intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kiến thức tài chính

Chia sẻ: HOANG Thai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:39

236
lượt xem
131
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tầm quan trọng của một kế hoạch lãi/lỗ: A i là người cần một kế hoạch lãi/lỗ? Có phải việc đầu tư chỉ là mua gốc bán ngọn không? Nếu như lúc nào cũng mua gốc bán ngọn thì thật là tuyệt, nhưng chắc chắn rằng điều này gần như là không thể. Hơn nữa, các nhà đầu tư cũng chỉ là con người: cảm xúc thường làm dao động sự phán đoán và bản chất chúng ta luôn ghét sự thất bại. Thất bại trong giao dịch chứng khoán thành ra không chỉ làm thiệt hại cho ví tiền mà còn làm tổn thương...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kiến thức tài chính

  1. Tầm quan trọng của một kế hoạch lãi/lỗ Ngày 14 tháng 4 năm 2009 Ai là người cần một kế hoạch lãi/lỗ? Có phải việc đầu tư chỉ là mua gốc bán ngọn không? Nếu như lúc nào cũng mua gốc bán ngọn thì thật là tuyệt, nhưng chắc chắn rằng điều này gần như là không thể. Hơn nữa, các nhà đầu tư cũng chỉ là con người: cảm xúc thường làm dao động sự phán đoán và bản chất chúng ta luôn ghét sự thất bại. Thất bại trong giao dịch chứng khoán thành ra không chỉ làm thiệt hại cho ví tiền mà còn làm tổn thương cái tôi của chính chúng ta. Thường thì các nhà đầu tư kiếm lời bằng cách bán các cổ phiếu tăng giá, giữ lại những cổ phiếu xuống giá với hy vọng chúng sẽ tăng giá trở lại, và như vậy, những cổ phiếu này co lại còn một phần so với giá trị trước đó. Vậy làm thế nào các nhà đầu tư có thể tránh được những hậu quả đó? Một giải pháp được đưa ra là phải học để trở thành một nhà đầu tư có kỷ luật và phải thông qua một kế hoạch lãi/lỗ. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi sâu vào chiến lược và sẽ chỉ cho bạn thấy sử dụng một kế hoạch lãi/lỗ như thế nào để có được số dư. Một kế hoạch lãi/lỗ là gì? Kế hoạch này là một bước mà rất nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ (và các nhà đầu tư chuyên nghiệp) thường coi nhẹ. Kế hoạch lãi/lỗ là tập hợp những giới hạn nhằm xác định mức độ thua lỗ lớn nhất hoặc lợi nhuận mà nhà đầu tư kiếm được trên một cổ phiếu. Một phần rất quan trọng trong việc đầu tư là phải tính đến những thua lỗ trong kế hoạch đầu tư của mình, bởi vậy kế hoạch lãi/lỗ sẽ là cốt lõi cho một chiến lược chính xác. Tất cả chúng ta đều mắc phải sai lầm khi lựa chọn cổ phiếu và phần lớn đều bị mất tiền trên thị trường chứng khoán. Cái tạo nên những nhà đầu tư vĩ đại đó chính là khả năng nhận biết những lựa chọn sai lầm của họ và sử dụng chúng làm bài học cho những quyết định đầu tư sau này. Một kế hoạch lãi/lỗ giúp bạn nhận ra những sai lầm bằng cách cho phép bạn tách biệt vấn đề tình cảm với đầu tư. Nếu bạn không quá sốt sắng tới lợi nhuận mà chỉ xem chúng hoàn toàn như một phương tiện thúc đẩy sự lưu thông tiền mặt (trên hết cả là bản ngã của bạn) thì bạn sẽ có nhiều thời gian dễ dàng hơn để xem những cổ phiếu thua lỗ và hơn nữa là kiểm soát được chúng. Đặt kế hoạch cho mình Đặt ra một kế hoạch có thể khó hơn rất nhiều những gì bạn nghĩ. Trước tiên, bạn sẽ phải xác định mức lợi nhuận tối đa mà bạn sẽ chấp nhận và mức thua lỗ tối đa mà bạn cho phép đầu tư, nhưng các giới hạn tối đa và tối thiểu đó không nhất thiết phải áp dụng cho tất cả các loại cổ phiếu. Ví dụ: khi so sánh một cổ phiếu có tính thanh khoản cao (blue chip stock) với một cổ phiếu có giá trị thấp đang tăng trưởng (small-cap growth stock) thì khả năng tăng hay giảm 10% giá cổ phiếu có tính thanh khoản cao trong một năm ít hơn rất nhiều so với cổ phiếu có giá trị thấp. Nói một cách khác, bạn phải phân tích riêng từng cổ phiếu để ước tính nó có thể biến động đến mức nào. Một số nhà đầu tư thường sử dụng phương pháp phân tích kỹ thuật (technical analysis) hoặc phân tích cơ bản (fundamental analysis) hoặc kết hợp cả hai để xác định những giới hạn thích hợp cho lợi nhuận và thua lỗ. Một cách khác để bạn đặt ra những giới hạn cho mình là mô hình hóa kế hoạch của bạn dựa trên việc thực hiện các mốc chuẩn đã đặt ra như chỉ số hoặc thậm chí dựa trên thành quả trước đây trong danh mục đầu tư của mình. Một yếu tố khác mà bạn phải tính đến khi đặt kế hoạch lãi/lỗ là mức độ rủi ro cho phép dựa trên các yếu tố như cá tính của bạn, khung thời gian và nguồn vốn của mình. Điển hình là những người quan tâm tới rủi ro thường có những giới hạn chặt chẽ hơn những người không bận tâm tới rủi ro. Những người thích rủi ro thường sẽ kiếm nhiều lợi nhuận tới mức có thể từ việc cổ phiếu tăng giá, nhưng những nhà đầu tư bảo thủ
  2. hơn có thể bán cổ phiếu sớm hơn thời điểm tăng giá để loại trừ rủi ro thua lỗ, điều có thể xảy ra khi cổ phiếu rớt giá nhanh chóng. Nếu bạn muốn tránh xa rủi ro, thì một kế hoạch lãi/lỗ với 10% có thể là không phù hợp hoặc thậm chí là không thực tế đối với bạn. Mặt khác, nếu bạn sẵn sàng chấp nhận thêm rủi ro cùng với lợi nhuận tiềm năng thì 10% của kế hoạch lãi/lỗ có thể là thích hợp với bạn hơn. Triển khai kế hoạch lãi/lỗ của mình Ngay khi bạn quyết định con số lãi/lỗ, dù bạn là người bảo thủ hay là người năng động thì bạn cũng đưa kế hoạch đó vào hành động với càng ít cản trở càng tốt. Hãy nhớ rằng, kế hoạch này có hai yêu cầu: bạn phải bán cổ phiếu (1) nếu nó giảm xuống tới mức độ nào đó và (2) nếu nó tăng tới một mức nhất định. Ngày nay, các nhà môi giới chứng khoán sẽ không để cho bạn đặt hai lệnh bán khác nhau cho cùng một loại cổ phiếu, vì vậy bạn phải xác định cổ phiếu nào bạn ưu tiên bán ra trước. Khôn hơn hết là bạn nên đặt lệnh cho các cổ phiếu để ngăn chặn trước khả năng sụt giá: rất nhiều nhà đầu tư khôn ngoan sử dụng lệnh cắt lỗ nhằm hướng dẫn nhà môi giới chứng khoán bán hay mua một cổ phiếu ngay khi nó đạt tới mức giá nhất định. Việc cắt lỗ đảm bảo rằng bạn sẽ không bị nhấn chìm trong thị trường xuống giá, đặc biệt là không phải lúc nào bạn cũng theo dõi được tất cả các phiên giao dịch. Khi bạn đặt lệnh với nhà môi giới chứng khoán của mình, hãy đưa ra mức giá mà bạn cho rằng tỷ lệ phần trăm thua lỗ là tối đa và sau đó hãy ngồi và chờ kết quả. Nếu giá khớp lệnh ở trần trên so với dự kiến của bạn thì bạn chỉ cần thay đổi giá cho lệnh cắt lỗ và bán ngay cổ phiếu của mình. Giữ đúng kỷ luật Khi đã có bản chiến lược lãi/lỗ trong tay thì bạn phải nhớ rằng toàn bộ ý tưởng của kế hoạch là để thiết lập những phương châm chỉ đạo nghiêm ngặt nhằm quyết định khi nào cần bán cổ phiếu. Chắc chắn rằng, bạn sẽ cảm thấy đau lòng khi thấy cổ phiếu vẫn tiếp tục tăng giá khi bạn bán ra, nhưng thường thì bán một cổ phiếu đang lên giá tốt hơn là đợi cho đến lúc phải bán hạ giá khi giá của nó đang sụp xuống sau khi đã đạt tới giá đỉnh điểm. Chính Joseph P. Kennedy đã từng nói “chỉ có một thằng ngốc mới giữ lại cổ phiếu ở mức giá cao nhất”. Kết luận Hãy nhớ rằng những con số ví dụ của chúng tôi là sự suy rộng. Và để đặt một kế hoạch bạn cần phải có sự nghiên cứu tỉ mỉ, phân tích, tự đánh giá và có cái nhìn thực tế. Còn việc đặt một giới hạn lợi nhuận ở mức 100% (gấp đôi số vốn của bạn) không có ý nghĩa gì nếu bạn đầu tư vào các công ty có mức độ rủi ro thấp với tốc độ tăng trưởng đều mỗi năm là 15%. Dưới đây là một vài điểm đáng nhớ: - Một cổ phiếu giảm 50% có nghĩa là bạn sẽ cần gấp đôi số tiền để lấy lại vốn. Kiểm soát thua lỗ là chìa khóa cho chiến lược đầu tư hiệu quả. - Mắc phải sai lầm là bản chất của con người. Một khi bạn nhận ra điều này, bạn sẽ thấy dễ dàng hơn. - Mua cổ phiếu và giữ nó trong một thời gian dài không có nghĩa là bạn sẽ kiếm được tiền. Một chiến lược mua và giữ sẽ chỉ hiệu quả khi bạn chọn được những công ty phù hợp. Và điểm quan trọng nhất trong việc đặt ra kế hoạch lãi/lỗ là hãy bám sát vào nó! Quản trị vốn lưu động trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngày 13 tháng 4 năm 2009
  3. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự thất bại của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) là do năng lực quản trị tài chính hạn chế, đặc biệt trong việc hoạch định nguồn tài trợ dài hạn và quản trị vốn lưu động, thể hiện qua tình trạng thiếu vốn, mất tính thanh khoản. