intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kiểu nhân vật ma trong văn xuôi đương đại Việt Nam

Chia sẻ: Kinh Kha | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:9

51
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong khu rừng văn học kì ảo xưa nay, truyện về các hồn ma bóng quỷ bao giờ cũng là cây đại thụ um tùm nhất. Theo thời gian, cây phả hệ truyện ma không vì thế mà già cỗi, trái lại như được cung cấp thêm nhiều dưỡng chất mới của thời đại, nó càng tiếp tục đẻ nhánh, sinh cành thành một dòng chủ đạo của bộ phận văn học kì ảo. Mời các bạn cùng tìm hiểu nội dung này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kiểu nhân vật ma trong văn xuôi đương đại Việt Nam

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 23, 2004<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KIỂU NHÂN VẬT MA TRONG VĂN XUÔI ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM<br />    Bùi Thanh Truyền <br />                                                Trường Đạûi học Sư phạm, Đại học Huế<br /> <br /> <br /> 1. Trong khu rừng văn học kì ảo xưa nay, truyện về các hồn ma bóng quỷ bao <br /> giờ cũng là cây đại thụ um tùm nhất. Theo thời gian, cây phả hệ truyện ma không vì <br /> thế mà già cỗi, trái lại như được cung cấp thêm nhiều dưỡng chất mới của thời đại,  <br /> nó càng tiếp tục đẻ nhánh, sinh cành thành một dòng chủ đạo của bộ phận văn học kì  <br /> ảo. Sức sống mãnh liệt của dòng truyện này khiến không ít người phải tốn nhiều <br /> công sức để  tìm hiểu những căn nguyên ra đời và trưởng thành của nó. Theo chúng <br /> tôi, muốn làm được điều này, có lẽ  không ngoài việc lần lại cội nguồn xa xưa của <br /> truyện ma.<br /> Trước khi có văn học thành văn, làng quê phương Đông nói chung và Việt  <br /> Nam nói riêng đều được tắm mình trong bộ  phận văn học truyền miệng thô mộc,  <br /> khỏe khoắn, trong đó hấp dẫn người nghe nhất vẫn là những câu chuyện thần linh,  <br /> quái dị. Mà cái thế giới ma trong dân gian thì thiên hình vạn trạng, nó xuất phát từ thế <br /> giới tự nhiên ngỡ như gần gũi, nhẵn mặt nhưng cũng hết sức xa lạ, kì bí đối với con  <br /> người. Quan niệm vạn vật hữu linh khiến người ta nhìn sự vật nào cũng như thấy có  <br /> sinh mệnh, có cuộc sống riêng. Chính vì thế, ma đâu chỉ  là người chết hiện hồn, ma  <br /> còn là loài vật, đồ vật, cây cối, thậm chí cả các hiện tượng địa lí, tự  nhiên như sông  <br /> núi, gò hoang... "lâu ngày thành tinh". Niềm tin về  các thế  lực siêu nhiên lẩn khuất  <br /> xung quanh dường như khá thường trực ở mỗi người và "thần cây đa, ma cây gạo, cú <br /> cáo cây đề" trở thành câu cửa miệng của cả một cộng đồng. Hít thở bầu không khí li  <br /> kì, rùng rợn từ  thuở   ấu thơ, chuyện ma đã ăn sâu vào tâm khảm mỗi cá nhân, trở <br /> thành cái "vô thức tập thể" của dân tộc. Nghe chuyện ma thì sợ, nhưng càng sợ càng <br /> thích nghe. Chất ma túy của chuyện ma cùng với nỗi sợ bản năng ấy không hề  mất  <br /> đi mà chỉ ngụy trang, biến thái khi con người giã từ  tuổi thơ  sang tuổi trưởng thành,  <br /> khi dân tộc chia tay với giai đoạn nguyên thủy, sơ  khai trong tư  duy, nhận thức để <br /> bước vào thời đại văn minh, tiến bộ.