intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kinh nghiệm của Singapore về cải thiện môi trường đầu tư thu hút FDI vào R&D

Chia sẻ: ViSatori ViSatori | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

86
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết sẽ tìm hiểu kinh nghiệm cải thiện môi trường đầu tư thu hút FDI vào R&D của Singapore, trong đó tập trung vào sử dụng chính sách tài chính và chính sách sở hữu trí tuệ trong thu hút FDI vào R&D.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kinh nghiệm của Singapore về cải thiện môi trường đầu tư thu hút FDI vào R&D

THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ <br /> <br /> Kinh nghiệm của Singapore về cải thiện<br /> môi trường đầu tư thu hút FDI vào R&D<br /> Đoàn Vân Hà<br /> Ngày nhận: 26/09/2018 <br /> <br /> Ngày nhận bản sửa: 27/12/2018 <br /> <br /> Ngày duyệt đăng: 29/01/2019<br /> <br /> Singapore là một trong số ít các quốc gia thu hút được dòng vốn đầu<br /> tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chất lượng cao, đặc biệt là FDI vào<br /> lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D). Trong bối cảnh hội nhập<br /> sâu rộng hiện nay, sự xuất hiện của các dự án đầu tư FDI trong lĩnh<br /> vực R&D được kỳ vọng nhằm đưa Việt Nam không chỉ trở thành một<br /> trung tâm gia công lớn trên thế giới, mà còn là nơi cho ra đời những<br /> phát minh khoa học mới. Vì vậy, việc học tập kinh nghiệm thu hút<br /> FDI trong lĩnh vực này của Singapore sẽ là bài học quý báu đối với<br /> Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh về “chất” trong thu hút FDI. Bài<br /> viết sẽ tìm hiểu kinh nghiệm cải thiện môi trương đầu tư thu hút FDI<br /> vào R&D của Singapore, trong đó tập trung vào sử dụng chính sách<br /> tài chính và chính sách sở hữu trí tuệ trong thu hút FDI vào R&D.<br /> Từ khoá: FDI, R&D, đổi mới sáng tạo, chính sách, Châu Á.<br /> <br /> 1. Giới thiệu<br /> iệc quốc tế<br /> hoá hoạt động<br /> nghiên cứu<br /> và phát triển<br /> (R&D) của các<br /> công ty đa quốc gia (MNCs)<br /> đã được đề cập đến trong một<br /> thập kỷ gần đây. Hoạt động<br /> R&D đã được dịch chuyển<br /> sang chi nhánh ở các nước<br /> khác chứ không chỉ tập trung<br /> ở tại trụ sở chính. Điều này<br /> là do sự phát triển và trỗi dậy<br /> <br /> © Học viện Ngân hàng<br /> ISSN 1859 - 011X<br /> <br /> nhanh chóng của các quốc gia<br /> mới nổi, đặc biệt là Ấn Độ và<br /> Trung Quốc trong hệ thống đổi<br /> mới sáng tạo toàn cầu (Bruche,<br /> 2009; Kroll and Schiller,<br /> 2010); và kiến thức mới để<br /> thích ứng với sản phẩm và quy<br /> trình sản xuất tại các quốc gia<br /> khác nhau (Carlsson, 2006).<br /> Chính sách để có thể thu hút<br /> và phát huy hiệu quả của FDI<br /> vào R&D của các quốc gia<br /> bao gồm các nhóm chính sách<br /> về: (1) Cải thiện môi trường<br /> đầu tư R&D; (2) thúc đẩy<br /> <br /> 85<br /> <br /> dòng vốn FDI vào R&D; (3)<br /> các chính sách để hấp thụ FDI<br /> vào R&D; (4) chính sách hấp<br /> thụ lợi ích của đầu tư FDI vào<br /> R&D ra bên ngoài (Guimon,<br /> 2011). Trong khi nhóm chính<br /> sách về hấp thụ FDI vào R&D<br /> trong nước và hấp thụ lợi ích<br /> của FDI vào R&D từ trong<br /> nước ra nước ngoài sẽ tập<br /> trung vào việc làm thế nào để<br /> quốc gia có thể hấp thụ hết lợi<br /> ích mà FDI vào R&D mang<br /> đến chuyển hoá thành lợi thế<br /> cạnh tranh của mình, thì nhóm<br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> Số 200+ 201- Tháng 1&2. 