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả muốn đề cập tới một số điều mà các nhà quản lý SME cần lưu tâm trong quản trị vốn lưu động. Vốn lưu động là một chỉ số liên quan đến lượng tiền một DN cần để duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh thường xuyên (được tính bằng cách lấy tổng tài sản ngắn hạn trừ đi tổng nợ ngắn hạn). Các nhà phân tích thường lấy chỉ số này làm căn cứ để đo lường hiệu quả hoạt động cũng như tiềm lực tài chính trong ngán hạn của DN. 1.Quản lý nợ phải thu Nhiều SME không đầu tư đầy đủ nguồn lực cũng như chính sách trong việc theo dõi và thực hiện việc thu nợ, mặc dù khoản này chiếm phần không nhỏ trong tổng vốn lưu động. Thời gian thu hồi nợ càng ngắn thì DN càng có nhiều tiền để quay vòng vốn. Dễ rút ngắn thời gian trung bình từ khi bán hàng đến khi thu được nợ từ khách hàng, nhà quản lý SME nên đưa ra một giải pháp toàn diện từ chính sách, hệ thống, con người, công cụ hỗ trợ đến kỹ năng, quy trình thu nợ. Chính sách Quy đinh về điều kiện khách hàng đủ tiêu chuẩn được nợ, hạn mức nợ sau khi đã kiểm tra các thang bậc đánh giá cho từng tiêu chí cụ thể về khả năng thanh toán, doanh thu dự kiến, lịch sử thanh toán, cơ sở vật chất... của từng khách hàng. Quy định về người phê chuẩn cho các hạn mức nợ khác nhau trong nội bộ DN, từ tổng giám đốc, giám đốc bán hàng, trưởng phòng, đến nhân viên bán hàng. Thưởng hợp lý cho những nhân viên thu nợ đạt được chỉ tiêu đề ra để động viên, khuyến khích nhân viên làm việc. Các chính sách này là nền tảng, là tài liệu hướng dẫn cho cả hệ thống và là một kênh thông tin hiệu quả liên kết các phòng, ban trong DN trong quá trình phối kết hợp để quản lý công nợ. Con người DN nên có một bộ phận chuyên trách về quản lý thu nợ và theo dõi công nợ, chia theo ngành nghề kinh doanh của khách hàng, vị trí địa lý hoặc giá trị công nợ. Những nhân viên này được đào tạo về kỹ năng giao tiếp qua điện thoại, khả năng thuyết phục khách hàng thanh toán hoặc cam kết thanh toán, cách xử lý các tình huống khó, sử dụng thành thạo các phần mềm hỗ trợ... Công cụ DN nên đầu tư phần mềm kế toán có phần hành (module) hỗ trợ quản lý công nợ. Những phần mềm ứng dụng này có thể ra được các báo cáo tổng hợp cũng báo cáo công nợ chi đến khách hàng theo các tiêu chí quản trị, giúp tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả công việc của nhân viên thu nợ. Quy trình - Trước khi ký hợp đồng cho khách nợ, nhân viên bán hàng nên trực tiếp đến thăm trụ sở công ty khách hàng để trao đổi, thu thập thông tin, tiến hành đánh giá xem khách hàng có điều kiện được nợ không. Sau đó đề xuất hạn mức tín dụng cho khách hàng. Khi ký hợp đồng phải qua sự kiểm tra của bộ phận quản lý công nợ để chắc chắn rằng khách hàng không có lịch sử về nợ xấu, nợ khó đòi đã bị đóng hợp đồng. Mẫu hợp đồng nên có đầy đủ các điều khoản về hạn mức nợ, thời hạn thanh toán... - Sau khi ký hợp đồng, DN nên gửi invoice (bản liệt kê), hóa đơn cho khách đúng kỳ hạn bằng chuyển phát
  4. nhanh, thư đảm bảo để chắc chắn rằng khách hàng nhận được giấy tờ và trong thời gian ngắn nhất; liên lạc với khách hàng để giải quyết vướng mắc, đẩy nhanh tiến trình; gửi thư nhắc nợ lần 1, 2, 3 với các mốc thời gian cụ thể cho khách hàng có tuổi nợ cao hơn thời gian cho phép; hẹn gặp và đến thăm khách hàng nếu thấy trao đổi qua điện thoại không hiệu quả... Nếu khó thu hồi nợ, có thể nhờ công ty chuyên thu nợ hoặc bán nợ. Lưu ý, mỗi DN có những đặc thù riêng về lĩnh vực kinh doanh, cơ cấu tài sản, vốn lưu động và khoản mục nợ phải thu nhiều hay ít. Nhà quản lý của từng DN nên lựa chọn những phương thức phù hợp nhất cho DN của mình dựa trên phương châm "lợi ích và chi phí", nhiều khi phải đánh đổi giữa tính thanh khoản và lợi nhuận . Nếu DN gắt gao trong việc thu nợ, tính thanh khoản được cải thiện nhưng có rủi ro là khách hàng sẽ chuyển sang ký hợp đồng với DN khác có chính sách tín dụng thương mại mềm dẻo hơn. 2. Quản trị tiền mặt Tiền mặt kết nối tất cả các hoạt động liên quan đến tài chính của DN. Vì thế, nhà quáả lý cần phải tập trưug vào quản trị tiền mặt để giảm thiểu rủi ro về khả năng thanh toán, tăng hiệu quả sử dụng tiền, đồng thời ngăn ngừa các hành vi gian lận về tài chính trong nội bộ DN vàl/oặc của bên thứ ba. Quản trị tiền mặt là quá trình bao gồm quản lý lưu lượng tiền mặt tại quỹ và tài khoản thanh toán ở ngân hàng, kiểm soát chi tiêu, dự báo nhu cầu tiền mặt của DN, bù đắp thâm hụt ngân sách, giải quyết tình trạng thừa, thiếu tiền mặt trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Xác định và quản lý lưu lượng tiền mặt Dự trữ tiền mặt (tiền tại quỹ và tiền trên tài khoản thanh toán tại ngân hàng) là điều tất yếu mà DN phải làm để đảm bảo việc thực hiện các giao dịch kinh doanh hàng ngày cũng như đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh doanh trong từng giai đoạn. DN giữ quá nhiều tiền mặt so với nhu cầu sẽ dẫn đến việc ứ đọng vốn, tăng rủi ro về tỷ giá (nếu dự trữ ngoại tệ), tăng chi phí sử dụng vốn (vì tiền mặt tại quỹ không sinh lãi, tiền mặt tại tài khoản thanh toán ngân hàng thường có lãi rất thấp so với chi phí lãi vay của DN). Hơn nữa, sức mua của đồng tiền có thể giảm sút nhanh do lạm phát. Nếu DN dự trữ quá ít tiền mặt, không đủ tiền để thanh toán sẽ bị giảm uy tín với nhà cung cấp, ngân hàng và các bên liên quan. DN sẽ mất cơ hội hưởng các khoản ưu đãi giành cho giao dịch thanh toán ngay bằng tiền mặt, mất khả năng phản ứng linh hoạt với các cơ hội đầu tư phát sinh ngoài dự kiến. Lượng tiền mặt dự trữ tối ưu của DN phải thỏa mãn được 3 nhu cầu chính: chi cho các khoản phải trả phục vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh hàng ngày của DN như trả cho nhà cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ, trả người lao động, trả thuế; dự phòng cho các khoản chi ngoài kế hoạch; dự phòng cho các cơ hội phát sinh ngoài dự kiến khi thị trường có sự thay đổi đột ngột. DN có thể sử dụng phương pháp Baumol hoặc mô hình Miller Orr để xác định mức dự trữ tiền mặt hợp lý. Sau khi xác định được lưu lượng tiền mặt dự trữ thường xuyên, DN nên áp dụng những chính sách, quy trình sau để giảm thiểu rủi ro cũng như những thất thoát trong hoạt động: - Số lượng tiền mặt tại quỹ giới hạn ở mức thấp chỉ để đáp ứng những nhu cầu thanh toán không thể chi trả qua ngân hàng. Ưu tiên lựa chọn nhà cung cấp có tài khoản ngân hàng. Thanh toán qua ngân hàng có tính minh bạch cao, giảm thiểu rủi ro gian lận, đáp ứng yêu cầu pháp luật liên quan. Theo Luật thuế Giá trị gia tăng (sửa đổi), có hiệu lực từ ngày 01/01/2009, tất cả các giao dịch từ 20 triệu đồng trở lên nếu không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng sẽ không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. - Xây dựng quy trình thu chi tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, bao gồm danh sách các mẫu bảng biểu, chứng từ (hợp đồng kinh tế, hóa đơn, phiếu nhập kho, biên bản giao nhận...). Xác định quyền và hạn mức phê duyệt của các cấp quản lý trên cơ sở quy mô của từng DN. Đưa ra quy tắc rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn của các bộ phận liên quan đến quá trình thanh toán để việc thanh toán diễn ra thuận lợi và chính xác.
  5. - Tuân thủ nguyên tắc bất kiêm nhiệm, tách bạch vai trò của kế toán và thủ quỹ. Có kế hoạch kiểm kê quỹ thường xuyên và đột xuất, đối chiếu tiền mặt tồn quỹ thực tế, sổ quỹ với số liệu kế toán . Đối với tiền gửi ngân hàng, định kỳ đối chiếu số dư giữa sổ sách kế toán của DN và số dư của ngân hàng để phát hiện kịp thời và xử lý các khoản chênh lệch nếu có. Xây dựng và phát triển các mô hình dự báo tiền mặt Tính toán và xây dựng các bảng hoạch định ngân sách giúp DN ước lượng được khoảng định mức ngân quỹ là công cụ hữu hiệu trong việc dự báo thời điểm thâm hụt ngân sách để DN chuẩn bị nguồn bù đắp cho các khoản thiếu hụt này. Nhà quản lý phải dự đoán các nguồn nhập, xuất ngân quỹ theo đặc thù về chu kỳ tính doanh, theo mùa vụ, theo kế hoạch phát triển của DN trong từng thời kỳ. Ngoài ra, phương thức dự đoán định kỳ chi tiết theo tuần, tháng, quý và tổng quát cho hàng năm cũng được sử dụng thường xuyên. Nguồn nhập ngân quỹ thường bao gồm các khoản thu được từ hoạt động sản - xuất kinh doanh, tiền từ các nguồn đi vay, tăng vốn, bán tài sản cố định không dùng đến... Nguồn xuất ngân quỹ bao gồm các khoản chi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, trả nợ vay, trả tiền vay, trả cổ tức, mua sắm tài sản cố định, đóng thuế và các khoản phải trả khác. Mặc dù DN có thể đã áp dụng các phương pháp quản trị tiền mặt một cách hiệu quả, nhưng do đặc thù về mùa vụ hoặc do những lý do khách quan ngoài tầm kiểm soát, DN bị thiếu hoặc thừa tiền mặt, nhà quản lý có thể áp dụng những biện pháp sau để cải thiện tình hình: Thứ nhất, biện pháp cần làm khi thiếu tiền mặt: đẩy nhanh tiến trình thu nợ; giảm số lượng hàng tồn kho; giảm tốc độ thanh toán cho các nhà cung cấp bằng cách sử dụng hối phiếu khi thanh toán hoặc thương lượng lại thời hạn thanh toán với nhà cung cấp; bán các tài sản thừa, không sử dụng; hoãn thời gian mua sắm tài sản cố định và hoạch định lại các khoản đầu tư; giãn thời gian chi trả cổ tức; sử dụng dịch vụ thấu chi của ngân hàng hoặc vay ngắn hạn; sử dụng biện pháp "bán và thuê lại" tài sản cố định. Thứ hai, biện pháp cần làm khi thừa tiền mặt trong ngắn hạn: thanh toán các khoản thấu chi; sử dụng các khoản đầu tư qua đêm của ngân hàng; sử dụng hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn với điều khoản rút gốc linh hoạt; đầu tư vào những sản phẩm tài chính có tính thanh khoản cao (trái phiếu chính phủ); đầu tư vào cổ phiếu quỹ ngắn hạn. Thứ ba, biện pháp cần làm khi thừa tiền mặt trong dài hạn: đầu tư vào các dự án mới; tăng tỷ lệ cổ tức; mua lại cổ phiếu; thanh toán các khoản vay dài hạn; mua lại công ty khác. 5 cạm bẫy với những nhà lãnh đạo nôn nóng! Ngày 06 tháng 3 năm 2009 Các nhà lãnh đạo mới cần phải nhanh chóng chứng tỏ bản thân, nhưng việc tìm kiếm kết quả nhanh chóng vốn dĩ luôn nguy hiểm. Đâu là những cạm bẫy, và làm thế nào các nhà quản lý có thể tránh được những cạm bẫy đó? Việc mải miết theo đuổi một chiến thắng nhanh chóng lại chính là trở ngại lớn nhất khiến các lãnh đạo mới không giành được chiến thắng đó. Nhận thức được rằng mình phải có được những chiến thắng nhanh chóng để chứng tỏ bản thân, những lãnh đạo mới thường vấp ngã khi truy lùng những kết quả sớm. Trong một số trường hợp, họ xoay sở để có chiến thắng đó, nhưng cách làm thì không đẹp, tác dụng phụ vô cùng nguy hiểm, và khả năng lãnh đạo của họ cần phải xem xét lại. Những lãnh đạo mới được bổ nhiệm không đáp ứng được yêu cầu không chỉ ảnh hưởng đến chính họ mà còn kéo theo hoạt động đi xuống của mọi người xung quanh, trong đó có những cấp dưới trực tiếp.
