intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kiểm soát quyền lực nhà nước theo hiến pháp 2013

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

76
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2). Trên tinh thần đó, bài viết tập trung vào làm rõ vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta theo tinh thần Hiến pháp 2013.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kiểm soát quyền lực nhà nước theo hiến pháp 2013

  1. KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 2013 PGS.TS Trương Hồ Hải35 - ThS. Đặng Viết Đạt36 Trải qua năm bản Hiến pháp: Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và 2013, tư duy về tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở nước ta ngày một hoàn thiện, trong đó cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước dần được khẳng định rõ. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2). Trên tinh thần đó, bài viết tập trung vào làm rõ vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta theo tinh thần Hiến pháp 2013. 1. Phát triển tư duy chính trị - pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các bản hiến pháp Quyền lực nhà nước vốn là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước đối với xã hội, nhằm tổ chức, điều hành mọi hoạt động xã hội trên cơ sở pháp luật. Trong đó, bao hàm cả việc cơ quan, nhân viên nhà nước thực hiện mọi quyền hạn, trách nhiệm mà pháp luật trao cho họ. Như vậy, việc nhà nước ban hành pháp luật, sau đó tổ chức và thực hiện pháp luật, và xem xét việc chấp hành pháp luật của các chủ thể pháp luật và tuân thủ pháp luật, xử lý những vi phạm pháp luật để bảo đảm trật tự, kỷ cương là một quy trình tất yếu, khách quan trong hoạt động quản lý nhà nước. Do đó, kiểm soát là hoạt động quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động giữa cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát là hoạt động để thực hiện chế độ phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lạm quyền và vượt quyền. So với các bản Hiến pháp đã qua, tư duy chính trị - pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta đã có sự phát triển qua các bản Hiến pháp và được thể hiện rõ ràng và đầy đủ nhất trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, đánh dấu nước ta là một nước dân chủ, tự do, độc lập. Lần đầu tiên quyền dân chủ của nhân dân được ghi nhận trong văn bản pháp luật có tính pháp lý cao nhất của nhà nước: “tất cả quyền bính đều thuộc về nhân dân”. Hiến pháp năm 1946 áp dụng chế độ “hành pháp hai đầu”. Theo đó, cách thức tổ chức thực hiện quyền hành pháp là một phần quyền lực thuộc về Chủ tịch nước, một phần thuộc về Thủ tướng, nhưng chủ yếu tập trung vào Chủ tịch nước. Điều 44, 47, 49 quy định: “Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phó Chủ tịch nước và Nội các. Chủ tịch nước chọn Thủ tưởng …. Chủ tịch nước chủ toạ Hội đồng Chính phủ”. Như thế Chủ tịch nước là người đứng đầu quyền hành pháp. Cùng với đó, bản Hiến pháp 1946 đã ghi nhận cơ chế “cân bằng quyền lực”. Hiến pháp đã tạo nên cơ chế “cân bằng quyền lực” hay cơ chế “kiềm chế quyền lực” giữa các nhánh quyền lực trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, đặc biệt là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Trong mối quan hệ với Nghị viện, “Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận được thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại, nếu được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố” (Điều 31). Với cơ chế này đã tạo ra sự kiểm soát giữa nhánh quyền lập pháp và quyền hành pháp, chống lạm quyền và đảm bảo đường hướng chính trị được thực thi nghiêm túc. Bên cạnh đó, Điều 54 Hiến pháp 1946 còn quy định Nghị viện có quyền biểu quyết tín nhiệm Nội các, nhưng trong hạn 24 giờ sau khi biểu quyết không tín 35 Học viện CTQG Hồ Chí Minh 36 Học viện Chính trị KV IV 33