<br /> Cùng với quan niệm vạn vật hữu linh thuần phác của dân gian, ma trong văn <br /> học thành văn còn bị chi phối bởi quan niệm phi nhị nguyên về  thế  giới ­ một quan  <br /> niệm khá  đặc trưng và rất phổ  biến  ở   đa số  các nước  phương  Đông tiền công  <br /> nghiệp,  ở  đó không có sự  ngăn cách tuyệt đối giữa người sống và người chết, giữa  <br /> cõi âm và cõi dương. Trong tâm thức người Việt, cõi âm là cõi vĩnh hằng, là biểu  <br /> hiện của phạm trù thời gian vĩnh cửu. Chết không phải là hết mà là chuyển từ  trạng <br /> 31<br /> thái sống này sang trạng thái sống khác, từ trạng thái người sang trạng thái ma (hoặc <br /> quỷ) để  tiếp tục cuộc đời ở  thế  giới bên kia. Đó chỉ  là sự  "khuất núi", nghĩa là vẫn  <br /> tồn tại trên mặt đất này nhưng vẫn hiện diện một khoảng cách nhất định đối với <br /> người sống (tức  ở  bên kia núi) [xem 1] như  kiểu "lên đường theo tổ  tiên", "về  với  <br /> ông bà ông vải" vậy. Hai cõi dương (bên này) và âm (bên kia) gắn bó với nhau như <br /> hai mặt của một tờ giấy, tương thông và tác động qua lại lẫn nhau mà "sứ  giả  của <br /> chúng là những thần tiên, quái vật, những ông đồng, bà cốt, đạo sĩ, thầy pháp, chân  <br /> nhân..." [2] nhưng thường gặp hơn cả vẫn là ma quỷ. <br /> Truyện ma đương đại, do được kế  thừa một di sản đồ  sộ  từ  truyền thống, <br /> nên sức sống vẫn không hề suy giảm. Dĩ nhiên, cùng với đặc trưng huyết thống, ảnh  <br /> hưởng của môi trường, thời đại cũng là "chất tăng trọng" đáng kể đối với sự tái sinh  <br /> rầm rộ của chúng. Do khuôn khổ của bài viết và cũng xuất phát từ hạn chế của việc  <br /> bao quát tư  liệu, chúng tôi chỉ  hướng trọng tâm vào khảo sát hệ  thống nhân vật ma <br /> với tư cách là hiện hình (vision) của những người đã khuất mà thôi.<br /> 2. Có lẽ  cũng nên bắt đầu việc dựng chân dung của kiểu nhân vật này bằng  <br /> cách phát thảo đôi nét về diện mạo. Dù là tồn tại song song với thế giới thực, là anh  <br /> em song sinh của con người, thế giới ma trong văn xuôi hôm nay vẫn có thể khu biệt <br /> mình qua ba motip quen thuộc: Họ là phaøn vật chất, đứng ngoài quy luật nghiệt ngã  <br /> của thời gian với âm khí nặng nề.<br /> Dường như  là một sự  quy  ước ngầm: Nếu như  cảm nhận được bằng giác  <br /> quan thì ma (quỷ) trong văn xuôi đương đại bao giờ  cũng mang theo cái lạnh ghê <br /> người từ cõi âm (đối lập với cái ấm của con người trên dương thế). Âm khí thường  <br /> toát ra từ  "đôi môi lành lạnh" (Thần đất ­ Vũ Bão), từ  đôi mắt "xanh biếc, cái mầu <br /> xanh lạnh của mầu xanh con đom đóm" (Ám ảnh có thật ­Trần Huy Quang), từ giọng <br /> nói "lạnh như  băng", từ  thân xác "to lớn lạnh lẽo" (Giữa trần gian và địa ngục  ­ <br /> Nguyễn Đình Bổn)... nhưng nhiều nhất vẫn là từ bàn tay. Không hẹn mà nên, bàn tay  <br /> của tráng sĩ cụt đầu (Đêm vu lan ­ Võ Thị Hảo), của Quỷ Vô thường (Giữa trần gian  <br /> và địa ngục), của nàng Bướm Trắng trong câu chuyện cùng tên, của những liệt sĩ  <br /> như Lăng (Bến trần gian ­ Lưu Sơn Minh), Dương (Thần đất) đều khiến người sống <br /> phải ngạc nhiên xen lẫn nghi ngờ tư cách tồn tại của họ  trên cõi trần, bởi nó "nhợt  <br /> nhẽo và giá lạnh", "lạnh ngắt", "cứng lạnh như sắt", "lạnh băng", "lạnh thế", "lạnh <br /> lắm nhưng có sức hút lạ kì"...<br /> Trường hợp thứ  hai, nếu không cảm nhận được bằng xúc giác thì nhân vật  <br /> ma chính là những phản vật chất. Họ là Lăng với cái bóng "trôi nhè nhẹ trên sông", là  <br /> Dương với "khuôn mặt chỉ  là một bóng mờ  mờ  có in hình đôi mắt đắm đuối", là  <br /> những người trong phiên chợ  dưới trăng rằm với hình hài "không phải là da thịt mà  <br /> chỉ như không khí cô đặc lại mà thôi...". Và khi họ di chuyển, bước chân "sao cứ như <br /> bay, như  lướt" trên mặt  đất (Chợ  rằm dưới gốc dâu cổ  thụ  ­ Y Ban), "không nghe <br /> thấy tiếng chân, dường như  không có sự  nhún nhảy của bước chân" (Ám  ảnh có  <br /> thật). Rời