  6. Hơn 60% những lãnh đạo làm việc không tốt đã vấp phải ít nhất một trong 5 cạm bẫy dưới đây. Những cạm bẫy này phổ biến ở cả những nhà lãnh đạo cấp thấp, cấp trung và cấp cao. Rõ ràng, kinh nghiệm không phải là yếu tố quyết định để tránh được nghịch lý này. Cạm bẫy 1: Quá tập trung vào chi tiết Để tìm kiếm những chiến thắng nhanh chóng, lãnh đạo vừa được bổ nhiệm cố gắng trở nên xuất sắc nhất ở một khía cạnh nào đó trong công việc mới. Quá tập trung chú ý vào mục tiêu này, họ sẽ không dành đủ sự chú ý cho những trách nhiệm lớn hơn. Ví dụ Loretta, quản lý cho một chuỗi cửa hàng ăn nhanh. Loretta mất ba năm rưỡi để vươn lên vị trí quản lý của chuỗi 20 cửa hàng ở một quận mới thành lập. Lo sợ rằng các đồng nghiệp có thể chưa tin tưởng mình, cô đã rất háo hức chứng tỏ bản thân mình. Khi còn là một quản lý một cửa hàng, Loretta đã tăng doanh số với những ý tưởng trưng bày sản phẩm và quảng cáo. Do vậy cô quyết định nhân rộng thành công này ở phạm vi cả quận. Khi nhận thấy các cửa hàng khác được bố trí không giống cửa hàng trước đây mình phụ trách, cô đã lao vào tìm hiểu phối màu của từng cửa hàng, không gian quầy, diện tích quảng cáo qua cửa sổ. Dễ nhận thấy cô đã bị sa lầy vào những chi tiết đó như thế nào, nhưng kết quả là vô cùng tai hại. Bởi cá nhân cô quá chú ý đến các chi tiết, các thành viên còn lại trong đội không thấy vai trò của họ trong việc này. Cô đã không tạo ra được sự hiểu biết chung để khiến các thành viên trong đội quản lý cửa hàng áp dụng những ý tưởng trưng bày và quảng cáo của cô cho các địa điểm của họ. Đa số các ý tưởng đều rất mù mờ với họ, cô đã bỏ qua rất nhiều vấn đề về hoạt động mà họ coi là những ưu tiên hàng đầu. Trong vòng 9 tháng, kỳ vọng về một chiến thắng nhanh chóng đã bị thay bằng một thất bại nhanh chóng. Dù lượng khách tăng lên ở một vài cửa hàng, nhưng doanh số chung của chuỗi cửa hàng so với cùng kỳ năm trước lại giảm đi. Cuối cùng cô bị chuyển sang vị trí nhân viên trong bộ phận marketing. Cạm bẫy 2: Phản ứng tiêu cực trước sự chỉ trích Dựa vào thành công ở vị trí cũ, một nhà quản lý có thể nghĩ rằng mình có quyền và khi không phải tất cả mọi người đều đón chào những thay đổi mà họ đề xuất, họ xem những lời chỉ trích là hành động gây chiến và thậm chí còn tìm cách trả đũa. Với những lãnh đạo mới có xu hướng này, tham vọng về một chiến thắng nhanh chóng sẽ càng làm cho xu hướng này rõ ràng hơn. Hãy cũng xem xét trường hợp của Denise. Cô bắt đầu sự nghiệp tại Thung lũng Silicon với tư cách thành viên, sau đó trở thành đội trưởng bán hàng, rồi được thăng chức lên giám đốc bộ phận bán hàng trực tiếp cho thị trường trung gian, rồi tiếp tục lên vị trí giám đốc bán hàng và marketing toàn cầu. Với nhiệm vụ khiến cho tất cả các bộ phận tăng trưởng với tỉ lệ 30% trong vòng 6 tháng, cô đã bắt tay vào việc ngay tức thì. Sau 3 tháng, lần đầu tiên cô nhận được những nhận xét về hoạt động của mình, không phải đều tốt cả. Các thành viên trong đội mới cho rằng cô đã đẩy mạnh xúc tiến những sản phẩm không phù hợp với sở thích của khách hàng và không lắng nghe những ý kiến phản đối. Thay vì xem xét các ý kiến đó để học hỏi, Denise lại thấy sự chỉ trích đó là bằng chứng về một nhóm chống-đối-sự-thay-đổi đang không chịu lùi bước. Cô khiển trách họ không tiêu chuẩn hóa chiến lược bán hàng và tiếp tục kế hoạch của mình. Đến hết thời hạn 6 tháng, doanh số giảm rõ rệt. Nhận thấy không thể đạt được mục tiêu, Denise quyết định rời bỏ tổ chức. Cạm bẫy 3: Đe dọa người khác
  7. Như một tất yếu khi các lãnh đạo mới được thăng chức, những người xung quanh trở nên sợ hãi họ. Quá tự tin vào các kế hoạch của mình, họ nhầm lẫn giữa sự tuân lệnh và sự tán thành của cấp dưới. Yun Lin là một ví dụ. Anh là một ngôi sao sáng trong tổ chức. Sau 8 năm ở vị trí phó chủ tịch tại bộ phận kinh doanh tín dụng thương mại của hãng dịch vụ tài chính Asia-Pacific, anh được thăng chức làm CEO. Yun Lin cảm thấy anh đã chứng tỏ được bản thân và anh chỉ còn một bước nữa để trở thành giám đốc của cả công ty. Yun Lin tự tin rằng mình đủ kiến thức để chỉ ra và đương đầu với mọi trở ngại để đạt được một chiến thắng nhanh chóng. Nhưng không may, anh khiến cả đội làm việc sợ hãi vì cách nói chuyện khinh khỉnh và ra lệnh. Kết quả, Yun Lin không được cấp dưới ủng hộ và doanh số đạt được thấp hơn mục tiêu tới 20%. Yun Lin đưa ra chiến lược để xoay chuyển tình thế, nhưng đội của anh đã không còn đủ nhiệt tình. Sau 9 tháng không có sự tiến triển, không còn cơ hội thăng tiến trong tương lai gần, anh đã rời khỏi công ty. Cạm bẫy 4: Vội vã kết luận Một số lãnh đạo hy vọng giành được chiến thắng nhanh chóng đã quá vội vàng thực hiện điều đó. Những người xung quanh sẽ có cảm giác người lãnh đạo này đã có sẵn mọi giải pháp mà không cần sự tham gia của bất cứ ai. Đó là vấn đề của Dan, lãnh đạo trong một hãng thầu cung cấp lương thực cho quân đội. Trước khi được thăng chức, anh là kỹ sư trong đội dự án phụ trách các khách hàng có chức vụ cao. Sau đó anh chyển sang giám sát một đội khác, với nhiệm vụ phát triển dịch vụ cá biệt cho ba khách hàng khác. Thời hạn cho nhiệm vụ ngắn và Dan lo lắng đội làm việc mới sẽ mất thời gian để tăng tốc. Thế là anh tự tiến hành một phân tích nhanh về nhu cầu của khách hàng, ngoại suy từ dự án trước thay vì thu thập những dữ liệu mới. Phân tích đó đã thuyết phục anh rằng thiết kế của sản phẩm gốc chỉ cần thay đổi một chút và có thể phát triển dịch vụ cho các khách hàng mới với nửa thời gian dự kiến. Anh đã tự mình thúc đẩy những thiết kế mới, yêu cầu mọi người trong đội tập trung vào các tài liệu kỹ thuật, giao kết hợp đồng với nhà cung cấp, và quản lý khách hàng. Dan làm mọi việc rất nhanh, nhưng không hiệu quả. Vì anh đã lựa chọn giải pháp trước khi hiểu rõ nhu cầu của khách hàng. Hai trong ba khách hàng đã từ chối kết quả làm việc của đội. Dan được phân công vào vị trí khác. Cạm bẫy 5: Quản lý tiểu tiết Các lãnh đạo mới thường mắc lỗi là can thiệp vào công việc mà họ cần tin tưởng giao cho người khác. Không sẵn lòng dành thời gian để giúp cấp dưới hiểu và tham gia vào kế hoạch hoặc mục tiêu tổng thể, nhưng lại sợ những quyết định và hành động của họ không thống nhất với mục tiêu đó, những lãnh đạo này chỉ đánh giá khi đã có kết quả công việc và quản lí vụn vặt, tiểu tiết. Jane là một ví dụ. Sau 18 tháng làm đại diện dịch vụ khách hàng, cô được thăng chức làm trưởng giám sát trung tâm tư vấn. Để chứng tỏ bản thân ở vị trí mới, cô chọn mục tiêu là tăng tỉ lệ số vấn đề được giải quyết trong lần gọi đầu tiên của nhóm lên ít nhất 10%. Quyết tâm đạt được mục tiêu, cô bắt đầu xem xét kỹ lưỡng năng suất hàng ngày của các cấp dưới, yêu cầu họ giải quyết mọi tình huống liên quan đến một vấn đề dịch vụ hoặc các trường hợp bất thường khi có cô bên cạnh. Cấp dưới của cô nhanh chóng phàn nàn rằng họ không có tự do để quyết định các vấn đề về dịch vụ. Họ cảm thấy không được thừa nhận và tệ hơn, là họ bị coi thường trước những mục tiêu mà Jane đặt ra. Trong vòng 5 tháng, tỉ lệ giải quyết vấn đề ngay từ cuộc gọi đầu tiên đã giảm tới 15% và các nhân viên ngày càng thiếu nhiệt tình. Cuối cùng, thay vì được nhìn nhận là một người lãnh đạo được thăng chức, Jane lại bị kẹt vào kế hoạch chỉnh sửa hoạt động của trung tâm tư vấn.
  8. Trong mỗi ví dụ trên, chúng tôi đã cố tình làm nổi bật một dạng của thất bại, nhưng hẳn độc giả sẽ không bất ngờ khi biết rằng, những lãnh đạo như vậy thường vấp phải nhiều cạm bẫy cùng một lúc. Ví dụ, những lãnh đạo quá chú ý đến tiểu tiết thường dễ đi đến những kết luận vội vàng và quản lý vụn vặt. Chúng tôi coi họ là những lãnh đạo "cần phải phát triển nhiều". Những lãnh đạo hay phản ứng tiêu cực trước sự chỉ trích thường có xu hướng đe dọa người khác. Chúng tôi gọi họ là những lãnh đạo "không có gì để học hỏi". Nhưng loại bỏ mục tiêu theo đuổi những kết quả sớm lại không phải cách nên làm để tránh những cạm bẫy này. Những lãnh đạo mới thành công nhất lại là những người không mệt mỏi theo đuổi những chiến thắng nhanh chóng. Nhưng họ làm theo một kiểu khác. Thay vì chà đạp lên người khác để chứng tỏ bản thân, họ theo đuổi thứ mà chúng tôi gọi là "những chiến thắng nhanh chóng dựa vào tập thể",những thành tựu khiến cả đội cùng tiến bộ. Những điểm yếu của hệ thống ngân hàng ! Ngày 09 tháng 12 năm 2007 Việc gia nhập WTO đã mở ra những cơ hội phát triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó, đầu tư trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng đặt ra nhiều thách thức và rủi ro đối với các ngân hàng thương mại của Việt Nam. “Nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng trong điều kiện mới” là chủ đề của cuộc hội thảo do Học viện Tài chính tổ chức ngày 24/8 vừa qua tại Hà Nội. Trong một hai năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh tiền tệ - ngân hàng của Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Tính hấp dẫn của kinh doanh tiền tệ - ngân hàng được đánh giá là cao hơn so với các ngành kinh tế khác. Lợi nhuận trên vốn tự có của nhiều ngân hàng đạt 9-10%, cao hơn nhiều so với mức 1-2% của ngành công nghiệp. Rủi ro từ nội lực và môi trường kinh doanh Thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá. Theo PGS.TS Lê Hoàng Nga, Học viện Ngân hàng, nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì vốn tự có của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam, nhất là ngân hàng thương mại Nhà nước, ở tình trạng âm. Điểm hạn chế thứ hai của các ngân hàng trong nước là hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập.