  2. nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại …. Nội các mất tín nhiệm phải từ chức”. Những quy định này gắn vơi cơ chế “nghị viện giải tán chính phủ” được quy định trong hiến pháp nhiều quốc gia hiện nay. Trên phương diện tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp 1959 đã hình thành cơ chế tập quyền nhà nước vào Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, về mặt hành chính thì Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Theo tinh thần đó, Hiến pháp 1959 không đặt ra và coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung và kiểm soát quyền hành pháp nói riêng. Hiến pháp 1980 chú trọng việc tổ chức và phân công quyền lực nhà nước đi theo hướng tập quyền, tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực nhà nước. Mối tương quan giữa lập pháp và hành pháp không được xác định rõ như Hiến pháp năm 1946, thậm chí cũng không được như Hiến pháp năm 1959, mà có vẻ như là “sự thụt lùi” của “kỹ thuật tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước”. Điều này thể hiện ở quy định: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, còn Hội đồng Bộ trưởng là Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Trên thực tế, đại biểu Quốc hội chủ yếu là kiêm nhiệm, còn công việc chính lại làm việc trong các cơ quan tổ chức nhà nước. Từ đó dẫn tới tình trạng là Quốc hội khó có thể giám sát có hiệu quả được Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) theo đúng nghĩa của giám sát vì “đại biểu thường” khó có thể nói thẳng, nói thật với đại biểu có chức vụ. Đây là một bất cập trong hoạt động giám sát của Quốc hội, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước. Với việc coi trọng thực hiện nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề kiểm soát quyền hành pháp hầu như không được đặt ra trong Hiến pháp 19980. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thể hiện tư duy chính trị - pháp lý mới, đặt nền móng cho thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Hiến pháp đã quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân …. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”37 (Điều 2). Hiến pháp mới chỉ quy định cơ quan lập pháp thực hiện quyền giám sát đối với toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước trong đó bao gồm cả cơ quan hành pháp: “… Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (Điều 83). So với Hiến pháp 1946, thẩm quyền bất tín nhiệm đối với Nội các của Quốc hội không còn đề cập nữa, mà thay vào đó Quốc hội có quyền đặt vấn đề tín nhiệm đối với những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, trong đó có Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án Toá Án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Với quy định này, Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm cá nhân Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ nhưng không có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. Mặc dù, “Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) không tiếp tục quy định mô hình tổ chức bộ máy nhà nước tồn tại trong một thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp theo mô hình tổ chức bộ máy của một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nhưng chưa thể đưa ra một mô hình tổ chức bộ máy nhà nước mới – bộ máy nhà nước của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời đại với xu hướng toàn cầu hóa và phù hợp với những đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”38. Có thể nói, trong những năm qua, cách thức tổ chức và thực thi cơ chế kiểm soát quyền 37 Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 181. 38 GS, VS. Nguyễn Duy Quý - PGS, TS. Nguyễn Tất Viễn, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân – Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 289 34
  3. lực nhà nước ở nước ta đã có những đóng góp tích cực trong việc phát huy hiệu lực quản lý của nhà nước và quyền dân chủ của nhân dân, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng liên tục với tốc độ cao của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tiễn vận hành của mô hình tổ chức quyền lực và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta trong thời gian qua cũng đã bộc lộ những vấn đề cần được nghiên cứu và giải quyết. Có thể thấy, chúng ta chưa thực sự tạo ra được “chiếc phanh an toàn” cho sự vận hành của “bánh xe quyền lực”. Điều này thể hiện ở chỗ, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn tỏ ra yếu kém, dẫn đến tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền trong bộ máy nhà nước diễn ra tương đối phổ biến; có nơi, có lúc vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân dân. Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử còn hình thức, còn nhiều “vùng cấm” bị bỏ qua trong quá trình giám sát. Hệ thống các cơ quan kiểm tra, thanh tra tuy khá đầy đủ, nhưng chưa phát huy được vai trò của mình, hầu như không có khả năng phát hiện và xử lý tệ quan liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực trong bộ máy. Các cơ quan tư pháp vẫn chưa hoàn toàn thể hiện được tính độc lập trong quá trình xét xử, chưa thực sự là “cán cân công lý” trong việc bảo vệ pháp luật và bảo vệ quyền lợi của người dân. Vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã được khẳng định trong các văn kiện Đảng: “(…) Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”39. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn chưa có cơ chế pháp lý để hiện thực hoá quyền giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, nên vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể vẫn mang nặng tính hình thức, ít phát huy tác dụng trong thực tế. Các phương tiện thông tin đại chúng còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực và giám sát quyền lực nhà nước. Các thiết chế làm chủ của nhân dân còn chung chung và khó thực hiện..v.v.. Bên cạnh đó, nguyên tắc tập trung dân chủ và cơ chế tập thể lãnh đạo đã và đang tạo ra tình trạng khó xác định trách nhiệm cụ thể của các cá nhân và tổ chức trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Điều này dẫn đến hiện tượng “núp bóng tập thể”, nhân danh tập thể để lạm quyền, vụ lợi mà không phải chịu trách nhiệm. Vì lẽ đó, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước tuy có, nhưng chưa phát huy được hiệu quả. Hiến pháp năm 2013 ra đời đánh dấu sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy chính trị - pháp lý trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho yêu cầu đẩy mạnh phát duy dân chủ và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp mới đã quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến ở nước ta, quy định về kiểm soát quyền lực nhà nước được quy định rõ ràng, trang trọng ở những điều đầu tiên của Hiến pháp. Nếu như các Hiến pháp trước đó mới chỉ quy định tính thống nhất của quyền lực nhà nước, sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong tổ chức và thực thi quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, đến Hiến pháp năm 2013 ngoài việc tiếp tục khẳng định những điểm trên, còn quy định thêm về kiểm soát quyền lực nhà nước. Việc quy định thêm này không chỉ là sự bổ sung mang tính chất cơ học mà đó là sự phát triển tư duy chính trị - pháp lý về tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Sự nhận thức đó khẳng định rằng, nếu thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà nước, thì trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước không thể đảm bảo được tính thống nhất, và không đảm bảo được sự phân công, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan nhà nước trong thực thi quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. 39 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 87. 35
  4. 2. Vai trò của Hiến pháp năm 2013 đối với kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiên nay Kiểm soát quyền lực nhà nước được hiểu là cơ chế chính trị – pháp lý được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân địa phương thực hiện bằng phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, tài phán, phản biện xã hội, v.v.. nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước được thực hiện liên tục, đúng đắn và đầy đủ theo pháp luật, phát huy hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính sách công, pháp luật và điều hành mọi hoạt động kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà nước và nhân dân. Hiến pháp năm 2013 ra đời là cơ sở pháp lý cao nhất, là công cụ quan trọng nhất để kiểm soát chặt chẽ quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều này được thể hiên ở nội dung sau: Thứ nhất, Hiến pháp trở thành văn bản pháp lý cao nhất để kiểm soát quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực công xuất phát từ xã hội được chế định bằng pháp luật, do giai cấp cầm quyền trong xã hội nắm giữ để hiện thực hóa ý chí và nguyện vọng của giai cấp mình trên cơ sở đáp ứng ở mức độ nhất định lợi ích của các giai cấp và tầng lớp khác. Giai cấp cầm quyền sử dụng quyền lực nhà nước nhằm duy trì trật tự xã hội theo hướng có lợi cho giai cấp mình. Để đáp ứng yêu cầu đó, trong xã hội dân chủ, giai cấp cầm quyền tổ chức quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm của nhà nước pháp quyền. Trong đó, kiểm soát quyền lực là vấn đề quan trọng trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước của nhà nước pháp quyền. Nhà nước là một thiết chế xã hội của cộng đồng dân cư, sinh sống trên lãnh thổ quốc gia nhất định, do đó, quyền lực của nhà nước là do dân cư, xã hội quy định và phải bị kiểm soát bởi quyền lực, ý chí của cộng đồng. Quyền lực nhà nước suy cho cùng chỉ là quyền lực “phái sinh” từ quyền lực cộng đồng