TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (42) 2015<br />
<br />
165<br />
<br />
KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO CỦA<br />
TRUNG QUỐC VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM<br />
Nguyễn Hùng Cường1<br />
<br />
Ngày nhận bài : 26/01/2015<br />
Ngày nhận lại : 13/02/2015<br />
Ngày duyệt đăng : 19/05/2015<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài báo này nghiên cứu những thành công, thách thức và các chính sách trong quá trình<br />
phát triển Năng lượng tái tạo trong thời gian gần đây của Trung Quốc. Từ những kinh nghiệm<br />
được rút ra trong việc quản lý, xây dựng khung chính sách, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển,<br />
thực thi bảo vệ môi trường,.. của các loại năng lượng tái tạo ở Trung quốc, bài viết tổng hợp<br />
thành các bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam nhằm phát triển ngành năng lượng tái tạo còn<br />
non trẻ, góp phần phát triển kinh tế bền vững vào bảo vệ môi trường.<br />
Từ khóa: Năng lượng tái tạo, Trung Quốc, môi trường, chính sách.<br />
ABSTRACT<br />
This paper studies the successes, challenges and policies in the development of renewable<br />
energy in recent years in China. Accordingly, experiences are drawn in the management and<br />
construction of the policy framework, promoting research and development, environmental<br />
protection enforcement... of all kinds of renewable energy in China, the article synthesizes<br />
lessons for Vietnam to develop the renewable energy industry which is still young, contributing<br />
to sustainable economic development in environmental protection.<br />
Keywords: Renewable Energy, China, environment, policies.<br />
1. Đặt vấn đề1<br />
Trong 20 năm qua, nền kinh tế của<br />
Trung Quốc đã tăng gấp mười lần. Sự tăng<br />
trưởng này đã nâng lên 660 triệu người thoát<br />
khỏi đói nghèo cùng cực. Tuy nhiên, nó đã<br />
phải trả giá đắt cho ô nhiễm môi trường gây<br />
nên bởi sự tăng trưởng này.Trung Quốc đang<br />
phải đối mặt với những thách thức về môi<br />
trường, năng lượng từ nguồn hóa thạch, ô<br />
nhiễm không khí và nước. Hiện nay, Trung<br />
Quốc là nước phát thải lớn nhất thế giới các<br />
khí nhà kính. Theo báo cáo của BP năm 2012,<br />
sự phụ thuộc nặng nề của Trung Quốc vào<br />
than đá và dầu - chiếm gần 90% của mức tiêu<br />
thụ năng lượng - Trung Quốc phát ra nhiều<br />
carbon dioxide (CO2) hơn bất kỳ đất nước nào.<br />
1<br />
<br />
ThS, Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải.<br />
<br />
Nếu không hành động, mức độ phát thải CO2<br />
lớn sẽ dẫn đến biến đổi khí hậu nguy hiểm, mà<br />
Trung Quốc được dự đoán là dễ bị tổn thương<br />
và tác động mạnh bởi sự nóng lên của trái đất.<br />
Ô nhiễm môi trường tại các khu vực địa<br />
phương, đặc biệt với không khí và nước, có tác<br />
động lớn tới Trung Quốc. Họ ước tính rằng<br />
90% nước ở các đô thị bị ô nhiễm, ô nhiễm<br />
không khí ngoài trời được ước tính gây ra tới<br />
hàng triệu người bị chết sớm mỗi năm. Hơn<br />
nữa, ước tính sẽ có hơn 10 triệu ha đất nông<br />
nghiệp bị ô nhiễm, và lượng chất thải tại các<br />
bãi chôn cũng đang tăng lên. Ô nhiễm môi<br />
trường tại địa phương là hết sức nghiêm trọng,<br />
và tác động tiêu cực đến đời sống hàng ngày<br />