  9. Trong tham luận gửi về hội thảo, TS. Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính tiền tệ, Bộ Kế hoạch Đầu tư, có viết: “Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định”. Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. TS. Lý cũng cho biết thêm, một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn gia tăng tại các ngân hàng thương mại quốc doanh là do: việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp; tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên, tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn. Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. “Việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống”, TS. Lê Quốc Lý nhận xét. Giải pháp đề xuất Trong buổi hội thảo, các đại biểu tham dự cũng đã nêu ra một số giải pháp chính để các ngân hàng thương mại có thể hội nhập và cạnh tranh tốt trên “sân nhà” và tham gia vào thị trường thế giới. Thứ nhất là nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại bằng việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý. Ngoài ra, các ngân hàng cần cơ cấu đầu tư vốn trong điều kiện mới theo hướng, giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, phát triển cho vay tiêu dùng đối với các cá nhân trong nền kinh tế. Điểm thứ hai là tăng cường hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Theo TS. Đinh Xuân Hạng, Học viện Tài chính, các ngân hàng thương mại cần tăng mức vốn đầu tư để trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, các dự án đầu tư công nghệ cần tính toán kỹ lưỡng để sử dụng công suất phù hợp với chiến lược mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Điểm thứ ba được tất cả các diễn giả đồng ý là nhân lực chất lượng cao là động lực để bức phá. Nâng cao năng lực cán bộ thông qua nâng cao trình độ quản trị điều hành. Theo Th.S Trịnh Phong Lan, Vụ Tài chính ngân hàng, Bộ Tài chính, việc nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng thương mại Nhà nước sau khi cổ phần hóa sẽ được thực hiện nhanh nhất và hiệu quả nhất thông qua sự trợ giúp của các đối tác chiến lược nước ngoài. Và một phần quan trọng để khắc phục những rủi ro tín dụng của ngân hàng là thực hiện quản trị ngân hàng thương mại từ chiều rộng sang chiều sâu theo hướng nâng cao năng lực quản trị rủi ro thông qua việc hoàn thiện bộ máy tổ chức quản trị nội bộ, thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra và chế độ báo cáo thường xuyên. Vay vốn - công việc không dễ dàng! Ngày 21 tháng 2 năm 2008
  10. Trong kinh doanh ngày nay, một vấn đề mà các chủ doanh nghiệp hay gặp phải là những việc đột xuất xảy ra và họ phải chi những khoản tiền cho các những việc này. Đó thường là những chi phí về quản lý, chi phí tai nạn lao động,…. Nhữngviệc đột xuất này có thể làm tài chính của doanh nghiệp hao hụt và hậu quả tiếp theo là làm hỏng các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Và những lúc như vậy một khoản vay trở nên cần thiết để giúp cho công việc kinh doanh của bạn được suôn sẻ sau khi bạn đã bị trút sạch tiền vào một việc đột xuất nào đó. Tuy nhiên khoản vay này chỉ có thể giúp được bạn nếu công việc kinh doanh của bạn hiện đang mang lại lợi nhuận và với cơ sở là bạn đã tính toán thấy việc hoàn trả tiền vay sẽ không giết chết hoạt động kinh doanh của bạn. Bên cạnh đó, vay mượn luôn xảy ra khi các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn đầu tư cho các nhà máy, cửa hàng và trang thiết bị mới. Các doanh nghiệp tìm cách vay để trang bị các cơ sở vật chất hoặc trang thiết bị mới nhằm tăng sản lượng và doanh số. Các công ty trông đợi sẽ thu được lợi nhuận từ các khoản vay này trong nhiều năm, vì vậy họ sẵn sàng trả tiền lãi cho nguồn quỹ mà họ sử dụng để mua các thiết bị đó và bắt đầu sản xuất ngay lập tức. Tất nhiên nếu lãi suất họ phải trả cao hơn tỉ suất lợi nhuận họ có thể thu được thì doanh nghiệp sẽ không vay vốn nữa. Và thực tế, nếu bạn không có những dự định đầu tư có lợi nhuận cao hơn mức lãi suất tiền vay hiện tại thì bạn nên tiết kiệm tiền còn hơn là cố gắng vay mượn thêm. Hoặc, một điều chắc chắn hơn là bạn sẽ cố gắng chuyển các nguồn lực của mình sang một lĩnh vực kinh doanh khác có tỉ suất lợi nhuận dự tính cao hơn mức lãi suất tiền vay. Điều đó đơn giản chỉ là một cách lựa chọn khác, theo đó các nguồn lực đã được chuyển sang cho các công ty xác định được cách thức sử dụng nguồn lực có lợi nhất và như chúng ta đã thấy ở trên, nó dựa vào việc cung cấp những sản phẩm mà người tiêu dùng có nhu cầu nhất, với giá cả bằng hoặc thấp hơn giá cả của các sản phẩm tương tự đang được các công ty cạnh tranh chào bán. Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định một trong những khó khăn nhất của các doanh nghiệp hiện nay là nguồn vốn phải tự thân vận động. Mặc dù đã tiếp cận được với khá nhiều nguồn vốn khác nhau song để tái cơ cấu cũng như nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh thì không thể đủ. Vì thế việc tiếp cận các nguồn vốn vay từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng sẽ là rất quan trọng. Doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng để tiếp cận thành công với những nguồn vốn này. Trên thực tế, tâm lý của doanh nghiệp khi thiếu vốn đều tìm đến ngân hàng để vay nhưng không tìm hiểu bên cạnh nguồn vốn ngân hàng còn rất nhiều kênh dẫn vốn khác. Còn về phía các ngân hàng đưa ra các quy định vay nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn vốn nhưng cũng xét từng trường hợp để có thể linh động cho doanh nghiệp vay. Vấn đề là các doanh nghiệp cần phải chủ động để đáp ứng nhu cầu tiếp cận nguồn vốn hiệu quả hơn. Từ phía chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế hàng năm cũng dành một phần lớn nguồn vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp dưới hình thức trực tiếp cũng như gián tiếp. Vấn đề là làm sao doanh nghiệp có thể nắm bắt được thông tin để tiếp cận các nguồn vốn. Một giám đốc ngân hàng lớn cho biết "Hệ thống thông tin hai chiều giữa ngân hàng và khách hàng còn rất hạn chế. Nếu như doanh nghiệp tích cực hơn trong việc tham gia các hoạt động dịch vụ, thanh toán qua ngân hàng sẽ tạo cơ sở thuận lợi hơn cho doanh nghiệp khi tiếp cận các nguồn vốn vay vì ngân hàng phần nào biết được thực lực hoạt động của doanh nghiệp...". Và sau cùng, để tối ưu hoá hoạt động cho vay, các doanh nghiệp cần đề ra cho mình những nguyên tắc nhất định, “đánh bóng” chính bản thân doanh nghiệp để từ đó tạo điều kiện thuận lợi trong con mắt các nhà cho vay. Tạo dựng độ tin cậy của doanh nghiệp Trước mỗi quyết định cho vay, các nhà cho vay thường căn cứ vào độ tin cậy và uy tín của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp muốn sớm nhận được quyết định cho vay thì một bản chứng minh độ tin cậy của doanh nghiệp sẽ là rất cần thiết và càng trung thực, rõ ràng bao nhiêu sẽ càng tốt bấy nhiêu. Các nhà cho vay sẽ tiến hành xác minh, nếu phát hiện có chi tiết thiếu trung thực thì họ sẽ đặt vấn đề về độ
  11. tin cậy đối của doanh nghiệp. Đánh bóng năng lực của doanh nghiệp Nếu doanh nghiệp của bạn chứng mính được với các nhà cho vay về khả năng quản lý, kỹ năng hoạt động, năng lực tài chính cũng như sự nhạy bén trong kinh doanh thì sẽ rất thuận lợi trong việc cho vay bởi năng lực doanh nghiệp là một trong những yêu tố nhất thiết mà người cho vay sẽ phải xem xét và cân nhắc trước khi có quyết định cho vay hay không. Việc bạn xin vay vốn và trình bày các năng lực còn phải thể hiện cam kết tài chính của doanh nghiệp bạn đối với hoạt động kinh doanh cụ thể. Nhà cho vay vốn sẽ luôn nhìn vào giá trị ròng của doanh nghiệp và các hệ số chuẩn mực về tài chính. Bạn nên có bản báo cáo tài chính hiệu quả, năng lực quản lý (chứng nhận tiêu chuẩn ISO, TQM,…). Đây sẽ là những minh chứng rõ nét nhất đối với năng lực của doanh nghiệp trong con mắt các nhà cho vay. Tài sản bảo đảm Trong quá trình cho vay, một đòi hỏi tất yếu là khoản tiền cho vay cần được đảm bảo bởi tài sản hợp pháp của công ty, hoạt động kinh doanh có triển vọng cũng như thị trường mà doanh nghiệp bạn đang chiếm hữu. Bạn nên chứng minh cho nhà cho vay thấy những tài sản hữu hình và tài sản vô hình mà đang sở hữu. Đôi khi tài sản vô hình như giá trị thương hiệu, thị phần, kênh phân phối còn có giá trị lớn hơn rất nhiều so với tài sản vô hình. Đôi khi, việc nhờ một tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá doanh nghiệp của bạn sẽ là rất hữu ích. Hạn chế rủi ro đối với nhà cho vay Trong việc cho vay vốn, vấn đề lo ngại nhất của các nhà cho vay là những rui ro tài chính do các biến động của thị trường như giá ngoại tệ lên xuống, đồng nội tệ mất giá, thị trường bất động sản thay đổi, giá cả tăng cao,… Các nhà cho vay sẽ luôn xem xét và suy tính rất kỹ về các rủi ro xấu có thể xảy ra. Chính vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà cho vay sớm quyết định, doanh nghiệp nên có các phương án giải thích rõ ràng về tính tối ưu và khả thi của khoản tiền vay. Giải thích càng kỹ càng bao nhiêu sẽ càng tốt bấy nhiêu. Tóm lại, bạn có thể cân nhắc tới một khoản vay khi bạn tin và tính toán thấy rằng lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh khác được đầu tư từ khoản vay đó sẽ cao hơn các chi phí vay vốn. Và bạn không nên vay để trang trải các khoản lỗ của công việc kinh doanh hiện tại. Vì việc này có thể làm cho bạn lâm vào tình trạng khó khăn hơn về tài chính. Thay cho điều đó, bạn có thể cắt giảm chi phí, hợp lý hoá hoạt động kinh doanh" làm tốt hơn và rẻ hơn". Bạn chỉ nên tập chung vào các hoạt động kinh doanh mà chắc chắn sẽ mang lại lợi nhuận. Nếu ngay cả biện pháp này cũng không hiệu quả, thì bạn nên suy nghĩ tới việc thay đổi hoạt động kinh doanh của mình. Nhà đầu tư nghiệp dư cần phải quan tâm điều gì? Ngày 07 tháng 2 năm 2008 Bạn có đôi chút kiến thức về tài chính, nhưng liệu bạn đã đủ “dũng khí” để tham gia thị trường đầu tư? Bạn biết việc đầu tư sẽ có thể đem lại lợi nhuận không nhỏ, nhưng liệu bạn có chắc chắn rằng mình sẽ không gặp chút “vận đen” nào? Những lời khuyên mà bạn nhận được đã đủ đảm bảo để bạn trở thành nhà đầu tư thành công? Bạn có biết cần phải chú ý đến những yếu tố nào trong thế giới đầu tư không? Nếu bạn cảm thấy còn đôi chút băn khoăn hay lúng túng, các chuyên gia đầu tư tài chính của CNN/Money sẽ