2019<br /> <br /> THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ <br /> <br /> chính sách về cải thiện môi<br /> trường đầu tư R&D và thúc<br /> đẩy dòng vốn FDI vào R&D<br /> là bài toán làm thế nào để thu<br /> hút FDI chất lượng cao.<br /> Môi trường đầu tư cho R&D<br /> thuận lợi là điều kiện đầu tiên<br /> để có thể có thể thúc đẩy dòng<br /> vốn FDI vào R&D. Trong một<br /> thời gian dài, Việt Nam tập<br /> trung thu hút FDI, tuy nhiên<br /> môi trường đầu tư mới chỉ đáp<br /> ứng cho những ngành công<br /> nghệ thấp và dệt may gia công<br /> là chủ yếu và tỷ lệ FDI vào<br /> R&D của Việt Nam là rất nhỏ<br /> so với các ngành khác. Hiện<br /> nay, Việt Nam đang phải cạnh<br /> tranh với nhiều quốc gia như<br /> Thái Lan, Indonessia... để<br /> thu hút dòng FDI vào R&D.<br /> Vì vậy, bài viết tập trung vào<br /> nhóm chính sách cải thiện môi<br /> trường đầu tư để thu hút FDI<br /> vào R&D qua việc tìm hiểu<br /> kinh nghiệm của Singapore, từ<br /> đó rút ra những bài học có thể<br /> áp dụng cho Việt Nam.<br /> <br /> 2. Các nhân tố tác động tới<br /> thu hút FDI vào R&D<br /> <br /> các quốc gia thông qua các cơ<br /> chế như liên kết ngược, liên<br /> kết chuyển tiếp, hiệu ứng cạnh<br /> tranh và ảnh hưởng đến hình<br /> thành vốn nhân lực (Berger và<br /> Diez, 2008; Popescu, 2014;<br /> Jinji Naoto và Xingyuan<br /> Zhang, 2013).<br /> MNCs toàn cầu hoá địa điểm<br /> hoạt động R&D của mình là<br /> bởi vì hiện nay họ chỉ được<br /> thị phần thông qua cạnh tranh<br /> và khả năng cạnh tranh của<br /> mình. Khả năng cạnh tranh<br /> của doanh nghiệp giờ được<br /> định nghĩa là "khả năng sản<br /> xuất các sản phẩm công nghệ<br /> cao và khác nhau", ảnh hưởng<br /> đến năng suất dài hạn và<br /> được chấp nhận là một nhân<br /> tố quan trọng cho hiệu quả<br /> tăng trưởng kinh tế của quốc<br /> gia. Nói một cách khác, khả<br /> năng cạnh tranh không còn<br /> chỉ được xác định bởi nguồn<br /> tài nguyên thiên nhiên phong<br /> phú hay nguồn cung cấp các<br /> yếu tố sản xuất mà là R&D<br /> và đổi mới sáng tạo. Do cấu<br /> <br /> FDI mang lại nhiều lợi ích<br /> cho nước chủ nhà. Lợi ích của<br /> FDI đối với nền kinh tế chủ<br /> nhà vượt qua cả khả năng sản<br /> xuất và tăng cường xuất khẩu<br /> vì nó hiện thực hoá sự lan toả<br /> kiến thức thông qua tương tác<br /> giữa công ty đa quốc gia với<br /> toàn bộ hệ thống sản xuất của<br /> một quốc gia. MNCs thông<br /> qua FDI đã đẩy nhanh và tạo<br /> thuận lợi cho việc chuyển<br /> giao công nghệ và tiếp cận các<br /> chiến lược quản lý và tiếp thị<br /> từ các nước phát triển tới quốc<br /> gia sở tại. Đặc biệt, dòng vốn<br /> FDI vào R&D có thể mang lại<br /> lợi ích đáng kể cho nước chủ<br /> nhà bằng cách nâng cao năng<br /> lực công nghệ và cho phép<br /> tiếp cận thị trường nước ngoài<br /> và tích hợp hơn vào các mạng<br /> đổi mới toàn cầu (Cantwell<br /> và Piscitello, 2001; Carlsson,<br /> 2006). Theo