xã hội. Nói cách khác, nhà nước nhận quyền lực từ xã hội, tức là từ công dân. Việc nhận và trao quyền đó trong nhà nước pháp quyền phải được tiến hành bằng cơ chế Hiến định và theo nguyên tắc dân chủ. Hiến pháp là văn bản xác định cội nguồn quyền lực, giới hạn quyền lực của nhà nước, cơ chế vận hành quyền lực của các thể chế xã hội trong hệ thống chính trị. Hơn nữa, “Hiến pháp được ban hành bởi nhân dân như một văn kiện kiểm soát quyền lực của chính quyền”40. Trên cơ sở Hiến pháp, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước được xác định, cụ thể hóa các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước; định ra nhiệm vụ, quyền hạn của các chức vụ trong các cơ quan nhà nước; quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các chức vụ trong bộ máy nhà nước. Theo đó, các cơ quan, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước chỉ được hoạt động trong khuôn khổ, thẩm quyền của mình, không được vượt ra khỏi khuôn khổ đã được pháp luật quy định, tức là theo nguyên tắc pháp quyền: “công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Ngược lại, công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật quy định”41. Điều đó có nghĩa là, trong nhà nước nước pháp quyền, nhà nước ban hành ra pháp luật, sử dụng pháp luật làm công cụ hữu hiệu và hợp pháp để quản lý xã hội, nhưng nhà nước cũng phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật, tức là nhà nước không được đứng trên pháp luật, mà pháp luật chính là “chuẩn giá trị” để nhà nước tự hoàn thiện bản thân. Trên thực tế, những người nắm giữ quyền lực (do nhà nước giao phó) khi thực thi nhiệm vụ của mình luôn có xu hướng lạm quyền, lộng quyền, tức là bị quyền lực tha hóa. Những người này sử dụng quyền lực của mình để mưu lợi cá nhân, xâm hại đến lợi ích công dân, lợi ích cộng đồng và xã hội, nghiêm trọng hơn là vi phạm về chế độ dân chủ dẫn đến 40 Ban Biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế gới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 42 - 43 41 GS, VS. Nguyễn Duy Quý, PGS, TS. Nguyễn Tất Viễn: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân – Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, HN. 2008, tr.58. 36
  5. mất dân chủ trong nhà nước và xã hội. Cho nên, để duy trì và phát huy dân chủ trong nhà nước và trong xã hội, pháp luật phải trở thành công cụ đắc lực trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Thông qua pháp luật, nhà nước pháp quyền quy định những biện pháp khác nhau để hạn chế quyền lực của chính bản thân nhà nước, qua đó, ngăn chặn hiện tượng lộng quyền, lạm quyền của những người thừa hành quyền lực nhà nước. Một mặt, nhà nước pháp quyền quy định các hình thức kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước (giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với các cơ quan của nhà nước, giám của xã hội đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước và hoạt động kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với cấp dưới); mặt khác, nhà nước quy định các chế tài khác nhau đối với cá nhân, tổ chức, cơ quan vi phạm pháp luật và vi phạm lợi ích xã hội, nhà nước và công dân; ngoài ra, nhà nước còn phải cụ thể hóa cơ chế “người dân ủy quyền cho nhà nước nhưng không bị mất quyền” bằng pháp luật, nhằm phát huy quyền làm chủ của người dân và đảm bảo quyền đó được thực thi trong thực tế. Thứ hai, Hiến pháp thừa nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân nhằm kiểm soát chặt chẽ quyền lực nhà nước. Mục tiêu của kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, Hiến pháp đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính chị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật”(Điều 14) quy định này thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp, bởi vì Hiến pháp năm 1992 chỉ ghi nhận quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc hạn chế quyền phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đó là “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” (Điều 14). Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà phải “theo quy định của luật”. Hiến pháp đã bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước, thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm bổ sung quan trọng về quyền con người trong Chương II là một bước tiến đáng kể về tư duy nhà nước pháp quyền và thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định quyền sống; quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghiên cứu và thụ hưởng các kết quả khoa học; quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp; quyền được sống trong môi trường trong lành…. Hiến pháp năm 2013 còn khẳng định mạnh mẽ mọi công dân Việt Nam đều quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; được nhà nước bảo hộ, không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm. 37