của người dân Trung Quốc.<br />
<br />
166<br />
<br />
TRAO ĐỔI HỌC THUẬT VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC<br />
<br />
Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều trên hầu<br />
hết các nguồn năng lượng sạch và ngành công<br />
nghiệp môi trường, đặc biệt là sau kế hoạch<br />
kích thích kinh tế sau khủng hoảng tài chính.<br />
Hiện nay, Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới<br />
trong đầu tư vào công nghệ năng lượng tái tạo.<br />
Trung Quốc có kế hoạch sản xuất 15% năng<br />
lượng từ các nguồn nhiên liệu phi hóa thạch<br />
vào năm 2020. Chính phủ đã đặt ra mục tiêu<br />
đầy tham vọng trong ngành năng lượng xanh.<br />
Ngoài những mục tiêu trên, Trung Quốc đặt<br />
mục tiêu có 140 GW công suất điện gió và 21<br />
GW năng lượng mặt trời vào năm 2015<br />
(National Energy Administration, 2012).<br />
Ở nước ta hiện nay, Theo dự báo của<br />
Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai<br />
đoạn 2011–2020 có xét đến năm 2030 (Tổng<br />
sơ đồ điện 7), nhu cầu điện năng của Việt Nam<br />
sẽ tăng mạnh từ 87 tỷ kWh (năm 2009) lên<br />
570 tỷ kWh (năm 2030), trong khi đó các nhà<br />
máy thủy điện gần như đã được khai thác ở<br />
mức tối đa và các nhà máy nhiệt điện được dự<br />
báo sẽ gặp nhiều khó khăn về việc cung cấp<br />
nhiên liệu. Để giải quyết việc thiếu hụt nguồn<br />
cung, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Phát<br />
triển Năng lượng Quốc gia đến năm 2020 tầm nhìn 2050 trong đó rất chú trọng tới phát<br />
triển nguồn năng lượng tái tạo (thủy điện nhỏ,<br />
năng lượng gió, năng lượng mặt trời...), với<br />
mục tiêu tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 3%<br />
tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm<br />
2010, 5% năm 2020 và 11% năm 2050. Để đạt<br />
được mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo<br />
như đã đề ra, việc học hỏi những kinh nghiệm<br />
thành công và thất bại trong chính sách của<br />
Trung Quốc trong phát triển này là hết sức cần<br />
thiết.<br />
2. Kinh nghiệm phát triển năng lượng<br />
tái tạo của Trung Quốc<br />
2.1. Năng lượng mặt trời<br />
Thành công:<br />
Hiện nay, Trung Quốc là nhà sản xuất<br />
lớn nhất thế giới về thiết bị năng lượng mặt<br />
trời. Từ năm 2006 đến 2011, do chính sách hỗ<br />
trợ từ chính phủ các nước châu Âu, đặc biệt là<br />
Đức, Tây Ban Nha và Italia, đã dẫn đến sự<br />
bùng nổ toàn cầu về điện mặt trời. Thị trường<br />
toàn cầu điện mặt trời thêm 27,7 GW công<br />
suất điện mới trong năm 2011, và vào cuối<br />
năm đó, công suất lắp đặt tích lũy toàn cầu<br />
vượt quá 67,4 GW, so với chỉ 7,3 GW vào<br />
<br />
năm 2006 (EPIA, 2012). Các công ty Trung<br />
Quốc đã nắm bắt được một thị phần lớn của thị<br />
trường này, với xuất khẩu thiết bị điện mặt trời<br />
là 35,8 tỷ USD trong năm 2011.<br />
Các công ty Trung Quốc, chẳng hạn như<br />
Yingli và Trina, đã trở thành công ty hàng đầu<br />
thế giới trong sản xuất các tấm quang điện mặt<br />
trời . Trong năm 2011, Trung Quốc đại lục sản<br />
xuất của các tế bào năng lượng mặt trời đạt 17<br />
GW, chiếm 48,5% sản xuất của thế giới. Các<br />
công ty Trung Quốc ban đầu chỉ sản xuất pin<br />
năng lượng mặt trời, nhưng ngày càng được<br />