dương thế   để  vào cõi âm, họ  mang gương mặt nửa thực nửa hư  của  <br /> những cư dân nghĩa địa. Nghĩa là, như  cách mô tả  của hồn ma ông giáo trong Nghĩa  <br /> địa xóm Chùa (Đoàn Lê), "ngoài đầu lâu xương sọ bên trong chúng tôi mang thêm lớp  <br /> <br /> 32<br /> bọc lờ  mờ  xanh lợt, y hệt nét mặt sinh thời. Tấm màn bao phủ  này nhìn rõ nhưng <br /> không sờ  mó thấy. Có vậy chúng tôi mới phân biệt được nhau, chứ  lủng củng rặt  <br /> những xương ai chả giống ai". Tương tự như lời nhân vật này, chúng ta cũng có thể <br /> nói rằng,  nếu không tồn tại hai đặc trưng vừa nêu, thật khó có thể xác định ranh giới  <br /> giữa ma và người. <br /> Chính cái bản chất phản vật chất này khiến cho ma không thể hiện diện giữa <br /> thanh thiên bạch nhật, vì họ "không chịu nổi cả gió lẫn mặt trời" (Đợi bạn ­ Ngô Tự <br /> Lập) bởi "khí âm hễ gặp ánh mặt trời là bị  tan biến ngay" (Cõi âm ­ Triệu Bôn) mà <br /> phải lấy đêm với bóng tối dày đặc làm môi trường tồn tại. Nhưng "đêm" vẫn chưa <br /> hẳn là lí do tối thượng để  hồn ma từ  thế  giới bên kia dấn thân vào chốn nhân gian <br /> nhiều nghiệp chướng. Cội rễ của vấn đề nằm ở chỗ khác, sâu xa hơn, đó là một cái  <br /> tâm "còn ham cõi dương", vẫn nặng nợ với bao căn duyên nơi trần thế.<br /> Đứng ngoài quy luật nghiệt ngã của thời gian là đặc trưng thứ ba thường thấy  <br /> ở  các nhân vật ma. Cái chết đã đưa họ  bước từ  cõi trần "sinh lão bệnh tử" sang cõi  <br /> vĩnh hằng, ở đó nhân vật không hề thay đổi diện mạo trước lúc nhắm mắt xuôi tay.  <br /> Chúng ta sẽ gặp  ở đây một hài nhi "mấy nghìn năm tuổi" (Cõi âm), một ông già tuổi <br /> trên thất thập vẫn trong hình hài của chàng trai tuổi hai mươi ( Tàn đen đóm đỏ  ­  <br /> Phạm Ngọc Tiến), một cung nhân từ thời Nguyễn vẫn là một cô bé "mười lăm mười  <br /> sáu tuổi", "với vẻ đẹp lạc loài và y trang lạc thời" (Bức tranh thiếu nữ áo lục ­ Quế <br /> Hương). Tráng sĩ cụt đầu thì "tay phải (...) cầm bảo kiếm, tay trái đỡ một cái đầu lâu <br /> râu tóc xoã xượi" (Đêm vu lan), một vị  tướng "thể xác lừng lững, cao đến mét bảy,  <br /> đóng khung trong bộ  quân phục cấp tướng, huân chương đầy ngực" (Nghĩa địa xóm  <br /> Chùa). Nhưng có lẽ  day dứt trái tim người đọc hơn cả  là trăm ngàn hồn ma liệt sĩ.  <br /> Họ  cứ  thế, mãi mãi tuổi đôi mươi, "trẻ  nguyên, trẻ  mãi", vẫn hồn nhiên thắp lên  <br /> những  ước mơ, hoài bão  ấm cả  cõi âm (Những khóm cúc hoa vàng ­ Thang Sắc, Ăn  <br /> mày dĩ vãng ­ Chu Lai, Cặp bồ  với ma ­ Ngô Văn Phú, Tiếng rừng ­ Hiền Phương,  <br /> Đốm lửa ­ Nguyễn Thị Minh Thúy, Đợi bạn, Thần Đất, Bến trần gian, Tàn đen đóm <br /> đỏ...). Dường như  tất cả  đều muốn gửi đến cho những người đang sống lời nhắn <br /> nhủ thiết tha: Xin gửi lại các bạn quỹ thời gian của chúng tôi trên trần thế; vì người  <br /> đã khuất mong các bạn hãy sống tốt đẹp hơn...<br />  Cũng giống như truyền kì, chí dị, phần lớn ma trong văn xuôi hôm nay là nữ, <br /> họ về dương gian với những mục đích khác nhau. Nếu là do còn vương vấn bụi trần, <br /> còn biết xót thương những nỗi đau trần thế, còn "khát yêu đương", họ  sẽ  hiện lên <br /> trong chân dung "người đàn bà quyến rũ", chủ động, cuồng nhiệt trong tình yêu, vượt  <br /> ra ngoài những khuôn phép thường tình. Khác với những chị  em song sinh trong  <br /> truyền kì, dẫu vẫn "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" để  đến với tình lang <br /> nhưng "tam tòng tứ  đức" của Nho gia dù sao vẫn dựng lên giữa họ  một ranh giới <br /> không sao xóa sạch ("xé rào" cỡ Liễu Nhu Nương và Đào Hồng