  6. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Mọi công dân có quyền có nơi ở hợp pháp, có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và việc khám xét chỗ ở do luật định; có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định pháp luật; có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai và được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình. Quyền sở hữu tư nhân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội; có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu. Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. Công dân có quyền học tập, có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó. Đồng thời, Hiến pháp 2013 cũng xác định rõ nguyên tắc và điều kiện thực thi quyền công dân; cụ thể: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 15); Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện tư duy chính trị - pháp lý mới trong việc quy định chế định quyền con người, quyền công dân; quyền con người thể hiện qua dân chủ đại diện, tạo cơ sở pháp lý quan trọng về bảo vệ, bảo đảm và thức đẩy các quyền con người ở nước ta; tuy vậy trong nội dung và cách thức quy định về chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 còn nhiều hạn chế như chưa có sự phân biệt rõ về quyền con người và quyền công dân; chưa xác định cụ thể vể trách nhiệm, cơ chế trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người và quyền công dân. Còn ở Hiến pháp năm 2013 có một điểm rất mới là đã không còn các quy định theo cách thức được Nhà nước thừa nhận các quyền con người, mà quyền con người ở đây đã có sự phân biệt khác nhau giữa quyền con người và quyền công dân. Theo đó quyền con người được hiểu là quyền tự 38
  7. nhiên vốn có của con người từ khi sinh ra; còn quyền công dân trước hết cũng là quyền con người nhưng việc thực hiện nó gắn với vị trí pháp lý của công dân trong quan hệ với nhà nước, được nhà nước bảo đảm đối với công dân của nước mình và “nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của nhà nước” (Điều 6) và Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo cũng như phải bảo vệ cho những quyền đó được thực hiện trên thực tế. Đáng chú ý trong Hiến pháp 2013 cũng đã có sự thể hiện rõ sự thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân, quyền nào là nhóm quyền được áp dụng đối với mọi cá nhân với tư cách là quyền con người, quyền nào là nhóm quyền chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam với tư cách là các quyền công dân. Quyền con người cũng là quyền công dân, nhưng phải có một sự phân định rạch ròi, những thứ mà mọi người được hưởng thì đó là nhân quyền (quyền con người); những gì công dân được hưởng thì đó là quyền công dân và mục đích cuối cùng của Hiến pháp là được sinh ra để đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Qua đó, Hiến pháp năm 2013 đã thực sự đề cao quyền vốn có của con người. Nếu như các quyền con người thể hiện ở quyền công dân thì quyền công dân phải là những quyền vốn có của con người mà Nhà nước phải thừa nhận vì là những quyền tự nhiên vốn có. “Quy định về quyền công dân thì phải đặt công dân ở vị trí chủ thể, những nhiều quy định về dân quyền trong Hiến pháp Việt Nam đa phần đặt Nhà nước ở vị trí chủ thể, còn công dân như là đối tượng được ban cho quyền chứ không phải được thừa nhận quyền” 42. So với Hiến pháp năm 1992, các quy định về quyền con người có thể “gây cảm giác” rằng quyền con người không phải là quyền vốn có do Tạo hóa ban tặng cho con người mà do Nhà nước ban tặng cho công dân. Với tinh thần đó, hoàn toàn có thể khẳng định, Hiến pháp năm 2013 đã phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hơn nữa, những quy định tiến bộ này về quyền con người, quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 một lần nữa đã thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ quyền lực nhà nước nhằm ngăn ngừa khả năng xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước trên thực tế. Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước; đảm bảo sự phân công, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lực nhà nước về bản chất là thuộc về nhân dân, do nhân dân ủy nhiệm. Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ quyền tự do và quyền sở hữu do lao động đem lại như là bảo đảm quyền tự nhiên của mỗi công dân. Tự do cho con người vừa là mục đích, vừa là giới hạn quyền lực của nhà nước. Hơn nữa, xét về bản chất, bản thân quyền lực nhà nước là thống nhất, nó thuộc về một chủ thể nhất định là một giai cấp cầm quyền. Tuy nhiên, tính thống nhất đó không phải là tuyệt đối bởi lẽ nó phải được thể hiện thông qua các nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp theo sự phân công của xã hội đối với từng nhánh quyền lực đó. Như vậy, tính thống nhất bao gồm cả sự phân công và sự phân công đó nằm trong thể thống nhất của quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, xét theo cơ chế tổ chức thì quyền lực nhà nước cao nhất (những chức năng và thẩm quyền cao nhất, lớn nhất) phải nằm trong tay những cơ quan đại diện cho nhân dân vì xét đến cùng, thì đó chính là quyền lực của nhân dân và nhân dân giao phó quyền lực cho các đại điện của mình 43. Chính vì thế, quyền lực nhà nước là một thể 42 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến – Một số tiểu luận của các học giả nước ngoài, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2012, tr. 7. 43 GS, VS. Nguyễn Duy Quý - PGS, TS. Nguyễn Tất Viễn, 2008, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân – Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.161 – 162. 39
  8. thống nhất, xuất phát từ nhân dân. Quyền lực này thể hiện ý chí, nguyện vong của nhân dân, được giai cấp cầm quyền đại diện và thể chế hóa thành luật pháp. Quyền lực đó phải được tổ chức thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước trong thúc đẩy xã hội phát triển. Các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là các mặt trong chỉnh thể quyền lực nhà nước, chúng vừa thống nhất, vừa đấu tranh nhằm kiềm chế, kiểm soát lẫn nhau, qua đó thúc đẩy nhau cùng phát triển và đảm bảo duy trì sự tồn tại và phát triển quyền lực nhà nước. Suy cho cùng, đây cũng là xu thế vận hành và phát triển của quyền lực nhà nước, nhằm xây dựng cơ sở chính trị - pháp lý cho kết thúc sự tồn tại của bản thân mình trong tương lai. Trên phương diện lý luận và thực tiễn, quyền lực nhà nước tự thân không thể phân chia mà ở trong một chỉnh thể thống nhất, đồng nhất trong một khối được gọi là “quyền lực nhà nước”. Có thể phân biệt từng bộ phận lập pháp, hành pháp và tư pháp xét trên phương diện thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện những chức năng của mình nhằm đảm bảo chức năng của nhà nước được thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, không thể nói quyền lực nhà nước là lập pháp, hành pháp hay tư pháp. Như thế, quyền lực nhà nước là một thể thống nhất, nhưng quá trình thực thi chức năng khác nhau, thì quyền lực nhà nước được chia thành các quyền khác nhau (được hiểu là thẩm quyền). Hơn nữa, quyền lực nhà nước thống nhất không chỉ thể hiện nguồn gốc quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, mà còn thể hiện sự thống nhất các nhánh quyền lực trong thể thống nhất của quyền lực nhà nước. Hơn nữa, sự thống nhất quyền lực nhà nước còn thể hiện quyền lực nhà nước ở trung ương và quyền lực nhà nước ở địa phương luôn thống nhất với nhau. Điều này thể hiện việc chúng ta vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo học thuyết tam quyền phân lập vào tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng và hoàn thiên Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước, ngoài việc phân công rành mạch nhiệm vụ quyền hạn của các quyền để tạo cơ sở cho kiểm soát quyền lực; Hiến pháp năm 2013 còn tạo lập cơ sở Hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định: “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp” (Khoản 2, Điều 119). Như vậy, Hiến pháp lần này tuy chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách như Nghị quyết của Đảng đã đề ra, nhưng với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định, đây chính là cơ sở để Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Thanh tra, Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp một cách hữu hiệu hơn. Tóm lại, kiểm soát quyền lực nhà nước không chỉ là chủ trương chính trị mà đã trở thành nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở nước ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân, ngăn ngừa hiệu quả sự “tha hóa” quyền lực nhà nước và đảm bảo thực hiện thành công mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./. 40
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2