tham gia vào tất cả các phần của chuỗi giá trị.<br />
Trong thời gian đầu bùng nổ năng lượng mặt<br />
trời, các công ty Trung Quốc đã không thể<br />
cạnh tranh trong các phần tấm pin quang điện<br />
và polysilicon (Silicon đa tinh thể) trên thị<br />
trường. Năm 2006, nhu cầu quốc gia cho<br />
polysilicon là 5.000 tấn, và sản lượng thực tế<br />
sản xuất tại Trung Quốc là dưới 300 tấn. Tuy<br />
nhiên, nhiều công ty ở Trung Quốc, như LDK<br />
Solar và GCL đã đầu tư mạnh vào thị trường<br />
polysilicon, và giá đã giảm xuống mức phù<br />
hợp. Kết quả là, vào năm 2012, 40% của<br />
polysilicon toàn cầu và 76% tấm pin quang<br />
điện được sản xuất ở Trung Quốc (Solarbuzz,<br />
2012).<br />
Đầu tư xây dựng dự án năng lượng mặt<br />
trời trong nước bắt đầu từ từ nhưng đã phát<br />
triển đáng kể từ năm 2010. Các nhà sản xuất<br />
năng lượng mặt trời của Trung Quốc ban đầu<br />
dựa trên các thị trường xuất khẩu, với hơn<br />
90% sản lượng sản xuất ra là xuất ra nước<br />
ngoài (MIIT, 2012). Những tăng trưởng gần<br />
đây ở Trung Quốc đã đưa quốc gia này lên<br />
đứng thứ 3 về công suất năng lương mặt trời,<br />
đứng trên cả Mỹ. Riêng trong năm 2011,<br />
Trung Quốc lắp đặt 2.250 MWp, tốc độ tăng<br />
trưởng hàng năm lên tới 500%.<br />
Thách thức:<br />
Ngành quang điện mặt trời phải đối mặt<br />
với một số thách thức tài chính và môi trường<br />
bởi các quá trình sản xuất, bao gồm cả việc dư<br />
thừa đầu tư. Dư thừa đầu tư đã tới mức cao<br />
trong các lĩnh vực sản xuất thiết bị, và rất<br />
nhiều các công ty sản xuất quang điện mặt trời<br />
lớn phải đối mặt với khả năng tự thua lỗ.<br />
Lượng đầu tư khổng lồ trong sản xuất làm<br />
năng lực sản xuất qua chuỗi giá trị quang điện<br />
dẫn đến sự giảm giá nhanh tróng, đẩy lợi<br />
nhuận xuống đến mức mà nhiều doanh nghiệp<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (42) 2015<br />
<br />
bị thiệt hại đáng kể.<br />
Thiếu đầu tư vào mạng lưới truyền tải<br />
điện cũng có thể gây ra các vấn đề trong các<br />
dự án sắp tới. Quang điện mặt trời ở Trung<br />
Quốc được đặt tại khu vực phía tây tương đối<br />
kém phát triển. Do đó, Một mạng kết nối lưới<br />
điện cần thiết để truyền điện cho khu vực phía<br />
đông phát triển hơn, nơi mà nhu cầu về năng<br />
lượng lớn nhất. Tuy nhiên, trong những năm<br />
gần đây, đầu tư lưới điện chỉ đạt được 34,1%<br />
công suất yêu cầu. Một nhà máy điện năng<br />
lượng mặt trời 10 MW có thể được xây dựng<br />
trong vòng sáu tháng, trong khi một dự án<br />
truyền tải lưới điện có thể mất 3-4 năm. Với<br />
năng lượng mặt trời tiếp tục bùng nổ, vấn đề<br />
năng lực truyền tải này có thể là một nút cổ<br />
chai trong tương lai cản trở sự phát triển.<br />
Cơ sở sản xuất thiết bị năng lượng mặt<br />
trời lại gây ra ô nhiễm môi trường ở các địa<br />
phương. Nếu không được kiểm soát, quá trình<br />
sản xuất thiết bị năng lượng mặt trời có thể<br />
gây ra ô nhiễm không khí và nước. Do sự thiếu<br />
thực thi nghiêm túc các quy định về môi<br />
trường, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trong sản<br />
xuất và lợi nhuận biên thấp, nhiều công ty<br />
năng lượng mặt trời thường không đầu tư đúng<br />
mức trong việc kiểm soát ô nhiễm. Thay vào<br />
đó, các công ty có xu hướng dựa trên xử lý ở<br />