nhiều tác giả,<br /> FDI mang đổi mới sáng tạo tới<br /> <br /> Bảng 1. Các công cụ chính sách cải thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy FDI vào R&D<br /> Cải thiện môi trường đầu tư vào R&D<br /> <br /> Thúc đẩy FDI vào R&D<br /> <br /> Sự sẵn có lao động có tay nghề cao<br /> <br /> Tập trung vào R&D trong các<br /> hoạt động xúc tiến đầu tư FDI<br /> <br /> Chất lượng của các trường đại học, trung tâm nghiên cứu, công viên Xúc tiến quốc tế về khả năng<br /> công nghệ và cơ sở hạ tầng khoa học và công nghệ khác<br /> công nghệ quốc gia<br /> Tài chính và các ưu đãi tài chính cho công ty R&D: tăng cường ưu đãi Các dịch vụ trước đầu tư<br /> so với các nước khác và tạo thuận lợi cho việc thực hiện trong các giai<br /> đoạn khác nhau của chu kỳ R&D<br /> Khuyến khích hợp tác cả trong Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và Các dịch vụ sau đầu tư<br /> xuyên biên giới<br /> Phát triển thị trường dẫn đầu trong lĩnh vực công nghệ then chốt: Chính<br /> phủ có thể khuyến khích các công ty nước ngoài tham gia vào R&D địa<br /> phương thông qua việc mua sắm công<br /> Chế độ quyền sở hữu trí tuệ rõ ràng và có thể thực thi<br /> Nguồn: J. Guimon, 2011<br /> <br /> 86<br /> <br /> Số 200+201- Tháng 1&2. 2019<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ <br /> <br /> trúc năng động của cạnh tranh<br /> quốc tế, việc các quốc gia<br /> hoặc doanh nghiệp phát triển<br /> công nghệ và sản phẩm mới<br /> là điều tất yếu. Trong việc lựa<br /> chọn địa điểm đầu tư FDI, bên<br /> cạnh chiến lược của công ty<br /> thì quyết định chọn địa điểm<br /> của các công ty đa quốc gia bị<br /> tác động bởi sự sẵn có của hạ<br /> tầng cơ sở nghiên cứu và lao<br /> động có tay nghề cao (EIU,<br /> 2004; Cantwel và Iammarino,<br /> 2001; Dunning and Lundan,<br /> 2009), tính năng động của hệ<br /> thống đổi mới sáng tạo (NIS)<br /> của một quốc gia. Các nghiên<br /> cứu hiện tại cho thấy, để có<br /> thể thu hút FDI vào R&D, các<br /> quốc gia cần có chính sách<br /> cải thiện môi trường đầu tư<br /> vào R&D bên cạnh chính sách<br /> thu hút FDI vào R&D với các<br /> công cụ khác nhau (Bảng 1).<br /> Như vậy, để có thể thu hút<br /> thành công FDI vào R&D, thì<br /> quốc gia cần làm song song<br /> việc để tạo lợi thế của mình so<br /> với các quốc gia khác: Một là<br /> có môi trường FDI vào R&D<br /> hấp dẫn, được thể hiện ở cơ<br /> sở hạ tầng nghiên cứu, ưu đãi<br /> tài chính cho FDI vào R&D,<br /> chính sách bảo hộ quyền sở<br /> hữu…; hai là các chính sách<br /> thúc đẩy làm marketing để<br /> quốc gia mình trở nên hấp dẫn<br /> trong mắt các nhà đầu tư.<br /> 3. Kinh nghiệm của<br /> Singapore về cải thiện môi<br /> trường đầu tư vào R&D<br /> 3.1. Quá trình phát triển của<br /> Singapore<br /> Quá trình phát triển kinh tế<br /> của Singapore có thể phân<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> tích qua bốn giai đoạn các<br /> thập kỷ. Singapre phát triển<br /> từ thâm dụng lao động (labor<br /> intensive) trong thập kỷ 60<br /> sang thâm dụng kỹ năng (skill<br /> intensive) trong thập kỷ 70,<br /> phát triển thành thâm dụng tư<br /> bản (capital intensive) trong<br /> thập kỷ 80 và thâm dụng công<br /> nghệ (technology