  12. giúp bạn. Phần 1: Sáng suốt và cẩn trọng 1. Đôi khi nhà đầu tư nghiệp dư lại có lợi thế hơn nhà đầu tư chuyên nghiệp. Nhà đầu tư chuyên nghiệp luôn bị ám ảnh bởi những dự đoán rằng liệu họ có đánh bại thị trường hay không. Họ có thể cảm thấy căng thẳng khi nắm giữ hay mua vào tại thời điểm cổ phiếu đang tràn ngập thị trường. Còn các nhà đầu tư nghiệp dư sẽ không xem xét cẩn thận và nghiên cứu kỹ lưỡng đến như vậy trong các hoạt động đầu tư của mình. Khi thị trường bắt đầu náo động, khó kiểm soát, họ chỉ cần ngồi yên tại chỗ, bình tĩnh tập trung vào những mục tiêu dài hạn. 2. Đầu tư tiền bạc hợp lý là hành động quan trọng hơn rất nhiều so với việc cố gắng tìm kiếm những Microsoft tiếp theo. Về dài hạn, lợi nhuận mà bạn có được từ việc đầu tư cổ phiếu và trái phiếu sẽ có xu hướng tương thích với mức biến động trung bình trên thị trường. Vì vậy, bạn nên phân bổ tài chính hợp lý để quyết định đầu tư bao nhiêu phần vào cổ phiếu và bao nhiêu vào trái phiếu. 3. Bạn có thể chia tay với hoạt động đầu tư với khoản tiền lớn và tâm trạng thoải mái mà không cần biết đến việc học thế nào để kiếm được cổ phiếu sinh lợi. Hãy đặt 60% tổng số tiền của bạn vào thị trường cổ phiếu và 40% còn lại vào thị trường trái phiếu. Chỉ trong vòng 10 năm hay lâu hơn một chút, bạn sẽ đạt kết quả tốt hơn phần lớn các nhà đầu tư khác trên thị trường, cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư. 4. Tất cả các hoạt động đầu tư đều liên quan đến rủi ro. 5. Đa dạng hoá đầu tư là một loại thuốc trợ tim tuyệt vời đối với các nhà đầu tư. Việc trải rộng dòng vốn của mình ra các loại cổ phiếu và trái phiếu khác nhau là quyết định khôn ngoan. Việc này sẽ giảm thiểu tỷ lệ rủi ro và tăng cơ hội thu thêm lợi nhuận. 6. Các nhà đầu tư lão luyện đều có chung một kết luận là về dài hạn, cổ phiếu sẽ sinh lợi nhiều hơn trái phiếu và trái phiếu hiệu quả hơn tiền mặt. Tuy nhiên, bạn cần cảnh giác, không phải lúc nào nhận định này cũng đúng. 7. Hãy chú ý tới sự thoái trào: Các vận động viên thể thao gọi đó là sự xuống phong độ. Đây là thời kỳ mà các vận động viên rơi vào khủng hoàng sau thời kỳ đỉnh cao. Trên thị trường chứng khoán, những điều tương tự thường xảy ra với các công ty tăng trưởng quá nóng. Các nhà đầu tư thường có xu hương vui mừng lao vào những công ty tăng trưởng nhanh, tuy nhiên không ai có thể đi theo cuộc chơi này mãi mãi, bởi vì thậm chí những công ty tăng trưởng nhanh nhất cũng có thể rơi vào suy thoái bất cứ lúc nào. Bạn hãy dành nhiều thời gian hơn để suy nghĩ và phân tích về những hiện tượng này, từ đó quyết định xem lúc nào nên lao vào và lúc nào không nên. 8. Đừng dùng tiền của mình đầu tư vào thị trường với những mục tiêu đại loại như cố gắng mua được những cổ phiếu với mức giá cao nhất hay thấp nhất. Các nhà nghiên cứu hiện vẫn còn đang tìm kiếm một cách thức để xác định chính xác lúc nào thị trường ở mức trần và lúc nào ở mức sàn, nhưng điều này có thể không bao giờ biết được. 9. Tỷ lệ trung bình đồng vốn đầu tư: Đầu tư với lượng tiền nhất định hàng tháng hay hàng quý trong năm là cách tốt nhất và duy nhất để có thể giữ bạn trên con đường mà mình đã lựa chọn. 10. Tái cân bằng. Bạn nên dành 60% tiền bạc của mình đầu tư vào cổ phiếu và 40% vào trái phiếu. Nếu cổ phiếu gặp khủng hoảng và chiếm tới 75% tổng vốn đầu tư của bạn, bạn nên bán bớt chúng đi để tái cân bằng ở mức 60-40. Với cách này, bạn sẽ có thể loại bỏ những cổ phiếu đang trở nên đắt tiền hơn và mua vào loại rẻ tiền hơn. Đó là cách mua rẻ bán đắt. 11. Lợi nhuận cao bao giờ cũng gắn liền với rủi ro lớn, tuy nhiên không phải bất cứ rủi ro nào cũng tất yếu dẫn tới lợi nhuận cao. Trước sức hấp dẫn của các khoản lợi nhuận khổng lồ, một nhà đầu tư thông minh sẽ
  13. không dấn thân một cách mạo hiểm vào những vụ đầu tư nếu anh ta không nhìn thấy sự an toàn tối đa. Trong quãng thời gian “chú bò” thị trường chứng khoán được nuôi lớn thái quá, bạn có thể mất tiền từ niềm đam mê cổ phiếu của mình, hay đơn giản là công ty mà bạn cho rằng sẽ thành công có thể nổ tung bất cứ lúc nào. 12. Bạn có thể không biết mình phải đối mặt với những rủi ro nào, cho đến khi bạn hứng chịu những mất mát thực sự. Cũng giống như các trường hợp ngộ độc thực phẩm, rủi ro là một cái gì đó rất khó để hiểu về mặt lý thuyết. Một sự thật khó nghe đó là Nasdaq đã “chôn vùi” không biết bao nhiêu nhà đầu tư công nghệ, những người nghĩ rằng mình không thể bị tổn thương. 13. Quy tắc 72. Một mánh khóe để tính toán xem bạn sẽ cần bao nhiêu thời gian để nhân đôi số tiền của mình. Ví dụ bạn phải mất bao nhiêu năm để khoản tiền 1000 đồng chuyển thành 2000 đồng ở mức lợi nhuận 8%? Hãy lấy 72 chia cho 8, bạn có 9 năm. Từ ví dụ này, bạn có thể tính toán cho mình khoảng thời gian sinh lợi nhuận. 14. Tái đầu tư. Nếu bạn kiếm được 6% lợi nhuận trên 1000 đồng trái phiếu và để dành hết số tiền lời này, thì sau 20 năm, bạn sẽ có 1200 đồng. Nhưng nếu bạn tái đầu tư hết số lợi nhuận thu được, bạn sẽ có 2662 đồng cũng sau 20 năm. Đó là sức mạnh của tái đầu tư - lợi nhuận mẹ sẽ sinh ra lợi nhuận con. 15. Bắt đầu sớm. Đối với hoạt động đầu tư, bạn càng dành thời gian cho nó nhiều bao nhiêu, bạn sẽ càng thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. 16. Dành dụm nhiều hơn: Một cách khác để tăng thêm lợi nhuận đó là dành dụm thêm một khoản tiền nhỏ nhất định mỗi tháng để đầu tư. Cùng với thời gian, những đồng tiền đó sẽ sinh sôi thành hàng nghìn đồng khác. 17. Khi bạn đặt kế hoạch cho những mục tiêu dài hạn, bạn hãy đảm bảo rằng toàn bộ số vốn đầu tư của bạn sẽ sinh lời 5% đến 6%/năm. 18. Khi bạn mua một cổ phiếu, bạn nghĩ nó sẽ đem lại lợi nhuận cho bạn, nhưng bạn cần nhớ rằng bạn đã mua những cổ phiếu này từ một người nào đó cũng đang cảm thấy mãn nguyện khi bán được chúng. 19. Đừng dựa vào các cơ quan quản lý. Các nhà đầu tư cần có cái nhìn tỉnh táo và thực tế về những gì chính phủ có thể làm và những gì không thể. Các cơ quan quản lý chắc chắn sẽ đẩy mạnh việc tìm ra các gian lận và buộc các công ty phải phơi bày thông tin nhiều hơn và minh bạch hơn. Nhưng các nhà đầu tư thường sử dụng một cách không hiệu quả những thông tin mà họ có được từ sự công khai đó. Bao nhiêu nhà đầu tư đã từng thực sự đọc và phân tích những tường trình trong bản cáo bạch IPO thường niên trước khi ra quyết định đầu tư? Không có quy định nào buộc các nhà đầu tư phải quyết định thận trọng hay giữ thị trường khỏi suy thoái. 20. Đừng để những mối quan tâm về thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của bạn. 21. Bạn muốn tăng lợi nhuận kiếm được? Nếu bạn xem TV vào buổi trưa, tốt hơn hết bạn đừng nên xem những thông tin về tài chính kinh doanh. Bạn thực sự không cần biết những gì xảy ra với cổ phiếu của các công ty, thay vào đó hãy xem chương trình mà bạn yêu thích. Đơn giản là vì lúc này bạn không cần những cái nhìn và phân tích bên trong nhằm tránh cho bạn những cám dỗ lôi kéo mình vào những vụ đầu tư mới với rủi ro cao hơn nhiều. 22. Ở đây có sự khác biệt giữa đầu tư và đầu cơ: các nhà đầu tư thường thích mua cổ phiếu như một thương vụ kinh doanh và sẽ nắm giữ trong thời gian dài, còn các nhà đầu cơ nhìn cổ phiếu như những tờ giấy và họ mua chúng với hy vọng một ai đó sẽ trả giá cao hơn. 23. Tình hình tăng trưởng của công ty sẽ điều khiển giá cổ phiếu. Có thể có sự khác biệt khá lớn về giá cổ phiếu từ năm này qua năm khác, nhưng về lâu dài, giá cổ phiếu sẽ biến động dựa trên doanh thu và lợi