giai đoạn cuối của quá trình thải, chứ không<br />
phải là kiểm soát ô nhiễm trước đó, và đã có<br />
báo cáo rằng một số công ty thậm chí không<br />
thực hiện xử lý cuối công đoạn thải mà thải<br />
thẳng ra môi trường.<br />
Các chính sách:<br />
Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các<br />
chính sách thúc đẩy chính hiện nay là thông<br />
qua trợ giá năng lượng tái tạo (feed-in-tariff)<br />
cao: Ngày nay, các trang trại năng lượng mặt<br />
trời nhận mức trợ giá 1 nhân dân tệ cho mỗi<br />
kWh họ sản xuất, tương đương 100% mức tiền<br />
thưởng trên giá mà thủy điện hoặc nhà sản<br />
xuất điện than nhận được. Vì chi phí đầu tư và<br />
vận hành của năng lượng mặt trời đã giảm,<br />
mức khuyến khích vẫn ở mức 1 nhân dân tệ<br />
mỗi kWh, có nghĩa là một số lượng lớn các dự<br />
án đã có lợi nhuận. Điều này đã thúc đẩy sự<br />
phát triển mạnh mẽ gần đây của năng lượng<br />
mặt trời của Trung Quốc.<br />
Chính quyền địa phương cũng đã hỗ trợ<br />
giúp các công ty của họ để mở rộng nhanh<br />
chóng: Trong giai đoạn đầu, các nhà sản xuất<br />
<br />
167<br />
<br />
điện mặt trời của Trung Quốc đã nhận được sự<br />
hỗ trợ từ chính quyền địa phương bằng các<br />
hình thức hỗ trợ tài chính (bảo lãnh cho vay,<br />
vay ưu đãi, miễn giảm tiền thuê đất, giảm<br />
thuế…) và tiếp cận đất đai các khu vực rộng<br />
lớn đủ tiêu chuẩn về nắng mặt trời để xây<br />
dựng nhà máy điện (hỗ trợ giải phóng mặt<br />
bằng, thủ tục giao đất đầu tư…).<br />
Chính phủ tiếp tục cung cấp thêm ưu đãi<br />
cho các doanh nghiệp đầu tư vào R&D: Để<br />
tiếp tục cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp<br />
Trung Quốc cần phải tiếp cận với các công<br />
nghệ tiên tiến trên thế giới. Tăng cường đầu tư<br />
R&D có thể giúp phát triển và đổi mới trong<br />
điện mặt trời, chẳng hạn như xây dựng công<br />
trình có tích hợp lắp đặt sẵn các tấm quang<br />
điện mặt trời. Các nhà chức trách Trung Quốc<br />
đã cung cấp nhiều ưu đãi hơn cho phát triển<br />
R&D để khuyến khích sự gia tăng đầu tư:<br />
chẳng hạn như giảm thuế và tăng cường bảo<br />
hộ sở hữu trí tuệ.<br />
2.2. Điện Gió<br />
Thành công:<br />
Công suất điện gió của Trung Quốc hiện<br />
nay là lớn nhất thế giới, với hơn 90 GW công<br />
suất được lắp đặt trong nước (GWEC, 2014).<br />
Chỉ riêng tăng trưởng trong năm 2011 là 40%,<br />
với hơn 11.000 tuabin được lắp đặt (CWEA,<br />
2011). Tổng công suất điện lắp đặt của Trung<br />
Quốc trong năm 2011, 4,89% là điện gió, và<br />
lĩnh vực này thời gian gần đây đã trở thành<br />
nguồn năng lượng lớn thứ ba ở Trung Quốc<br />
(đứng sau nhiệt và thủy điện). Năm 2011 tổng<br />
đầu tư của Trung Quốc vào năng lượng gió<br />
đứng ở mức 30 tỷ USD, chiếm 42% đầu tư gió<br />
của thế giới.<br />
Điện gió ở Trung Quốc đang tập trung ở<br />
khu vực phía Bắc và phía Tây, khu vực Nội<br />
Mông dẫn đầu với hơn gần ba lần so với bất kỳ<br />
tỉnh hoặc khu tự trị khác về công suất lắp đặt<br />
tuabin trong năm 2011. Một số khu đã được<br />
phân bổ cho phát triển trang trại gió quy mô<br />
lớn. Dự án Gansu Jiuquan, nằm trên cạnh sa<br />
mạc Gobi, là trang trại gió lớn nhất thế giới,<br />
với công suất 10 GW, lớn hơn so với toàn bộ<br />
công suất lắp đặt của điện gió ở Vương quốc<br />
Anh. Các công ty năng lượng lớn cũng đang<br />