Nương trong  Truyện  <br /> kì ngộ ở trại Tây (Truyền kì mạn lục) cũng chỉ dám "đứng ở bên trong bức tường đổ <br /> (...) hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà ném cho Hà Nhân" để gợi sự chú ý của <br /> chàng, "lâu ngày như  thế  Nhân không mần ngơ  được, một hôm mới đứng lại trò <br /> chuyện lân la" [3]; vì thế họ cũng không thoát khỏi thân phận của kẻ liễu yếu đào tơ <br /> <br /> 33<br /> tìm cội tùng quân nương bóng), ma nữ  giờ đây là những người hoàn toàn chủ  động: <br /> nửa đêm đến, mờ sáng đi, thậm chí chủ động cả ... tỏ tình với cung cách "bạo dạn lạ <br /> lùng" (Độc huyền ­ Nguyễn Đình Bổn), đặc biệt là chủ động quyết định số phận của  <br /> chính họ. Nhưng quan trọng hơn, họ đến với người yêu trần thế  không phải để  tìm <br /> sự  chở che, an ủi mà chính là để  xẻ  chia, giúp đỡ  những người đàn ông cô đơn, bất <br /> hạnh. Với Nguyễn Văn Nhân "độc thân, vợ bỏ, không con cái", mấy ngày tết vẫn hiu  <br /> quạnh  ở nghĩa trang hoặc chàng trai đang gặp nhiều bất như ý một mình sống giữa  <br /> vùng bán sơn dã tĩnh lặng, chàng đánh cá mồ côi khốn khó thì hồn ma của Hoàng Thu <br /> Huệ, của Lan, của cô gái vô danh như là thứ nước cam lồ xoa dịu nỗi cô đơn, xả cho  <br /> họ những nhọc nhằn cay đắng (Hoa lạ ­ Nguyễn Đình Bổn, Độc huyền, Cặp bồ với  <br /> ma). Với người chiến sĩ văn công thì cô gái áo lục như  một tấm bùa hộ  mệnh, một  <br /> cảm hứng nghệ thuật đích thực nâng đỡ tâm hồn anh vượt qua những gian nan khốc  <br /> liệt của chiến tranh và bao cám dỗ  của thời bình (Hồn trúc ­ Nguyễn Văn Thông). <br /> Điệp (Bướm trắng ­  Ngô Văn Phú) không kể  sự  nguy hiểm  đến tính mạng giúp <br /> người yêu ­ ân nhân đỗ  đạt, trả  được món nợ  công danh, hồn vợ  hoûa sĩ Xuân Tư <br /> chấp nhận bán mình (đồng nghĩa với việc chết thêm một lần nữa) để  cho chồng có <br /> tiền thực hiện bức tranh hằng ấp  ủ ( Bán cốt ­ Võ Thị Hảo)... Rõ ràng cái "thiên tính  <br /> nữ" lúc sống vẫn còn vẹn nguyên khi nhân vật "giã từ cõi thật để vào hư"...<br /> Ngược lại, nếu kiếp trước chịu nhiều oan khuất để  đến nỗi phải chọn cái  <br /> chết tức tưởi thì họ  sẽ  hiện về  trong sắc diện của những hồn ma báo oán, trả  thù  <br /> những kẻ đã gây nỗi bất hạnh cho mình bằng vẻ ngoài khủng khiếp, bất thành nhân  <br /> dạng: "lè lưỡi (...), mắt trợn trừng sáng quắc", "nhe hai hàm răng trắng nhởn ra", "cái <br /> đuôi tóc hồi trước bây giờ  là một con rắn ngoe nguẩy" (Người cùng phố  ­ Nguyễn <br /> Anh Thư); "bóng ma lõa lồ  với mái tóc dài đến gót chân ôm quanh người lúc ẩn lúc <br /> hiện (...) cất lên tiếng cười nghe lạnh đến xương" ( Huyền thoại về  người đẹp ­  <br /> Kiều Bích Hậu); hoặc "khuôn mặt (...) trắng như sáp (...), hai con mắt không có lòng  <br /> đen, nó chỉ tròn như hai đồng xu" (Ám ảnh có thật)... Họ chính là những tín sứ của tử <br /> thần dẫn dụ những linh hồn tội lỗi xuống địa ngục.<br /> Nhưng cuộc sống âm cung không phải lúc nào cũng khiến nhân vật thực hiện  <br /> hành vi trả  thù với trái tim lạnh băng, vô cảm. Trái lại, trong thẳm sâu của cõi lòng <br /> nhiều thương tổn bởi hận thù kia vẫn còn âm  ỉ  cháy lên ngọn lửa nhân hậu, nhân <br /> tình, nhất là khi họ  đứng trước những con người giàu đức hi sinh, chung thủy như <br /> trường hợp hồn ma của Xoan trong Huyền thoại về người đẹp dưới đây:<br /> "Thương chắp tay lại, giọng cô run lên vì đau khổ:<br /> ­ Ôi thưa bà, tình yêu của chúng con thật tha thiết, con yêu anh ấy, anh ấy yêu  <br /> con, chúng con không thể rời nhau được. Nếu bà không thể tha cho anh ấy thì xin bà <br /> hãy ban cho con một ân huệ.