  14. nhuận của công ty - nếu lợi nhuận ngày một thu hẹp thì giá cổ phiếu sẽ giảm, còn nếu lợi nhuận càng lúc càng lớn hơn thì đương nhiên giá cổ phiếu cũng sẽ tăng cao. 24. Trước khi quyết định mua một cổ phiếu nào đó, bạn hãy chuẩn bị “bài diễn văn tóm tắt” để thuyết phục chính bản thân bạn, cô vợ đa nghi, con chó của bạn, hay bất kỳ ai và giải thích tại sao bạn muốn mua cổ phiếu. Đó có phải là một cổ phiếu tăng trưởng nhanh, ổn định và sẽ tạo nên một kỳ tích về doanh thu? Liệu chiến lược đầu tư bạn đưa ra có hợp lý? Liệu bản cân đối tài chính của công ty đó đã đủ lành mạnh? Liệu công ty này có thắng thế trước các đối thủ cạnh tranh? Đơn giản khi bạn nói ra những điều này, bạn sẽ phải tập trung hơn vào những gì bạn nghĩ và những gì bạn đã nghiên cứu, phân tích. Cuối cùng, việc này có thể giúp bạn tránh những rủi ro thua lỗ. 25. Khi bạn đã dành vài phút để suy nghĩ, bạn hãy dành tiếp mấy phút nữa để tự hỏi tại sao bạn không nên mua cổ phiếu đó. Liệu công ty có chìm sâu trong nợ nần? Liệu vị CEO có đáng tin cậy không hay sẽ “lẩn như trạch” khi có rắc rối? Liệu giá cổ phiếu có quá đắt để mua? Việc nắm bắt những thông tin đó không những sẽ giúp bạn hiểu hơn về công ty, mà còn giúp bạn tính toán được thời điểm nên bán cổ phiếu đi. 26. Những công ty lớn không nhất thiết sẽ tạo ra những cổ phiếu đáng để mua. Đơn giản là vì nếu bạn chỉ đầu tư vào những công ty đang dẫn đầu thị trường, thì thu nhập của bạn có thể sẽ rất cao, tuy nhiên, một khi những công ty lớn rơi vào khủng hoảng, thì thu nhập của bạn có thể bị khủng hoảng nặng nề hơn nhiều. 27. Cổ phiếu 20 đồng có thể quá đắt - Cổ phiếu 100 đồng lại có thể quá rẻ. Bạn hãy tính toán, nhưng không chỉ là giá mỗi cổ phiếu, mà là lượng tiền bạn thu được từ mỗi đồng tiền trong doanh thu, lợi nhuận, tài sản và tiền mặt lưu thông của công ty mà bạn đầu tư vào. Điều này bạn có thể biết được từ các tỷ lệ đánh giá cổ phiếu sau đây. 28-31. Bốn cách để đánh giá một cổ phiếu - Tỷ lệ giá/lợi nhuận (P/E): Cho đến nay, đây vẫn là tỷ lệ đánh giá cổ phiếu được sử dụng phố biến nhất, bởi vì nó cho biết bạn sẵn sàng trả bao nhiêu cho mỗi đồng lợi nhuận của công ty. - Tỷ lệ giá/doanh thu (P/S): Chỉ số này có thể được sử dụng để nhận ra những công ty có mạng lưới kinh doanh ổn định, nhưng lợi nhuận có thể giảm sút sau quá trình tăng trưởng quá nóng. - Tỷ lệ giá/lưu lượng tiền mặt (P/C). Con số doanh thu và lợi nhuận mà công ty báo cáo là sản phẩm của những quy tắc tính toán phức tạp, do đó số liệu có thể bị sai lệch. Lưu lượng tiền mặt từ các hoạt động kinh doanh có thể vẽ nên bức tranh chân thực hơn. - Tỷ lệ giá/giá trị sổ sách (P/B): Tỷ lệ này được dùng để đánh giá toàn bộ máy móc, thiết bị và các tài sản khác, thường được sử dụng khi nhà đầu tư tìm kiếm các mục tiêu tiếp quản. 32. Sự khác biệt giữa chỉ số Forward P/E và Trailing P/E. Chỉ số Trailing P/E được dựa trên doanh thu trong năm hiện tại hay bốn quý gần nhất của công ty. Còn chỉ số Forward P/E là ước đoán dựa trên doanh thu mong đợi của công ty trong năm tiếp theo hay bốn quý sắp tới. 33. Sự khác biệt giữa cổ phiếu tăng trưởng và cổ phiếu giá trị. Một cổ phiếu tăng trưởng sẽ hứa hẹn một lợi nhuận lớn hơn trong tương lai, trong khi đó một cổ phiếu giá trị có tính thanh khoản cao, bạn có thể bán bất cứ lúc nào với mức giá cao hơn hay thấp hơn giá trị thực của chúng. Cổ phiếu tăng trưởng thường là cổ phiếu của các hãng dầu mỏ còn cổ phiếu giá trị là cổ phiếu của các hãng tiêu dùng luôn có doanh thu và lợi nhuận ổn định, mức độ tin cậy cao. Về dài hạn, cổ phiếu giá trị có mức tăng trưởng chậm hơn, một phần vì chúng có chiều hướng được mua để đầu cơ trên thị trường. 34. Cách tốt nhất để tìm kiếm cổ phiếu tăng trưởng giá rẻ. Để trả lời câu hỏi liệu một cổ phiếu tăng trưởng hiện có được rao bán ở mức giá hợp lý hay không, bạn hãy xem tỷ lệ PEG. Để tính toán tỷ lệ PEG
  15. của một công ty, bạn hãy chia tỷ lệ P/E với tỷ lệ tăng trưởng doanh thu dự đoán. Nếu tỷ lệ PEG thấp hơn 1,2 nghĩa là cổ phiếu đó là cơ hội tốt để đầu tư. 35. Bạn có thể bắt đầu xây dựng danh mục đầu tư các cổ phiếu dài hạn chỉ với 9 công ty. Khi xây dựng một danh mục đầu tư cơ bản, bạn hãy bắt đầu với những công ty lớn có mặt trong 5 lĩnh vực công nghiệp tăng trưởng năng động nhanh nhất. Ví dụ, bạn có thể lựa chọn A trong lĩnh vực công nghệ, B trong lĩnh vực dược phẩm, C trong lĩnh vực dịch vụ tài chính… 36. Đừng đặt quá 10% vốn đầu tư bạn có vào cổ phiếu của chính công ty bạn. Nếu bạn buộc phải nắm giữ một số lượng lớn hơn 10% - có thể do những quy định của công ty - bạn hãy cố phân tán rủi ro bằng cách đầu tư vào những lĩnh vực khác ổn định hơn lĩnh vực của bạn. Ví dụ, nếu bạn làm việc cho một công ty công nghệ cao, hãy kiếm cho mình những cổ phiếu của các công ty công nghiệp trả cổ tức cố định. 37. Đừng đặt quá 10% vốn đầu tư cổ phiếu của bạn vào một công ty. Những bài học lớn như Enron và WorldCom là minh chứng rõ nét cho nhận định rằng: một danh mục đầu tư quá tập trung sẽ giá tăng sự mất ổn định và tăng rủi ro thua lỗ. 38. Sự phân tán cổ phiếu cũng không làm bạn trở nên giàu có. Việc chia tách cổ phiếu để đầu tư là cần thiết, nhưng việc phân tán quá rộng lại rất có thể phản tác dụng. Khi bạn chia tách cổ phiếu để đầu tư, bạn cũng sẽ không giàu hơn hay nghèo hơn chính bạn trước đây. Ví dụ, sau khi phân tán cổ phiếu, bạn kết thúc năm tài chính với số lượng cổ phiếu nhiều gấp đôi, nhưng chúng được giao dịch với giá chỉ bằng một nửa. Tuy nhiên, một vài nhà đầu tư nhìn nhận việc phân tán là dấu hiệu của việc đa dạng hoá đầu tư tới nhiều công ty hấp dẫn hơn. Nhưng rồi, các nghiên cứu cho thấy rằng cổ phiếu được phân tán thường ít đem lại lợi nhuận hơn so với việc không phân tán, nếu thời gian đầu tư của bạn chỉ từ một đến hai năm. 39. Tìm kiếm thông tin để tìm hiểu về công ty bằng cách đọc các báo cáo tài chính hàng quý hay hàng năm. Bạn cũng có thể tìm kiếm các thông tin về các công ty trên Internet hay trang web của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán. 40. Theo sát chỉ số thị trường chứng khoán. Đây là chiến lược để mua lại những cổ phiếu có giá trị sinh lời cao nhất vào mỗi tháng 1 đầu năm. Bạn giữ chúng trong một năm, sau đó bán đi những cổ phiếu sa sút nhất trong bản danh sách và mua một cổ phiếu khác thay thế. 41. IPO sẽ không như mong đợi. Trong thời kỳ hoàng kim của các công ty Internet, mọi người đều muốn lao vào các đợt phát hành chứng khoán ra công chúng (IPO). Tuy nhiên, IPO không đem lại kết quả về lâu dài. Những cổ phiếu này thường đem lại phần lớn lợi nhuận trong những những ngày giao dịch đầu tiên, sau đó, các đợt phát hành mới sẽ chỉ “ì ạch” trên thị trường trong những năm tiếp theo. 42-45. Bốn lý do đúng đắn để bán cổ phiếu. Bạn đừng bán cổ phiếu chỉ vì chúng sụt giá hay vì thị trường có dấu hiệu đi xuống. Những lý do để bán cổ phiếu đi là: - Thứ nhất, một vài yếu tố quan trọng về hoạt động kinh doanh hay triển vọng lợi nhuận của công ty đã thay đổi so với thời điểm bạn mua chúng. - Thứ hai, bạn nhận ra rằng những nhận định, đánh giá trước đây của bạn về hoạt động kinh doanh và triển vọng lợi nhuận của công ty là sai lầm. - Thứ ba, công ty bạn đầu tư đang cho thấy họ hoạt động quá tốt so với mong đợi – giá cổ phiếu tăng trên mức mà bạn tin rằng phản ánh giá trị thực của công ty. - Thứ tư, cổ phiếu nào đó hiện đang chiếm một phần quá lớn trong danh mục đầu tư của bạn khiến rủi ro tăng cao. 46. Bạn giao dịch càng nhiều, lợi nhuận bạn thu được dường như sẽ càng ít đi. Bạn mua và bán càng nhiều, danh mục đầu tư của bạn sẽ phải chịu chi phí giao dịch càng cao hơn. Thử nghĩ xem liệu bạn có đánh bại thị trường bằng những ý tưởng thông minh không? Một nghiên cứu cho thấy các nhà quản lý quỹ thường không tăng lợi nhuận bằng các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nếu các giao dịch thường xuyên gây
  16. thiệt hại cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp, thì nó cũng có thể ảnh hưởng xấu đến bạn. 47. Đầu tư quá giới hạn cho phép. Bạn vay tiền từ những nhà môi giới và trả lãi suất để mua thêm cổ phiếu. Điều này dường như sẽ mang lại lợi nhuận nhiều hơn, nhưng đồng thời thua lỗ cũng có thể lớn hơn. Nếu cổ phiếu bạn nắm giữ xuống thấp dưới mức nào đó, nhà môi giới của bạn sẽ yêu cầu bạn hoàn trả lại một phần hay toàn bộ khoản nợ ngay lập tức. Do đó, mua ngoài giới hạn của bản thân là một rủi ro mà các nhà đầu tư nghiệp dư nên tránh xa. 48. Thế nào là đầu tư short-selling?. Nhà đầu tư “short-seller” sẽ mượn cổ phiếu từ một nhà môi giới để bán với hy vọng cổ phiếu này sẽ xuống giá và anh ta có thể mua lại với giá thấp hơn. Tuy nhiên, chi phí cao, tiềm năng thua lỗ lớn và thậm chí giá cổ phiếu tăng sau một thời kỳ dài đóng băng sẽ khiến mong muốn thu lại cổ phiếu của những nhà đầu tư “short-seller” trở nên viển vông. Đây là một điều mà bạn nên tránh. 49. Sự khác biệt giữa lệnh thị trường và lệnh giới hạn. Khi bạn ra một lệnh trên thị trường chứng khoán với nhà môi giới của bạn, bạn đang yêu cầu bán hay mua cổ phiếu ở một mức giá khớp lệnh. Còn lệnh giới hạn hướng nhà môi giới mua và bán cổ phiếu ở mức giá cụ thể nào đó, thì mức giá này được sử dụng như một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ bạn trong một thị trường thường xuyên biến động. Nếu cổ phiếu không đạt tới giá đó, sẽ không có giao dịch nào được thực hiện. PHẦN 4: TRÁI PHIẾU 50. Những quy tắc cơ bản của đầu tư trái phiếu. Giá trái phiếu sẽ giảm khi tỷ lệ lãi suất tăng và ngược lại. Tại sao? Nếu bạn sở hữu trái phiếu có mức trả lãi 6% và tỷ lệ lãi suất tăng, lúc này, trái phiếu sẽ có mức trả lãi 7% , do vậy trái phiếu 6% của bạn sẽ mất giá. 51. Nếu bạn đầu tư trái phiếu và giữ chúng cho đến đúng kỳ hạn thanh toán, bạn sẽ không bao giờ mất tiền. Trái phiếu chính phủ, ngân phiếu không bao giờ vỡ nợ. Trái phiếu đô thị và trái phiếu công ty cũng hiếm khi vỡ nợ (tỷ lệ vỡ nợ dài hạn chỉ khoảng trên dưới 1% đến 2%). 