đầu tư lắp đặt các trang trai điện gió ngoài<br />
khơi. Trang trại điện gió đầu tiên của Trung<br />
Quốc - Shanghai Donghai Bridge với công<br />
suất 10MW - đã bắt đầu phát điện vào tháng 6<br />
<br />
168<br />
<br />
TRAO ĐỔI HỌC THUẬT VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC<br />
<br />
năm 2010. Trong khi công suất điện gió ngoài<br />
khơi nói chung vẫn còn thấp, tuy nhiên, các<br />
trang trại gió ở ngoài khơi có lợi thế là được<br />
nằm gần với đông dân cư ven biển tạo ra một<br />
cơ hội lớn cho điện gió ngoài khơi Trung<br />
Quốc.<br />
Sự bùng nổ của công suất điện gió đã<br />
được kết hợp với sự gia tăng trong sản xuất<br />
thiết bị trong nước. Một số công ty hàng đầu<br />
trên thế giới của Trung Quốc đã nổi lên trong<br />
sản xuất các tuabin gió. Các doanh nghiệp<br />
trong nước chiếm lĩnh hầu hết thị trường, với<br />
ba nhà sản xuất dẫn đầu chiếm hơn 50 phần<br />
trăm của thị trường. Các nhà sản xuất Trung<br />
Quốc đã cắt giảm chi phí sản xuất, kích thích<br />
sự phát triển. Chi phí xây dựng một trang trại<br />
điện gió ở Trung Quốc đã giảm khoảng 12%<br />
trong năm 2011 (Li et al, 2012.). Bằng cách<br />
làm cho điện gió có giá cả phải chăng hơn, các<br />
trang trại gió với các nguồn tài nguyên gió dồi<br />
dào trở nên khả thi hơn, mở đường cho đầu tư<br />
ngày càng gia tăng.<br />
Các nhà sản xuất thiết bị gió Trung Quốc<br />
chủ yếu dựa vào công nghệ nước ngoài được<br />
cấp phép nhưng họ ngày càng có những cải<br />
tiến tốt hơn cho sản phẩm. Người Trung Quốc<br />
đã có nhiều sáng tạo có khả năng tự xây dựng<br />
các tuabin ngoài khơi và đang xây dựng ngày<br />
càng nhiều với công suất 3 MW trở lên cho<br />
mỗi cột gió. Tuy nhiên, các nhà sản xuất<br />
Trung Quốc đã chủ yếu vẫn phải dựa trên giấy<br />
phép công nghệ của nước ngoài cho các sản<br />
phẩm của họ.<br />
Thách thức:<br />
Khả năng của truyền tải lưới điện đã<br />
không theo kịp với tốc độ tăng trưởng trong<br />
lắp đặt tuabin gió mới. Vào cuối năm 2011, 52<br />
GW công suất điện gió đã được lắp đặt mới,<br />
nhưng chỉ có 45 GW đã được kết nối với mạng<br />
lưới điện (CWEA, 2011). Hơn nữa, trong thời<br />
gian nhất định, các trang trại điện gió không<br />
thể truyền tải tất cả điện năng mà họ sản xuất<br />
do không có khả năng kết nối vào lưới điện<br />
quốc gia gây ra lãng phí. Phần lớn các dự án<br />
điện gió đang ở xa khu vực đông dân, và trong<br />
khi đường dây truyền tải mới đang được xây<br />
dựng, có một độ trễ đáng kể trước khi Trung<br />
Quốc có thể được hưởng lợi đầy đủ từ tất cả<br />
năng lực sản xuất từ năng lượng gió.<br />
Các nhà sản xuất Trung Quốc vẫn dựa<br />
vào nhập khẩu nước ngoài cho một số bộ phận<br />
<br />
công nghệ cao. Một báo cáo năm 2012 ước<br />
tính rằng 50% của giá trị gia tăng của các bộ<br />
phận quan trọng và linh kiện kỹ thuật cao được<br />
nhập khẩu (Li et al., 2012). Các hệ thống điều<br />
khiển, hệ thống thủy lực và vòng bi trục chính<br />
thường vẫn phải nhập khẩu. Vì vậy, tăng<br />
cường đầu tư cho R&D là hết sức quan trọng<br />
để các công ty Trung Quốc có thể tham gia sâu<br />
hơn vào chuỗi giá trị.<br />
Các ngành công nghiệp gió có thể bị<br />
đình trệ do thiếu nhân lực có trình độ. Gần đây<br />
một số ít trường đại học hiện đang cung cấp<br />