intensive)<br /> trong thập kỷ 90. Hiện nay<br /> Singapore đang bước vào<br /> giai đoạn 5 (từ năm 2000 đến<br /> nay) với đặc trưng là “nền<br /> kinh tế tri thức/đổi mới sáng<br /> tạo” (Knowledge/Innovation<br /> economy), nền kinh tế lấy tri<br /> thức và đổi mới sáng tạo làm<br /> nền tảng. Trong nền kinh tế<br /> tri thức này thì nguồn vốn<br /> quan trọng nhất là nguồn vốn<br /> trí tuệ và công nghệ thông tin<br /> trở thành ngành kinh tế quan<br /> trọng (Nguyễn Trần Quế,<br /> 2000).<br /> Các chính sách xuyên suốt<br /> của Singapore ngay từ khi<br /> thành lập nước đến tận giờ<br /> là tận dụng vị trí địa lý chiến<br /> lược để tạo dựng một trung<br /> tâm tự do thương mại và đầu<br /> tư. Với đặc điểm là một nước<br /> nhỏ với ít ưu thế về tài nguyên<br /> ngoại trừ thuận lợi về địa lý,<br /> Singapore nhận thức được rất<br /> rõ ràng để phát triển kinh tế<br /> và nâng cao cuộc sống người<br /> dân thì phải dựa vào nguồn<br /> lực bên ngoài và nhân lực chất<br /> lượng cao. Hội đồng phát triển<br /> kinh tế (EDB) được thành lập<br /> vào năm 1961 là cơ quan đầu<br /> tiên được giao nhiệm vụ xúc<br /> tiến hoạt động đầu tư (nước<br /> ngoài cũng như trong nước)<br /> tại Singapore; và quản lý<br /> một số chương trình khuyến<br /> khích, bao gồm các ưu đãi tài<br /> <br /> chính. Các ưu đãi thuế bao<br /> gồm: Ưu đãi cho những công<br /> ty tiên phong, ưu đãi và hoạt<br /> động hỗ trợ đầu tư, và ưu đãi<br /> khi đặt trụ sở tại Singapore<br /> lần đầu tiên được sử dụng<br /> vào những năm 1960 để thu<br /> hút FDI thông qua đạo luật<br /> Khuyến khích mở rộng kinh<br /> tế. Năm 2010, đạo luật này<br /> lại một lần được chỉnh sửa<br /> để tạo điều kiện cho các dịch<br /> vụ kỹ thuật và chuyên nghiệp<br /> khác nhau nhằm khuyến khích<br /> những ngành bị hạn chế trước<br /> đây như ngân hàng, báo chí in<br /> ấn, điện tử viễn thông. Cuối<br /> những năm 1970- 1980, để có<br /> thể cạnh tranh với những quốc<br /> gia lân cận có chi phí thấp,<br /> Singapore nhận thấy cần phải<br /> dịch chuyển lên các hoạt động<br /> sản xuất giá trị cao và nâng<br /> cấp kỹ năng của lực lượng lao<br /> động. Sự tập trung tiếp tục<br /> dịch chuyển vào cuối những<br /> năm 1980 và 1990 để thúc đẩy<br /> các hoạt động sản xuất giá<br /> trị cao. Từ năm 2000- 2010,<br /> Singapore tập trung thúc đẩy<br /> đầu tư và tăng trưởng dựa<br /> trên đổi mới sáng tạo và tri<br /> thức. Một trong những lĩnh<br /> vực quan tâm gần đây là dược<br /> phẩm và công nghệ y sinh.<br /> Trải qua các giai đoạn phát<br /> triển, Singapore đã xây dựng<br /> một kết cấu hạ tầng chất<br /> lượng cao, môi trường đầu tư<br /> ổn định, nền chính trị ổn định<br /> và đội ngũ lao động cần cù,<br /> có kỷ luật. Singapore đã thu<br /> hút được nhiều công ty nước<br /> ngoài đầu tư và hoạt động<br /> tại Singapore. Theo báo cáo<br /> toàn cầu năm 2012, Singapore<br /> nằm trong Top 3 về đầu tư<br /> và ngoại thương, địa điểm<br /> <br /> Số 200+201- Tháng 1&2. 2019<br /> <br /> 87<br /> <br /> THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ <br /> <br /> thuận lợi nhất thế giới cho<br /> hoạt động kinh doanh, đứng<br /> thứ 2 thế giới và 1 châu Á về<br /> quyền sở hữu trí tuệ tốt nhất.