52. Bán cổ phiếu trước khi đến hạn thanh toán có thể là một sai lầm. Cổ phiếu không như trái phiếu – chúng không được giao dịch mọi ngày và cũng sẽ không có nhiều người sẵn sàng mua trái phiếu khi bạn muốn bán chúng đi. Vì vậy, nếu bạn buộc phải bán trái phiếu, bạn có thể phải chấp nhận chịu thiệt một số tiền nhất định. 53. Làm thế nào để vừa có tiền vừa không thua lỗ? Trong danh mục đầu tư trái phiếu, bạn nên nắm giữ nhiều cổ phiếu với các kỳ hạn thanh toán khác nhau để bạn có thể có tiền vào bất cứ năm nào. Điều này cho phép bạn tận dụng lợi ích từ tỷ lệ lãi suất cao để mua trái phiếu khác, đồng thời giảm thiểu rủi ro. 54. Bạn có thể mất tiền nếu đầu tư vào các Quỹ đầu tư trái phiếu. Hàng ngày, giá trị của các cổ phiếu trong danh mục đầu tư trái phiếu luôn biến động, phụ thuộc vào sự dao động của tỷ lệ lãi suất và các yếu tố khác. Do đó, giá trị tài sản toàn Quỹ đầu tư trái phiếu cũng thay đổi theo. Vì vậy, khi bạn bán cổ phiếu của Quỹ đầu tư trái phiếu, giá cổ phiếu sẽ có thể thấp hơn – hay cao hơn – so với thời điểm bạn mua chúng. 55. Thế nào là trái phiếu Zero-coupon. Trái phiếu Zero-coupon (cuống phiếu bằng không) sẽ không có lãi suất, thay vào đó, bạn mua trái phiếu với mức giá thấp hơn giá danh nghĩa. Khi cổ phiếu đến hạn, bạn sẽ nhận lại khoản tiền đó bao gồm khoản tiền đầu tư ban đầu cộng thêm số tiền chênh ra từ giá gốc cổ phiếu so với giá mua. Ví dụ, bạn có thể phải trả 6659 đồng và nhận 10 ngàn đồng trái phiếu zero-coupon có lợi tức 4,15% và hạn thanh toán trong 10 năm. 56. Cuống phiếu (Coupon). Đây là mức lãi suất cố định mà bạn có thể nhận được mỗi năm từ số cổ phiếu nắm giữ. 57. Giá trị trung bình (Par value). Mức giá này được hiểu như giá trị danh nghĩa của trái phiếu, đó là lượng tiền mà một nhà phát hành trái phiếu đồng ý trả khi đến hạn thanh toán. Thông thường, trái phiếu được giao
  17. dịch ở mức cao hơn hay thấp hơn giá trị trung bình. Các chiến thuật kinh doanh cổ phiếu! Ngày 06 tháng 2 năm 2008 Xin giới thiệu một số chiến thuật kinh doanh cổ phiếu của những nhà kinh doanh cổ phiếu lớn tại thị trường Mỹ, được đúc kết trong cuốn “Lessons from the Greatest Stock Traders of All Time” - tạm dịch “Những bài học từ những nhà kinh doanh cổ phiếu thành công nhất” của John Boik, và cuốn “The 21 Irrefutable Truths of Trading” tạm dịch “21 sự thật về kinh doanh cổ phiếu” của John Hayden. Chiến thuật kinh doanh “không cảm xúc” và “phân tích cơ bản” của Bernard Baruh Bernard Baruh, xuất thân là nhân viên văn phòng của một công ty môi giới chứng khoán, là một nhà kinh doanh cổ phiếu thành công. Ông kiếm được bộn tiền nhờ vào dự đoán sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ vào năm 1907 và 1929. Không chỉ là một nhà kinh doanh cổ phiếu thành công, ông còn làm việc cho chính phủ của Tổng thống Woodrow Wilson. Bernard Baruh quan niệm rằng thị trường chứng khoán phản ảnh tình hình kinh tế, chứ thị trường chứng khoán không quyết định được nền kinh tế. Và ông cũng tin tưởng mãnh liệt rằng, kết quả kinh doanh được quyết định bởi tâm lý của những người kinh doanh cổ phiếu. Ông sử dụng cái đầu “lạnh”, chứ không để cảm xúc len vào khi kinh doanh chứng khoán. Ông là người đầu tiên đưa ra chiến lược phân tích cơ bản trong kinh doanh. Trong đó ông nhấn mạnh đến ba yếu tố: độ lớn tài sản của công ty, giá trị của sản phẩm đối với người mua, và năng lực của ban lãnh đạo, trong việc chọn cổ phiếu của mình. Chiến thuật “Kim tự tháp” và “Thăm dò” của Jess Livermore Jess Livermore, xuất thân từ nhân viên của một công ty chứng khoán, là người có những chuỗi thành công và cả thất bại lớn trên thị trường kinh doanh chứng khoán. Ông cũng kiếm được cả núi tiền nhờ vào việc tiên đoán sự sụp đổ của thị trường vào năm 1907 và 1929. Tuy vậy, năm 1940, ngay sau khi ông viết cuốn sách nổi tiếng “How to Trade in Stocks”, ông bị thất bại, phá sản và tự tử. Chiến thuật “Kim tự tháp” do ông phát triển: mua vào nhiều hơn những cổ phiếu đang tăng giá và bán ra những cổ phiếu đang rớt giá, là một trong những chiến thuật được các nhà kinh doanh cổ phiếu áp dụng cho đến bây giờ. Chiến thuật thứ hai là chiến thuật “Thăm dò”. Trong chiến thuật này ông sẽ thực hiện việc mua có tính cách thăm dò một số cổ phiếu. Sau một thời gian ngắn, dựa vào hiệu quả lợi nhuận của những cố phiếu thăm dò này, hoặc là ông bán hẳn; còn không thì sẽ mua thật nhiều để đưa vào kim tự tháp của mình. Jess Livermore, cũng giống như phần lớn các nhà kinh doanh cổ phiếu lớn khác, quyết định dựa vào nghiên cứu và phân tích của bản thân, chứ ít khi dựa vào tư vấn của các chuyên gia, hay các công ty tư vấn. Chiến thuật “kinh doanh tập trung” và “hành động nhanh” của Gerald M. Loeb Thừa hưởng một lượng tài sản lớn, Gerald Loeb có nhiều thuận lợi hơn các nhà kinh doanh, đầu tư khác. Một điều khá lý thú là vào năm khi Benjamin Graham - một trong những “ông tổ” về đầu tư, viết cuốn “Phân tích chứng khoán”, kêu gọi các nhà đầu tư mua cổ phiếu và giữ lại để được nhận giá trị thật của cổ phiếu trong tương lai, thì Gerald M. Loeb viết cuốn “Chiến đấu cho sự tồn tại trên trị trường chứng khoán” với quan điểm hoàn toàn đối nghịch. Ông quan niệm rằng, các nhà kinh doanh phải hết sức năng động trong việc mua bán, và thị trường là chiến trường. Trái với quan điểm truyền thống của đầu tư là đa dạng hóa danh mục đầu tư, chiến thuật của ông là “kinh doanh tập trung”, tức là chỉ mua một số loại cổ phiếu sau khi đã lựa chọn kỹ càng và chấp nhận rủi ro của những cổ phiếu đó. Chiến thuật thành công thứ hai của ông là “hành động nhanh”. Ông luôn quyết định mua và bán thật nhanh trước khi những diễn biến lớn xảy ra. Chiến thuật “Kỹ thuật và cơ bản” và “lý thuyết hộp” của Nicolar Darvas
  18. Nicolar Darvas là một nhà kinh doanh nghiệp dư. Nghề nghiệp chính của ông là vũ công. Thế nhưng, với sự tập trung cao độ vào kinh doanh, ông đã kiếm được 2 triệu đô la, đó là số tiền lớn vào những năm 50 của thế kỷ trước. Ông là người phát triển lý thuyết hộp. Theo lý thuyết này, giá cổ phiếu lên và xuống trong những giới hạn nhất định, và tạo ra một cái “hộp”. Đến một thời điểm nào đó, giá của cổ phiếu sẽ vượt qua cái hộp này, và tạo ra một cái “hộp” mới. Mua vào những cổ phiếu ngay giai đoạn nó thoát ly cái hộp cũ sẽ tạo ra những lợi nhuận cao. Ông cũng là người đề ra phương pháp phân tích kỹ thuật - phối hợp với cơ bản. Tuy quan tâm cả hai, nhưng ông nghiêng về yếu tố kỹ thuật - chuyển động của giá, và số lượng cổ phiếu mua bán - hơn là yếu tố cơ bản - tình hình kinh doanh và năng lực quản lý của công ty Chiến lược CANSLIM của William J. O’Neil Xuất thân là một người môi giới chứng khoán, William O’Neil trở thành nhà kinh doanh thành công và vẫn tiếp tục kinh doanh cho đến bây giờ. Ông là người sáng lập tờ Investor’s Business Daily và viết nhiều sách về đầu tư và kinh doanh cổ phiếu. Ông là người phát triển lý thuyết kinh doanh chứng khoán gọi là CANSLIM. Theo lý thuyết này của ông, giá một cổ phiếu sẽ chuẩn bị tăng khi có một hay nhiều đặc điểm sau đây: C - Current Quarter: Lợi nhuận trong quí tăng trưởng ít nhất 25%. A - Annual Earning: Lợi nhuận năm tăng trưởng so với ba năm trước ít nhất 25%. N - New Factors: Yếu tố mới, chẳng hạn sản phẩm mới, quản lý mới. S - Supply and Demand: Khi lượng cổ phiếu giao dịch tăng cao. L - Leader or Laggard: Giá cổ phiếu đi theo khuynh hướng những cổ phiếu hàng đầu. I - Institutional Sponsorship: Khi các nhà đầu tư tổ chức mua và sở hữu. M - Market Direction: Khi có 75% số cổ phiếu trên thị trường đi theo xu hướng của nó. Những điểm quan trọng Mặc dù những nhà kinh doanh thành công có những chiến thuật, chiến lược khác nhau nhưng họ chia sẻ những điểm chung sau: * Cần có một khoản tiền dự trữ đề phòng những rủi ro. Khoản dự trữ này sẽ giúp nhà kinh doanh tiếp tục kinh doanh chứ không thụ động phụ thuộc vào kết quả của những “phi vụ” trước. * Cắt lỗ càng sớm càng tốt. Khi đã lỡ mua cổ phiếu bị xuống giá, cắt ngay. Không bao giờ giữ cố phiếu đang giảm giá và chờ giá sẽ cao trở lại. * Mua giá cao và bán giá cao hơn. Để kinh doanh thành công, không chỉ là mua thấp bán cao, mà còn là mua giá cao và bán ra cao hơn. * Đôi khi rút khỏi thị trường. Không phải lúc nào nhà kinh doanh cũng thành công, mà phải biết rút khỏi thị trường. O’Neil, Darvas và Loeb thường không thích tham gia thị trường đang xuống giá, trong khi đó Livermore lại không tham gia khi thị trường đều đặn, bình ổn. * Mua tập trung chứ không nên đa dạng hóa danh mục đầu tư. * Quan tâm đặc biệt đến khối lượng giao dịch và giá. Đối với những nhà kinh doanh cổ phiếu, hai chỉ số này quan trọng hơn bất cứ chỉ số nào, kể cả P/E, các loại tỷ suất lợi nhuận. * Sau khi thực hiện các phi vụ, phải bỏ thời gian phân tích để rút kinh nghiệm, tại sao mình thua hay thắng phi vụ đó. * Cống hiến toàn thời gian. Để kinh doanh thành công, phải dành công sức, thời gian. Ngay cả trường hợp Darvas là vũ công nhưng cũng dành một thời gian lớn hàng ngày (trên 8 tiếng) để theo dõi và thực hiện việc kinh doanh. * Thực hiện các cuộc nghiên cứu phân tích độc lập, các nhà kinh doanh cổ phiếu thành công phải biết tự nghiên cứu và phân tích, không nên dựa vào ý kiến tư vấn của người khác. * - Quyết định dựa vào dữ kiện, không dựa vào cảm xúc. Ví dụ như nhà kinh doanh không tiếc khi phải bán ra cổ phiếu, không quá mừng rỡ mà bán lúa non khi giá cổ phiếu vẫn còn đang lên.