đào tạo chuyên ngành công nghệ gió. Với kế<br />
hoạch mở rộng đầy tham vọng năng lượng gió,<br />
chính phủ cần phải đảm bảo rằng hệ thống<br />
giáo dục đại học đào tạo kỹ sư đủ nhân lực cho<br />
sự phát triển năng lượng gió trong thời gian<br />
tới.<br />
Các chính sách:<br />
Các chính sách trợ giá năng lượng tái tạo<br />
(Feed-in-Tariff) đã thúc đẩy năng lượng gió<br />
phát triển: Các trang trại điện gió lắp đặt đầu<br />
tiên vào đầu những năm 2000 có thể nhận<br />
được mức thưởng 1,2 nhân dân tệ cho mỗi<br />
kWh. Về sau mức hỗ trợ trở thành quyết định<br />
của quá trình đấu thầu. Các dự án nhận được<br />
một biểu giá hỗ trợ cố định trong từ 0,51-0,61<br />
nhân dân tệ cho mỗi kWh, tùy thuộc vào vị trí<br />
lắp đặt.<br />
Các ưu đãi tài chính khác cũng được<br />
cung cấp cho các nhà sản xuất điện gió: các<br />
trang trại gió được giảm 50% thuế VAT cho<br />
điện sản xuất từ gió, trong khi giảm thuế cũng<br />
được áp dụng cho R&D vào các quá trình phát<br />
triển công nghệ mới (Zhang et al., 2009).<br />
Các tín hiệu chính sách rõ ràng để phát<br />
triển điện gió được đảm bảo duy trì lâu dài.<br />
Chính sách hỗ trợ mạnh mẽ thông qua các mục<br />
tiêu đầy tham vọng và các ưu đãi về tài chính,<br />
hỗ trợ giá cao, là động lực chính của sự tăng<br />
trưởng này. Chính phủ duy trì tiếp tục hỗ trợ<br />
các chính sách rõ ràng này.<br />
2.3. Năng lượng sinh học<br />
Thành công:<br />
Đầu tư và sinh khối (biomass) ngày càng<br />
mạnh mẽ và mục tiêu đầy tham vọng đã được<br />
thiết lập trong thập kỷ tiếp theo của Trung<br />
Quốc. Các dự án sinh khối có xu hướng được<br />
đặt tại khu vực sản xuất nông nghiệp, nơi<br />
nguyên liệu có rất sẵn. Ở Trung Quốc, các<br />
vùng đất màu mỡ nhất nằm ở các tỉnh ven biển<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (42) 2015<br />
<br />
phía đông, nơi đó cũng là nhu cầu cao nhất về<br />
năng lượng, vì vậy phần lớn các dự án đã được<br />
xây dựng ở đây. Các dự án khí sinh học<br />
(biogas), đặc biệt là sử dụng chất thải động vật<br />
để sản xuất điện, cũng có sự tăng trưởng mạnh<br />
mẽ. Từ năm 2008 đến 2010, lượng sản xuất<br />
hàng năm của khí sinh học này đã tăng gấp đôi<br />
(Ma et al., 2012). Các dự án khí sinh học thu<br />
khí metan được sản xuất từ chất thải nông<br />
nghiệp hay công nghiệp và sử dụng khí đốt<br />
này chuyển đổi thành năng lượng hữu ích,<br />
thường là điện. Với nhu cầu gia tăng về thịt ở<br />
Trung Quốc tiềm năng khí sinh học từ chất<br />
thải động vật có cơ hội phát triển đặc biệt<br />
mạnh mẽ.<br />
Dự án khí sinh học sử dụng nước thải<br />
công nghiệp đang trở nên ngày càng thông<br />
dụng. Trong ngành rượu, axit và giấy, công ty<br />
có thể thu được metan từ quá trình công<br />
nghiệp và biến nó thành năng lượng. Các dự<br />
án sử dụng phương pháp phân hủy kỵ khí, và<br />
có thể cung cấp điện lại cho các nhà máy sử<br />
dụng bên trong doanh nghiệp hoặc bán lại vào<br />
lưới điện quốc gia.<br />
Việc sử dụng nhiên liệu sinh học lỏng<br />
như ethanol sinh học và dầu diesel sinh học<br />
cũng có được bước phát triển. Việc sản xuất<br />
nhiên liệu sinh học ethanol được pha trộn với<br />
xăng cho xe ô tô điện đã tăng gấp đôi từ năm<br />
2005 đến năm 2010. Trung Quốc chỉ lên kế<br />
hoạch sản xuất là 10 triệu tấn từ ethanol sinh<br />