<br /> ­ Điều gì vậy? ­ bóng ma lạnh lùng hỏi.<br /> ­ Xin bà hãy cho con được chết cùng anh ấy.<br /> ­ Cô còn trẻ, đời còn dài. Cô không nên chết.<br /> ­ Nhưng con sống mà không có anh ấy, thì đau khổ hơn cả cái chết.<br /> Xin bà hãy cho chúng con được chết bên nhau.<br /> <br /> 34<br /> Bóng ma bỗng lay động, đầu gục rũ xuống. Thương thoảng nghe như có tiếng <br /> khóc. Rồi một làn gió bay qua mặt cô, bóng ma biến mất"<br /> Thì ra cái quan niệm đức năng thắng số, tình yêu hóa giải hận thù vẫn còn <br /> bảo lưu giá trị   ở  thế  giới bên kia. Nhờ  thế  cõi âm không còn hoang  ảo, dịu vợi mà  <br /> gần gũi, ấm áp tình người, và ma cũng không còn gợi cảm giác xa lạ hay khiếp sợ mà  <br /> lung linh trong vẻ đẹp thánh thiện rất con ngưòi, bởi "hễ ai có tình thì ma hay người  <br /> đều quý" (Cặp bồ với ma). <br /> Nếu "ma yêu" khêu gợi lòng hướng thiện ở người đọc thì "ma báo oán" lại là  <br /> sự  răn đe, cảnh tỉnh. Hai kiểu nhân vật thoáng nhìn có vẻ  trái ngược nhưng lại khá  <br /> thống nhất với nhau, làm nên sự  đầy dặn trong chân dung nhân vật theo quan điểm <br /> của con người hiện đại. Bởi cũng như  người sống, nhân vật ma cũng tồn tại song  <br /> hành hai thái cực tình cảm "biết căm thù và biết yêu thương". <br /> Nếu như trong văn xuôi truyền thống, hầu hết các "ma yêu" đều là nữ thì văn  <br /> xuôi hôm nay lại dành một vị  trí khá trang trọng cho phái mạnh, đặc biệt là những <br /> người lính từ  giã cõi đời khi tóc còn rất xanh. Thắng tham dự những phiên chợ  rằm <br /> dưới gốc dâu cổ  thụ  cũng chỉ  với mục đích dùng tiếng sáo trầm bổng, mê hoặc để <br /> dẫn gọi người yêu; anh lính tên Dương đêm đêm vẫn hiện về  để  được "nhìn đắm <br /> đuối vào đôi mắt Mai", để  những ngón tay cứ  vô thức "run bần bật" trong bàn tay  <br /> người tình (Thần Đất). Với Hiền, tình yêu của người đã khuất, như  lời chị  ­ "nâng <br /> đỡ  tâm hồn côi cút của tôi trên sa mạc cuộc đời" (Tiếng rừng). Tương tự  như  thế, <br /> tình yêu lẫn trong tình đồng chí, đồng đội của Thanh là ánh sáng hướng đạo cho <br /> Ngọc và Mĩ thoát khỏi họng súng của kẻ thù ( Đốm lửa). Nhưng có lẽ se thắt trái tim <br /> người đọc hơn cả vẫn là nỗi hoài nhớ trần gian đến quắt quay của những vong hồn  <br /> liệt sĩ. Không may mắn như những đồng đội khác có được một nắm đất gửi mình, <br /> họ  bị  "kẹt giữa trần thế  và âm cung" bởi "chết không mồ  không mả, không tên, <br /> không tuổi, không hương khói, hồn cứ  dật dờ" không sao tìm được đường về  quê  <br /> mẹ. Thế  nhưng, cũng như  người sống, anh lính Phương trong tiểu thuyết   Tàn đen <br /> đóm đỏ vẫn từng phút đợi chờ ngày hòa bình rồi mỏi mòn mong đợi ngày được đồng <br /> đội phát hiện ra hài cốt, vẫn dành cho người yêu (vong hồn cô gái giao liên) những  <br /> tình cảm đầy thủy chung, trong sáng. Còn Lăng, anh đã đi mấy chục năm mà vẫn  <br /> luẩn quẩn trong rừng. Cho tới một hôm, trong cuộc viễn du vô định, anh gặp một ông <br /> già râu tóc bạc phơ  cho anh một chiếc lá để  gài vào vành tai; cái lá sẽ  giữ  cho linh  <br /> hồn anh không tan ra khi quay về chốn cũ gặp lại mẹ già và người yêu thuở trước...  <br /> Nỗi khát sống, khát yêu vẫn cháy bỏng trong trái tim người lính sau khi trút hơi thở <br /> cuối cùng này khiến chúng ta bàng hoàng xúc động xen lẫn niềm ngưỡng mộ, trân <br /> trọng bởi một lần nữa phát hiện thêm ở họ những điều quý giá.