  19. * Quan trọng nhất là phải chấp nhận rủi ro. Một chiến lược đầu tư gọi là hiệu quả khi có thể giảm thiểu rủi ro và tăng cao lợi nhuận. Trong khi đó, các chiến lược kinh doanh hầu như phải chấp nhận mức rủi ro cao vì chính rủi ro cao đó là nguồn gốc của lợi nhuận cao. Nhà kinh doanh vì vậy phải chấp nhận những phi vụ thất bại, và đừng nên kỳ vọng rằng lúc nào họ cũng thắng được thị trường. Những sai lầm thường gặp của nhà đầu tư chứng khoán! Ngày 10 tháng 1 năm 2008 Để kiếm được tiền từ việc đầu tư chứng khoán, điều quan trọng nhất là bạn phải tránh được những sai lầm chết người. Các chuyên gia nghiên cứu đã tìm hiểu các hành vi tài chính của các nhà đầu tư, ví dụ như cách phân tích hay phản ứng của họ trước các thông tin tài chính, để tìm ra nguyên nhân dẫn đến các sai lầm này. Không chỉ các nhà đầu tư cá nhân mà ngay cả các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư cũng rất dễ mắc phải sai lầm khi đầu tư chứng khoán. Vì dù có giỏi đến đâu chăng nữa, họ cũng vẫn là những con người bằng xương bằng thịt. Hy vọng những nghiên cứu về các hành vi tài chính này sẽ giúp ích cho các nhà đầu tư. Những sai lầm lớn nhất Những sai lầm lớn nhất mà các nhà đầu tư thường mắc phải là: - Quá tự tin vào khả năng dự đoán trước diễn biến của thị trường và hoạt động của các quỹ đầu tư. - Quá trung thành với những thất bại. - Chỉ nhìn thấy lãi. - Quá thiển cận. - Phớt lờ những chi phí theo thời gian. Nếu biết nhìn nhận sâu sắc hơn về những sai lầm có thể mắc phải cũng như những ảnh hưởng của chúng đối với việc kinh doanh, bạn sẽ dễ dàng thành công hơn. Quá tự tin Hầu hết mọi người đều quá tự tin. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người thường đánh giá quá cao những khả năng của bản thân mình. Thậm chí, nhiều người còn cho rằng mình luôn cao hơn người khác một cái đầu. Nếu xét về giới tính thì đàn ông có xu hướng tự tin hơn phụ nữ rất nhiều. Sự tự tin đúng mực mang lại nhiều lợi ích cho con người trên một số lĩnh vực của cuộc sống. Một người tự tin có xu hướng vui vẻ và làm việc chăm chỉ hơn những người khác. Họ cũng có khả năng đương đầu tốt hơn với những khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, quá tự tin trong đầu tư lại hết sức nguy hiểm bởi vì thị trường chứng khoán là nơi mà mọi thứ có thể thay đổi ngay trong tíc tắc. Quá tự tin thường dẫn tới việc kinh doanh vượt quá khả năng nguồn vốn. Việc mười triệu quỹ cổ phiếu được trao đổi, giao dịch trao tay mỗi ngày đã thể hiện xu hướng kinh doanh đó của các quỹ đầu tư. Ai cũng có quyền hy vọng rằng, bằng việc tích cực mua bán các quỹ tương hỗ, họ có thể trở thành một Peter Lynch thứ hai (người được mệnh danh là nhà quản lý tiền số một thế giới đã phát triển Quỹ Magellan Fund từ 20 triệu đôla năm 1977 lên đến mức 14 tỷ đôla năm 1990). Khoản thù lao hậu hĩnh cho môi giới có thể cho phép nhiều cá nhân hấp tấp, vội vàng nhảy từ quỹ này sang quỹ khác chỉ sau một cuộc điện thoại hoặc vài cú click chuột. Nhà đầu tư quá tự tin cũng có thể chơi trò đánh cược lớn bằng cách tập trung vào một quỹ ưa thích hoặc thậm chí dùng biện pháp cầm cố chứng khoán để lấy tiền đầu tư (margin trading). Sự tự tin có xu hướng thay đổi theo các chu kỳ lên xuống của thị trường chứng khoán. Nói chung, những nhà đầu tư nhập cuộc thị trường chứng khóan vào cuối thập niên 90 – khi cổ phiếu được các nhà đầu tư ôm vào để đầu cơ và làm giá, được đánh giá là tự tin hơn rất nhiều so với các nhà đầu tư thời nay. Sự thành công của nhiều nhà đầu tư trong thời điểm thị trường đầu cơ giá lên đó chính là kết quả của sự
  20. quá tự tin, chứ không phải có kỹ năng giỏi như nhiều người khi đó lầm tưởng. Lòng tự hào của một cá nhân đạt được những thành công liên tiếp sẽ có thể nhân sự tự tin lên nhiều lần. Và trong thực tế, đối với một nhà đầu tư thành công, ngoài khả năng tự tin thì yếu tố may mắn nhiều khi vẫn đóng vai trò quan trọng hơn kỹ năng. Tuy nhiên, sau khi giá cả thị trường đạt tới tột đỉnh vào cuối 1999 đầu năm 2000, thì nhiều cổ phiếu rơi vào tình trạng giảm giá không thể kiểm soát được. Kể từ khi đó, sự tự tin và hoạt động thương mại của các nhà đầu tư giảm đi một cách đáng kể. Quá trung thành với những thất bại Tất cả mọi người đều không thích sự thất bại. Nhiều người sẽ không chấp nhận sự thất bại trong đầu tư chừng nào họ chưa thu lại được vốn đầu tư ban đầu khi mua được cổ phiếu với giá gốc (get-even). Thất bại thực sự làm tổn thương lòng tự trọng. Trên thực tế, có nhiều nhà đầu tư lỗ vốn hơn là hòa vốn, chứ chưa nói gì đến có lãi. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy nỗi đau của việc mất $10.000 bằng hai lần niềm hạnh phúc khi nhận được $10.000. Vì vậy, mọi người luôn cố gắng để tránh những cảm giác hối tiếc và đau đớn về mặt tâm lý. Tuy không thích sự thất bại, nhưng mọi người lại thường không phân tích nguyên nhân thất bại một cách hợp lý. Trớ trêu thay, những người thất bại, khi càng cố gắng giảm thiểu sự thất bại, họ lại càng làm gia tăng những nguy cơ rủi ro. Giống như những con bạc khát nước, các nhà đầu tư tiềm năng thường tăng khoản cá cược của họ lên khi đang may mắn để kéo dài vận may của mình. Một người bốc đồng có thể vội vàng nhân đôi số cổ phiếu của một quỹ không ổn định (có thể giảm giá tới 50%) để giảm mức chi phí trung bình khi mua cổ phiếu đó. Nhưng giá thấp có thể trở nên thấp hơn nữa. Ngay kể cả các nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi tâm lý sợ thất bại. Những nhà quản lý quỹ có thể sẽ gặp rủi ro lớn hơn trong những thời kỳ quỹ phải chịu tỷ lệ chi phí cao hoặc cổ phiếu liên tục rớt giá. Hội chứng “get-even” này có thể rất bất lợi cho các nhà đầu tư tài chính giỏi. Nếu việc đầu tư không thuận lợi, họ kiên định và hy vọng sẽ có bước đột phá. Họ có thể tránh bị rơi vào trạng thái hối tiếc vì sợ mình là một nhà đầu tư tồi nên đã vội vã bán quỹ đầu tư đi ngay khi nó xuống giá. Bởi vì, nếu bán thì họ đã kết thúc quá trình đầu tư bằng sự thất bại, còn nếu không bán, họ còn có hy vọng nó sẽ phục hồi và biết đâu nó sẽ phục hồi thật. Nhưng sự kiên nhẫn cũng phải có một giới hạn nhất định. Giả sử bạn muốn nhân tiền của bạn lên gấp đôi trong 8 năm. Như vậy, trung bình mỗi năm bạn phải đạt lợi nhuận ở mức 9,05%. Tuy nhiên, nếu bị mắc kẹt vào những kế hoạch vô dụng, không mang lại lợi nhuận như mong muốn, bạn sẽ càng khó khăn hơn để đạt được mục tiêu ban đầu. Ví dụ, nếu giá trị đầu tư của bạn bị trượt giá 25% trong năm năm đầu, có nghĩa là bạn phải đạt được sự tăng trưởng lợi nhuận 38,67%/năm trong ba năm còn lại để đạt được mục tiêu đề ra là tăng gấp đôi số tiền của mình trong 8 năm. Một sự đầu tư mà không có lãi sẽ gây ra rất nhiều tổn thất nếu kéo dài. Với 0% doanh thu trong suốt năm năm đầu tiên thì bạn phải kiếm được 25,99% lợi nhuận trong những năm còn lại để gấp đôi số tiền trong 8 năm theo kế hoạch. Về mặt tâm lý của các nhà đầu tư, họ vẫn nuôi hy vọng vào một phép diệu kỳ nào đó. Bằng cách suy nghĩ tích cực, nhà đầu tư có thể đương đầu với những thất bại tốt hơn. Thay vì suy nghĩ “nếu bán tức là tôi sẽ thừa nhận sự thất bại nhục nhã to lớn”, hãy nghĩ đơn giản “Tôi sẽ chuyển tài sản của tôi sang một mục đích sử dụng hiệu quả hơn”. Câu nói này tương đối hữu ích nếu bạn đang cố gắng thuyết phục một ai đó chấp nhận sự thất bại một cách dễ dàng hơn. Chỉ nhìn thấy lãi Không có gì là khiếm nhã khi nói rằng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng con người rất nhanh nhạy trong việc thu về những lợi ích cho mình. Niềm tự hào và sự hối tiếc luôn song hành trong suy nghĩ của họ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2