<br /> Singapore đã sử dụng thành<br /> công chính sách tài chính và<br /> chính sách sở hữu trí tuệ để<br /> tạo môi trường đầu tư hấp dẫn<br /> với những hỗ trợ tài chính,<br /> và quan trọng hơn, không có<br /> đánh cắp bản quyền, trí tuệ để<br /> các nhà đầu tư yên tâm.<br /> 3.2. Chính sách tài chính cho<br /> R&D<br /> Trong giai đoạn đón đầu<br /> công nghiệp ở những năm<br /> cuối thập kỷ 60, Singapore đã<br /> đặt nền móng cho phát triển<br /> NIS thông qua khuyến khích<br /> FDI khi các công ty này coi<br /> Singapore là cơ sở sản xuất<br /> nước ngoài sử dụng nhiều lao<br /> động và phát triển năng lực<br /> nhân sự bằng việc cung cấp<br /> các ưu đãi cho MNCs khi gửi<br /> các kỹ sư Singapore đến trụ sở<br /> để học các kỹ thuật mới. Với<br /> mục đích tăng số lượng các<br /> công ty nghiên cứu và phát<br /> triển tại Singapore, đặc biệt<br /> là MNCs, Singapore đã sử<br /> dụng ưu đãi thuế về chi tiêu<br /> bao gồm các hoạt động tiên<br /> phong, hoạt động R&D, trung<br /> tâm R&D (bao gồm cả bên<br /> Singapore), thiết kế, mua lại<br /> quyền sở hữu trí tuệ (IP) và<br /> thiết bị tự động hóa<br /> Ở giai đoạn 2, tăng cường<br /> công nghệ địa phương (giữa<br /> những năm 1970 đến cuối<br /> những năm 1980), mối liên<br /> kết giữa các nhà cung cấp<br /> trong nước và người mua là<br /> MNCs được khuyến khích bởi<br /> Chương trình Nâng cấp Ngành<br /> <br /> 88<br /> <br /> Địa phương (LIUP) với mục<br /> tiêu là khuyến khích MNCs<br /> chuyển giao bí quyết công<br /> nghệ và chuyên môn về nhân<br /> sự cho các doanh nghiệp địa<br /> phương. Trợ cấp được sử dụng<br /> nhiều trong thời gian này như<br /> EDB sẽ trợ cấp một tỷ lệ phần<br /> trăm của mức lương của một<br /> người quản lý của MNC khi<br /> làm việc trong doanh nghiệp<br /> địa phương trong vòng 2 năm<br /> và mức trợ cấp được xác định<br /> theo từng trường hợp cụ thể.<br /> Giai đoạn 3, mở rộng R&D<br /> ứng dụng (cuối những năm<br /> 1980 đến cuối những năm<br /> 1990), Singapore đưa ra các<br /> kế hoạch nghiên cứu (RISC)<br /> cho các công ty đăng ký tại<br /> Singapore. Việc sử dụng kế<br /> hoạch này là khuyến khích các<br /> doanh nghiệp thành lập trung<br /> tâm R&D ở Singapore và phát<br /> triển các năng lực R&D trong<br /> khu vực chiến lược về công<br /> nghệ. Những dự án nhận được<br /> hỗ trợ thường là một cam kết<br /> tương đối dài hạn của công ty,<br /> mang lại những lợi ích đáng<br /> kể cho nền kinh tế Singapore<br /> và tăng chi tiêu R&D đáng kể.<br /> Các công ty khi tham gia vào<br /> kế hoạch này sẽ được hỗ trợ<br /> 30- 50% chi phí và các khoản<br /> vay sẽ được giải ngân theo<br /> phương thức hoàn trả.<br /> Giai đoạn 4 là chuyển đổi<br /> sang doanh nghiệp công nghệ<br /> cao và nghiên cứu phát triển<br /> cơ bản (cuối những năm 1990<br /> trở đi), mục tiêu hỗ trợ của<br /> Singapore là các khía cạnh<br /> khác nhau cần thiết để hỗ trợ<br /> các công ty thực hiện đổi mới.<br /> Singapore đã có các chương<br /> trình tiêu biểu như chương<br /> trình Đổi mới Công nghệ<br /> <br /> Số 200+201- Tháng 1&2. 