp người dân có thể tiếp cận đầy đủ thông tin về QHSDĐ để biết và thực hiện, các cơ quan nhà nước thể hiện sự công khai, minh bạch trong quá trình xây dựng, lập, phê duyệt và đưa quy hoạch vào đời sống đồng thời thể hiện sự dân chủ, công khai trong công tác quy hoạch. Hình thức công bố thông tin QHSDĐ cũng được quy định đa dạng, người dân có thể tiếp cận thông tin QHSDĐ trên mạng Internet, báo chí… Song những quy định này trên thực tế vẫn còn mang tính hình thức, chưa thực sự mang lại nguồn thông tin hữu ích cho người dân. Người dân không biết đến các phương án quy hoạch, gây khó khăn cho việc thu hồi đất và bàn giao mặt bằng để nhà nước thực hiện các dự án đầu tư. Trong 18
  19. thời gian tới, các cơ quan chức năng nên làm tốt việc công bố thông tin QHSDĐ góp phần nâng cao hiệu quả của các phương án QHSDĐ trong cuộc sống, đả m bảo tính ổn định và chiến lược lâu dài. 2.8. Thực hiện quy hoạch sử dụng đất Thực hiện QHSDĐ là việc triển khai áp dụng các nội dung trong QHSDĐ và thực tiễn sử dụng đất. Đây chính là việc các cơ quan nhà nước thực hiện các hành vi quản lý đất đai theo quy định của pháp luật và theo ý đồ sử dụng đất đã được xét duyệt. Việc thực hiện QHSDĐ được quy định tại điều 29 luật đất đai 2003 theo đó: Chính phủ tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện QHSDĐ của cả nước, kiể m tra việc thực hiện QHSDĐ của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. UBND cấp tỉnh và cấp huyện chỉ đạo việc thực hiện QHSDĐ của địa phương, kiểm tra việc thực hiện QHSDĐ của địa phương cấp dưới trực tiếp. UBND xã chỉ đạo thực hiện QHSDĐ của địa phương, phát hiện, ngăn chặn các hành vi sử dụng đất trái với QHSDĐ đã được công bố [18,34]7. 2.9. Quản lý, giám sát quy hoạch sử dụng đất Quản lý là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng các biện pháp hành chính để thực hiện việc triển khai, giám sát quy hoạch. Điều 28 Nghị định 181/2004/NĐ – CP quy định quản lý QHSDĐ như sau: - UBND tỉnh và huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng theo đúng QHSDĐ. Chủ tịch UBND cấp tỉnh và huyện có trách nhiệ m phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm tại địa phương. - UBND xã theo dõi thực hiện QHSDĐ tại địa phương, khi có vi phạm xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩ m quyền xử lý. Chủ tịch UBND xã chịu trách nhiệ m về việc không ngăn chặn, không xử lý kịp thời để xảy ra các hành vi vi phạ m QHSDĐ đã được xét duyệt tại địa phương. - Sở TNMT, Phòng TNMT và cán bộ địa chính cấp xã tổ chức thanh tra việc thực hiện QHSDĐ. Trường hợp có vi phạm về thực hiện QHSDĐ vào mục đích ANQP thì sở TNMT có văn bản gửi Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An để xử lý. Từ những phân tích về các quy định pháp luật QHSDĐ, tác giả đưa ra sơ đồ thể hiện trình tự, thẩm quyền xây dựng QHSDĐ của các cấp trong cả nước như sau: Bước 1 Bước 2 Bước 3 Bước 4 Bước 5 Bước 6 Thứ tự 7 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật đất đai, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Tên 19 QHSDĐ
  20. Lập Công bố Thực Điều chỉnh Thông Xét duyệt hiện qua Lập hồ Thẩm sơ xét quyền duyệt xét duyệt QHSDĐ Qu ốc h ội Qu ốc h ội Bộ Bộ Qu ốc h ội Chính Chính cả nước phủ phủ TNTMT TNMT QHSDĐ HĐND Sở UBND Chính UBND UBND Chính cấp tỉnh tỉnh tỉnh phủ tỉnh tỉnh phủ TNMT QHSDĐ HĐND UBND UBND Phòng UBND UBND UBND cấp huyện huyện tỉnh huyện huyện tỉnh TNMT huyện QHSDĐ HĐND UBND UBND UBND UBND UBND UBND cấp xã huyện huyện tỉnh huyện tỉnh xã xã thuộc KVĐT QHSDĐ HĐND UBND UBND UBND UBND UBND UBND cấp xã huyện huyện xã xã xã xã xã không thuộc KVĐT QHSDĐ Bộ CA Bộ Bí mật Bộ CA Bộ Chính Chính Bộ QP phủ quốc gia Bộ QP phủ ANQP TNMT TNMT * sơ đồ 2: Sơ đồ thể hiện trình tự, thẩm quyền xây dựng QHSDĐ của các c ấp Qua sơ đồ trên, ta thấy giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng quy hoạch có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cơ quan cấp trên luôn thực hiện chức năng giám sát cấp dưới làm cho các QHSDĐ của các cấp hợp lý và phù hợp với quy hoạch tổng thể chung trong cả nước. Với cơ chế như trên, quá trình xây dựng, lập, quyết định xét duyệt vừa tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương, vừa phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước và thẩm quyền chuyên môn của cơ quan quản lý đất đai. Tóm lại, nội dung của pháp luật về QHSDĐ đã góp phần làm cơ sở pháp lý quan trọng để các phương án quy hoạch có hiệu lực pháp luật trong thực tế. Pháp luật 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2