<br /> Ở đây tình yêu đã trở thành diệu pháp để "người hóa" nhân vật ma ­ "ma khát <br /> yêu đương sẽ hóa người". Nhưng tình yêu, cái "nhịp cầu" nối hai thế giới người ­ ma  <br /> cũng mong manh, dễ gãy, nhất là khi nhân vật đối diện với sự  thật khắc nghiệt để <br /> rồi xót xa bừng ngộ về thực tại của mình: Dù nặng nợ và mê đắm đến đâu họ  cũng <br /> chỉ  là kiếp ma, mà "tình ma liệu có được bằng người" (Bướm Trắng), "âm dương <br /> cách trở cả một đời người thì làm sao mà chung sống với nhau được" ( Chợ rằm dưới  <br /> <br /> 35<br /> gốc dâu cổ thụ). Cái lằn ranh mơ  hồ giữa hai cõi âm dương như  đặt dấu chấm hết  <br /> cho những mối tình nặng màu sắc liêu trai của họ: Hoàng Thu Huệ phải theo hài cốt <br /> trở  về  quê hương, Dương, Lăng, Thắng... cũng phải ngậm ngùi " quay về  xứ  ma"  <br /> trước khi gửi lại trần gian cái nhìn lưu luyến và chan chứa ân tình. Vậy là thế  giới <br /> bên kia dù quyến rũ bao nhiêu chăng nữa thì cuộc đời thực tại vẫn là "điểm quy <br /> chiếu" để  người sống hướng đến. Dẫu sao tình yêu hư   ảo như  phù vân  ấy vẫn để <br /> lại trong lòng người nỗi ám ảnh, day dứt khôn nguôi về lẽ sống, về cái đẹp vụt qua  <br /> như ánh sao băng giữa cuộc đời này.<br />  Cũng là kiểu nhân vật siêu thực như  ma nhưng văn xuôi hôm nay ít đề  cập <br /> đến hình tượng quỷ. Trong số  53 truyện xây dựng kiểu nhân vật này, quỷ  chỉ  có 4 <br /> truyện, chiếm 7,5%. Họ là những sứ giả của Diêm phủ xuất hiện trong tác phẩm chỉ <br /> như chất phụ gia quan trọng để nhà văn tái tạo kiểu con người dục vọng ­ những nô <br /> lệ bị đồng tiền, danh lợi làm méo mó, quái dị cả nhân tính lẫn nhân hình.<br /> Người đọc sẽ  bắt gặp  ở  những truyện có kiểu nhân vật này một môtip khá <br /> quen thuộc trong văn xuôi kì ảo thế giới: môtip kí giao kèo (hoặc bán linh hồn, lương  <br /> tâm) với quỷ sứ (chẳng hạn một số tác phẩm của Balzac như   Miếng da lừa, Thuốc  <br /> trường sinh, Đá, Tấm bùa...). Là kẻ  mua lương tâm nên quỷ  xuất hiện trong truyện  <br /> với tư thế của một thương gia chính hiệu: "dáng vẻ phong lưu đường bệ lắm" ( Trái <br /> đắng ­ Nguyễn Minh Dậu), "cặp mắt (...) cân đối đến lạ kì, như luôn luôn ở thế cân  <br /> bằng trên một chiếc cân tiểu li (...) Ở vị trí của cái xương cụt  không hề  có một cái  <br /> đuôi của quỷ  sứ", bàn chân cũng "là một bàn chân người, không có bộ  móng guốc <br /> như  chân dê", "không hề  có đầu một cái sừng nào nhú lên cả" (Ai là quỷ  dữ? ­ Hồ <br /> Anh Thái). Tự  xưng là Quỷ  Vô thường thì cũng chỉ  "trùm kín mình từ  đầu tới chân  <br /> bằng một chiếc áo khoác màu tối", thế  thôi (Giữa trần gian và địa ngục). Nghĩa là <br /> tuyệt nhiên không có một chút dấu hiệu nào của quỷ. Vậy quỷ  dữ  là ai? Lần theo  <br /> diễn tiến hai cuộc bán lương tâm kì quặc của hai nhân vật "hắn" và ông Tô Lệch  <br /> trong Trái đắng và Ai là quỷ dữ ta sẽ phần nào giải mã được điều bí ẩn này:<br /> *Quá  khứ của kẻ bán lương tâm: Hắn có "thói quen thấy mình là vua mỗi khi  <br /> có đồng tiền trong tay"/ Tô Lệch "là kẻ vô lương tâm", "gây nên nỗi thống khổ cho  <br /> đồng nghiệp và dân chúng".<br /> *Tình trạng hiện tại của người bán lương tâm: thất nghiệp, ăn bám vợ/ Hoàn <br /> toàn nghỉ việc, đang ngồi chờ làm nốt một số thủ tục để về hưu. <br /> *Diễn biến của quá trình bán lương tâm: Qua hai công đoạn:<br /> ­ Lần 1: Người đàn ông lạ mặt đề  nghị hắn giao vợ mình cho y, ngược lại y  <br /> sẽ cho hắn một con số để đánh đề với lời căn dặn "nhớ là không được vượt qua giới  <br /> hạn ta đã cho phép đâu đấy!" / " Người kia đưa hai tay về  phía ông như  đang nhẹ <br /> nhàng tóm bắt một vật mềm và trơn nhuội. Ông bỗng lắc mạnh, hai vai đau đớn"...  <br /> Sau lần này, hắn "chỉ còn một nửa là người", Tô Lệch còn lại "một nửa lương tâm",  <br /> "cảm giác là mình nhẹ đi rõ rệt".<br /> ­ Lần 2: Hắn khấn vái để  người kia hiện về: "Ông sẽ  cho tôi nữa chứ?" ­  <br /> "Được, (...) nhưng hãy nhớ là không được tham quá! Tham là mắc tai hoûa" xong cho  <br /> hắn một con số rồi biến mất/ Tô Lệch thì "có còn gì đâu mà mua".<br /> <br /> 36<br /> * Tình trạng của nhân vật sau khi bán linh hồn:<br /> ­ Lần1: Trở thành con bạc khát nước, "hắn chơi bạt mạng", "nướng sạch số <br /> tiền được đề", "có gì bán cả"/ Có trong tay bạc triệu, Tô Lệch "bất ngờ cảm thấy có <br /> thể  chuộc được lỗi lầm". Hành vi chuộc lỗi bằng cách gia ân, bố  thí này khiến cơ <br /> thể nhân vật "nặng hẳn lên", "tăng trọng một trăm rưỡi kí".<br /> ­ Lần 2: Trong lúc hắn sướng rơn vì trúng đậm, "những một triệu tám", "gấp  <br /> hai mươi lần món tiền còm con ma keo kiệt kia thí cho" thì được tin "vợ hắn vừa bị <br /> bắt tại khách sạn với một gã đàn ông trong bộ trang phục nguyên thuỷ"/ Tô Lệch thì  <br /> hầm hầm tức giận vì nghĩ mình bị kẻ kia "dìm giá".<br /> * Kết quả  cuối cùng: Vợ hắn đem hai đứa con theo chồng mới vào Nam làm  <br /> ăn. "Còn hắn đánh rơi mất mảnh giấy một triệu tám", "phát ngộ, đi lang thang cả <br /> ngày ngoài đường"/ Tô Lệch với bộ  mặt làm cho lão Tầm Man, người chuyên yểm <br /> tà, trị quỷ phải "tái mặt", "hết hồn", "đâm nhào ra cổng quên cả chuyện trừ tà" vì vừa <br /> phát hiện một điều khủng khiếp: "Trong nhà này không phải chỉ có quỷ mà thôi".<br /> Vậy là đã rõ, quỷ không ở đâu xa, nó hiện diện ngay chính trong lòng người ­  <br /> mảnh đất nương náu và gieo mầm của lỗi lầm và tội ác. Chính lòng tham, thần <br /> tượng hóa đồng tiền và sự chai lì trước nỗi bất hạnh của đồng loại như những chất  <br /> xúc tác quyết định phản  ứng từ  người sang quỷ. Sự  xuất hiện của quỷ  ­ kẻ  mua  <br /> lương tâm ­ chỉ có ý nghĩa tượng trưng, là "vật truyền dẫn"  để nhân vật nhanh chóng <br /> bộc lộ cái bản chất đích thực của mình. <br /> Việc xây dựng kiểu nhân vật này cho thấy sự  kết hợp thú vị  giữa Đông và <br /> Tây, truyền thống và hiện đại (môtip bán linh hồn cho quỷ  dữ, chi tiết hóa điên và <br /> lẩm bẩm "ba ­ bảy ­ xì" của Gherman trong  Con đầm pích (Puskin) và quan niệm của <br /> Đumbatze về  sức nặng của linh hồn so với thể xác trong tiểu thuyết  Quy luật của  <br /> muôn đời...). Riêng môtip bán linh hồn cho quỷ  dữ  của văn học phương Tây, khách  <br /> quan mà nói, một khi vào Việt Nam cũng đã "nhập gia tùy tục": Nó chỉ giữ vai trò thứ <br /> yếu, một đường viền bắt mắt, vì cốt lõi của vấn đề trong những câu chuyện này vẫn  <br /> là những quan niệm ngàn đời của ông cha được tác giả  của Truyền kì mạn lục nêu <br /> lên từ  mấy trăm năm trước: "Thanh lòng không bằng ít dục, dục nếu yên lặng thì  <br /> lòng trống rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lí sẽ thắng, tà quỷ còn  <br /> đến quấy nhiễu làm sao được" [4]. Hay nói như Kim Ba của thời Tiền chiến thì "ma  <br /> là bởi lòng tà mà có". Trong thời hiện đại khi không ít giá trị bị đảo lộn bởi đồng tiền  <br /> và quyền lực, cái xấu và cái ác lẫn lộn thì sự gặp gỡ này cũng đã làm mới hoá những <br /> vấn đề đã cũ, tạo ra sức nặng và tính cấp thiết trong tiếng kêu cảnh báo của văn xuôi <br /> hôm nay. <br /> 3. Khác với văn học dân gian Việt Nam và quan niệm mang nặng lí tính  ở <br /> phương Tây,  ở đó ma quỷ luôn luôn đồng hành với cái xấu, cái ác  (xấu như  ma, ác <br /> như  ma, ác quỷ, quỷ dữ...), trong văn xuôi hôm nay, xuất phát từ  bản chất của nhân  <br /> vật mà chúng tôi vừa đề cập, thế giới ma (quỷ) cũng chẳng khác thế  giới người. Ở <br /> đó cũng tồn tại cả hai mặt thiện và ác với đầy đủ  những gương mặt, đẳng cấp: có  <br /> ma quyền thế hống hách, ma xun xoe bợ đỡ cấp trên, ma khiếp nhược nhún nhường, <br /> ma tốt bụng hay giúp đỡ ma mới v.v...  (Nghĩa địa xóm chùa). Điều này cũng bắt gặp <br /> <br /> 37<br /> trong Cặp bồ với ma với sự  hiện diện đủ  đầy mọi giai tầng, lứa tuổi, hằn sâu bao <br /> số phận, cảnh đời: "Ma trẻ con, long tong đứa nọ chạy theo đứa kia, dồng dồng một  <br /> lũ", "ma hau háu cặp mắt nịnh, ma đỏ vằn cặp mắt tình dục, ma hụt hơi vì tàn tạ xác  <br /> thịt, ma người tanh lợm mùi tiền, ma mặt đau đớn vì oan  ức chưa cởi, bần thần bị <br /> tình duyên trắc trở. Ma tu sĩ già râu dài... Ma ôm một chồng sách trước ngực, đeo kính <br /> trắng, đầy tư lự; ma bị cưỡng hôn, ma mười lăm tuổi bị hiếp dâm, còn ôm mặt không <br /> dám mở bàn tay cho người ta xem mặt...". Thực chất cõi âm ở đây cũng chính là phản <br /> quan của thế  giới trần tục và hệ  thống nhân vật siêu thực cũng chỉ  là "quỷ  vật giả <br /> thác dĩ tác hiếu kì" (lấy nhân vật ma quỷ để gợi tính hiếu kì) [5] giữ vai trò như một <br /> tấm lá chắn hữu hiệu để  người viết gởi gắm những quan niệm, suy tư, trăn trở  về <br /> cuộc đời đồng thời cũng là đối trọng để  con người sống xứng đáng với danh hiệu <br /> "hoa của đất" mà thượng đế đã ưu ái ban tặng.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Nguyễn Kiến Giang.  Đi tìm cách tiếp cận bản tính tộc người Việt  (trong  Văn hóa <br /> Việt Nam ­ đặc trưng và cách tiếp cận . Lê Ngọc Trà (tập hợp và giới thiệu). NXB  <br /> Giáo dục (2001) 31<br /> 2. Đỗ Lai Thúy. Từ cái nhìn văn hóa. NXB Văn hóa dân tộc, H. (1999) 168 ­ 169.<br /> 3. Cù Hựu, Nguyễn Dữ. Tiễn đăng tân thoại, Truyền kì mạn lục. NXB Văn học ­ Trung <br /> tâm văn hóa ngôn ngữ  Đông Tây, H. (1997) 250.<br /> 4. Sách đã dẫn; tr. 265.<br /> 5. Dẫn theo Phạm Văn Thắm. Nghiên cứu văn bản và đánh giá tác phẩm truyền kì Việt  <br /> Nam (thế kỉ XVI ­ XIX), Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Viện Nghiên cứu Hán <br /> Nôm, H. (1996) 18.<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Sự  bùng phát mạnh mẽ  của truyện ma đương đại một phần do được kế  thừa, tiếp  <br /> nối truyền thống truyện ma dân tộc, thêm vào đó là những ảnh hưởng của môi trường, thời  <br /> đại. Điều này góp phần mang lại sự  mới mẻ, phong phú và dân chủ  của đời sống văn học  <br /> những năm gần đây. Bên cạnh những đặc điểm về mặt 'huyết thống", nhân vật ma trong văn  <br /> xuôi hôm nay vẫn có những đặc trưng riêng trong chân dung, tính cách, kiểu loại... và là  <br /> những tín sứ mang thông điệp nghệ thuật tích cực  của người viết. <br /> <br /> <br /> THE GHOSTS IN VIETNAMESE CURRENT PROSE<br /> Bui Thanh Truyen<br /> College of  Pedagogy, Hue University<br /> <br /> SUMMARY<br /> A part of powerfut development of the current ghost stories has inherited and continued  <br /> the tradition of  nation and affects of the environment and the age which were added to that.  <br /> This has taken part in fresh, rich and democratic points in the literature life in recent years.  <br /> Beside characteristics of blood ­ line, the ghosts in prose of today still have private specific  <br /> 38<br /> traits in potraits, traits, types ect. and they are messengers who bring active art message from  <br /> authors. <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 39<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2