2019<br /> <br /> (TIP) với các dự án trong<br /> chương trình được hỗ trợ 50100% chi phí cho các dự án<br /> đổi mới sáng tạo của các công<br /> ty và liên doanh. Cũng trong<br /> chương trình này, đề án cung<br /> cấp chuyên gia và vốn cho<br /> đổi mới sáng tạo (Innovation<br /> Voucher Scheme- IVS) mà<br /> gần đây (2012) được thay<br /> thế bằng đề án cung cấp vốn<br /> cho đổi mới sáng tạo và năng<br /> lực (Innovation &Capability<br /> Voucher- ICV), giúp tăng<br /> cường tiếp cận của các doanh<br /> nghiệp vừa và nhỏ đến các<br /> chuyên gia trong trường đại<br /> học và các viện nghiên cứu<br /> công. Theo đó, chính phủ sẽ<br /> cung cấp một khoản tiền là<br /> $50.000 cho các doanh nghiệp<br /> vừa và nhỏ để chi trả cho các<br /> dịch vụ hỗ trợ liên quan đến<br /> đối mới sáng tạo, tăng năng<br /> suất, nhân lực và quản lý tài<br /> chính. Ngoài ra, đề án Thương<br /> mại hóa Doanh nghiệp Công<br /> nghệ (TECS) hỗ trợ tới 100%<br /> chi phí hợp lệ cho giai đoạn<br /> chứng minh ý tưởng- POC<br /> (Proof of Concept) với giá trị<br /> hỗ trợ tối đa là 250.000 đô la<br /> Singapore, và lên đến 85% chi<br /> phí cho giai đoạn chứng minh<br /> giá trị khả thi- POV (Proofof Value) với số tiền tối đa là<br /> 500.000 đô la Singapore.<br /> Để thúc đẩy đổi mới, Chính<br /> phủ đưa ra một khung khuyến<br /> khích bao gồm các ưu đãi<br /> thuế. Ví dụ như các công ty<br /> mới thành lập ở Singapore<br /> đã được miễn thuế lên đến<br /> 200.000 đô la Singapore kể<br /> từ năm 2005, trong khi các<br /> nhà đầu tư thiên thần (angle<br /> investors) đủ điều kiện được<br /> khấu trừ thuế từ năm 2010 lên<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ <br /> <br /> tới 250.000 đô la Singapore<br /> đối với đầu tư của họ vào các<br /> công ty khởi nghiệp (IRAS,<br /> 2016). Năm 2016, tổng thuế<br /> suất của Singapore bằng<br /> 18,4% lợi nhuận, thấp hơn<br /> nhiều so với mức trung bình<br /> của các nước OECD thu nhập<br /> cao ở mức là ở mức 41,2%<br /> (WB).<br /> 3.3. Chính sách bảo hộ sở<br /> hữu trí tuệ<br /> Trong nỗ lực nâng cao hơn<br /> môi trường đầu tư, Singapore<br /> đã tạo dựng được một khuôn<br /> khổ tin cậy và hiệu quả về<br /> sở hữu trí tuệ (IP) nhằm bảo<br /> hộ các tri thức sáng tạo được<br /> và đem lại cơ sở công bằng,<br /> trong đó tri thức có thể được<br /> thúc đẩy để thương mại hoá.<br /> Khuôn khổ này hợp thành<br /> một kết cấu hạ tầng then chốt,<br /> tạo cơ sở cho đổi mới và tăng<br /> trưởng kinh doanh trong nền<br /> kinh tế đổi mới sáng tạo/kinh<br /> tế tri thức. Với tư cách là một<br /> bộ phận trong kế hoạch của<br /> Singapore để trở thành trung<br /> tâm IP, Singapore đã hỗ trợ<br /> tăng cường bộ máy pháp lý<br /> về IP và các cơ chế thi hành,<br /> thúc đẩy nhận thức và phát<br /> triển năng lực IP, tăng cường<br /> uy tín quốc tế. Văn phòng IP<br /> của Singapore (IPOS) đã được<br /> thành lập tháng 4/2001, đóng<br /> vai trò là cơ quan chính phủ<br /> đầu ngành. Học viện IP đã<br /> được thành lập tháng 01/2003<br /> để phát triển tri thức và năng<br /> lực của Singapore trong công<br /> tác bảo hộ, khai thác và quản<br /> lý IP.