học và 2 triệu tấn so với dầu diesel sinh học,<br />
chỉ bằng hơn 10% so với các mục tiêu của Hoa<br />
Kỳ (Ji và Yu, 2008).<br />
Thách thức:<br />
Thách thức chủ yếu cho sản xuất sinh<br />
khối chính là chi phí nguyên liệu. Khi nồi hơi<br />
sinh khối điện và máy phát điện khi sản xuất<br />
đại trà, giá đã giảm tới mức hợp lý, nhưng chi<br />
phí chủ yếu hiện nay là nguyên liệu. Trong khi<br />
đó, rơm rạ là tương đối hợp lý, chi phí của các<br />
nguyên liệu sinh học khác, chẳng hạn như lõi<br />
ngô và vỏ đậu phộng, vẫn còn cao ở Trung<br />
Quốc.<br />
Sự bùng nổ về số lượng các nhà máy<br />
sinh khối đã dẫn đến tình trạng khan hiếm<br />
nguyên liệu ngày càng tăng trong một số khu<br />
vực nhất định như rơm rạ, vỏ đậu phộng. Điều<br />
này đẩy giá của các nguyên liệu mà chiếm tới<br />
hơn 70% của chi phí hoạt động sản xuất điện<br />
sinh khối lên cao (Ma et al., 2012). Giá nguyên<br />
<br />
169<br />
<br />
liệu cao làm cho nhiều nhà máy không có lợi<br />
nhuận.<br />
Chi phí ethanol sinh học cũng khá cao ở<br />
Trung Quốc, trong khi cái giá bán của nhiên<br />
liệu sinh học là tương đối thấp. Hiện nay, chi<br />
phí sản xuất ethanol sinh học ở Trung Quốc là<br />
17% cao hơn so với ở Hoa Kỳ, nhưng cái giá<br />
bán của ethanol sinh học là 18% thấp hơn.<br />
Điều này có nghĩa là lợi nhuận thấp cho các<br />
công ty muốn đầu tư vào sản xuất nhiên liệu<br />
sinh học.<br />
Các chính sách:<br />
Chính sách trợ giá năng lượng tái tạo đã<br />
được áp dụng rộng rãi cho các dự án sinh khối<br />
và metan sinh học. Chính phủ Trung Quốc đã<br />
trợ cấp 0,75 nhân dân tệ mỗi kWh cho tất cả<br />
điện sản xuất từ sinh khối và khí sinh học<br />
trong năm 2011. Chính sách này đã dẫn đến sự<br />
bùng nổ xây dựng của cả hai loại dự án sinh<br />
khối và khí sinh học, và cung cấp một môi<br />
trường đầu tư ổn định cho các nhà đầu tư.<br />
Cơ chế phát triển sạch (CDM) cũng đã<br />
cung cấp thêm thu nhập cho người sản xuất<br />
năng lượng sinh học. Đến cuối năm 2012, hơn<br />
150 dự án sinh khối và gần 100 dự án thu<br />
metan áp dụng được tài trợ theo CDM, nơi các<br />
dự án nhận được một mức tiền cho mỗi tấn<br />
carbon giảm được. Tất cả các dự án này có<br />
công suất lắp đặt hơn 4 GW và 6 tỷ USD vốn<br />
đầu tư (UNEP, 2013).<br />
Do lo ngại về an ninh lương thực, các<br />
nhà chức trách Trung Quốc đã cung cấp mức<br />
hỗ trợ ít hơn cho nhiên liệu sinh học. Các nhà<br />
hoạch định chính sách Trung Quốc đang phải<br />
theo dõi các mối đe dọa của các dự án năng<br />
lượng sinh học vào phần lương thực. Thiếu đất<br />
canh tác và các vấn đề về thực thi chính sách ở<br />
các cấp địa phương có nghĩa là chính quyền<br />
tăng cường sự chú ý tới các mối đe dọa sản<br />
xuất nhiên liệu sinh học trên đất nông nghiệp<br />
thực phẩm.<br />
Trung Quốc khuyến khích tăng cường<br />
đầu tư R&D vào năng lượng sinh học bền<br />
vững. Trung quốc đang tập trung nghiên cứu<br />
nhằm tìm ra loai cây trồng có thể sử dụng là<br />
nhiên liệu sinh học nhưng không đe dọa an<br />
ninh lương thực. Thông qua nghiên cứu khoa<br />
học và đầu tư vào R&D thêm vào nhiên liệu<br />
thay thế, năng lượng sinh học có tiềm năng để<br />
đóng một phần quan trọng trong tương lai<br />
năng lượng của Trung Quốc.<br />
<br />