<br /> Chế độ IP xuất sắc của<br /> Singapore đã giúp Singapore<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> thu hút được thêm các khoản<br /> đầu tư mới quan trọng cho<br /> ngành Y- sinh, đặc biệt là<br /> ngành Dược phẩm. Ngành Ysinh ở Singapore là một trong<br /> những ngành tăng trưởng<br /> nhanh nhất, góp phần đáng kể<br /> vào tốc độ tăng trưởng xuất<br /> khẩu của quốc gia. Chế độ<br /> IP nghiêm minh cũng giúp<br /> cho các nỗ lực đưa Singapore<br /> thành trung tâm nghiên cứu<br /> phát triển. Chiến lược đưa<br /> Singapore trở thành trung tâm<br /> IP cũng bao hàm việc tăng<br /> cường mối liên kết giữa sáng<br /> tạo và khai thác IP.<br /> Hoạt động nghiên cứu ở khu<br /> vực công của Singapore là<br /> một nguồn quan trọng đem lại<br /> các phát minh, ý tưởng và đổi<br /> mới. Chúng có thể được đưa<br /> ra thị trường để tạo ra việc<br /> làm, giá trị và của cải cho nền<br /> kinh tế Singapore. Đối với các<br /> viện nghiên cứu của A*STAR<br /> và các trường đại học, công<br /> tác thương mại hoá kết quả<br /> nghiên cứu đã được coi là<br /> hoạt động cốt lõi được tiến<br /> hành song song với hoạt động<br /> nghiên cứu. Các mô hình tài<br /> trợ của Singapore thừa nhận<br /> những rủi ro và khoảng thời<br /> gian cần thiết để có thể đạt<br /> được những thành công quan<br /> trọng trong công tác thương<br /> mại hoá.<br /> Để tối ưu hoá tác động kinh<br /> tế của IP do hoạt động nghiên<br /> cứu được Chính phủ tài trợ<br /> mang lại, Singapore đã hoạch<br /> định các chính sách và cơ cấu<br /> rõ ràng để quản lý IP một cách<br /> hữu hiệu. Các chính sách liên<br /> quan đến IP bao gồm:<br /> - Cộng tác: Hoạt động R&D<br /> hiếm khi được tiến hành một<br /> <br /> cách tách biệt. Đặc biệt, các<br /> quan hệ đối tác nghiên cứu<br /> phát triển giữa các tổ chức<br /> nghiên cứu của khu vực Chính<br /> phủ với khu vực công nghiệp<br /> là đặc điểm then chốt của hệ<br /> thống đổi mới. Vì vậy, cần<br /> phải hoạch định được các<br /> hướng dẫn và chính sách rõ<br /> ràng và hiệu quả về quyền<br /> chiếm hữu, sử dụng và khai<br /> thác các IP do hoạt động cộng<br /> tác R&D tạo ra để tạo thuận<br /> lợi cho những quan hệ đối tác.<br /> - Chính sách khuyến khích:<br /> Singapore đã đưa ra các biện<br /> pháp để kích thích các nhà<br /> nghiên cứu thương mại hoá<br /> thành quả của họ bằng cách<br /> cho phép họ chia sẻ lợi ích<br /> về tài chính. Điều này thừa<br /> nhận rằng các nhà nghiên<br /> cứu đóng vai trò quan trọng<br /> trong việc quyết định đường<br /> hướng thương mại hoá và có<br /> thể không phải luôn quan tâm<br /> đến việc thành lập các công<br /> ty mới. Một trong những mô<br /> hình quan trọng của Mỹ đã<br /> được A*STAR áp dụng là<br /> phân bổ 1/3 lợi nhuận cho nhà<br /> nghiên cứu, 1/3 cho khoa và<br /> 1/3 cho nhà trường hoặc bộ<br /> phận thương mại hoá.<br /> - Các thể chế hỗ trợ: Để quản<br /> lý và thương mại hoá IP một<br /> cách hiệu quả, cần phải có sự<br /> hỗ trợ của các tổ chức chuyển<br /> giao công nghệ có kinh<br /> nghiệm và được đào tạo tốt,<br /> có được thông tin từ các tổ<br /> chức Tình báo Cạnh tranh và<br /> Công nghệ mạnh. Năm 2002,<br /> A*STAR đã thành lập bộ<br /> phận thương mại hoá, Exploit<br /> Technologies (ET) để kết hợp<br /> các nỗ lực quản lý và thương<br /> mại hoá IP. ET cung cấp cơ<br /> <br /> Số 200+201- Tháng 1&2. 2019<br /> <br /> 89<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0